Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.82 MB, 201 trang )
3
triển, đang phát triển cũng đƣợc đề cập nhiều trong các nghiên cứu của Levin &
Ritter (2007), Sunley (2008), Poddar (2010).
Thứ nhất: vấn đề “thuế tối ƣu” đối với lĩnh vực tài chính
Lý thuyết “thuế tối ƣu” đƣợc đề xuất áp dụng đối với thuế vốn và thuế hoạt
động tài chính. Các tác giả Boadway & Keen (1995) đã đánh giá những hiệu quả
chính từ việc cải cách thuế đối với các hoạt động trên TTTC. Quan điểm xuyên
suốt nghiên cứu này luôn xem thuế đối với khu vực tài chính là một cấu phần
không thể tách rời trong một hệ thống thuế tối ƣu nhằm mục đích gia tăng thu
NSNN. Đề cập đến ảnh hƣởng của thuế tối ƣu đến ngân sách của nhà nƣớc,
Caminal (1998) đã đề xuất một mô hình dự báo tác động của các hình thức thuế
khác nhau đối với lĩnh vực ngân hàng đến trạng thái cân bằng ngân sách. Theo đó,
chính sách thuế khuyến khích tiết kiệm sẽ tác động trực tiếp tới các trung gian tài
chính. Các doanh nghiệp khi thực hiện những dự án rủi ro cao thƣờng ƣa thích
khoản tín dụng đầy đủ thông tin (vay ngân hàng) hơn là các hình thức tín dụng
thiếu thông tin (thƣơng phiếu) hay tiếp cận vốn từ TTCK. Nghiên cứu của Caminal
đƣa ra các kết luận:
(i) Thuế đối với tiền gửi: thuế tiền gửi không tác động tới lãi suất cho vay hoặc huy
động trong điều kiện nhất định. Nhƣng nó có xu hƣớng làm giảm quy mô tiền gửi
và khuyến khích các hình thức đầu tƣ khác. Tuy nhiên, ở một mức thuế suất nhỏ sẽ
không tạo ra biến dạng nào đối với quyết định tiết kiệm. Thuế tiền gửi cũng tạo ra
sức ép khiến ngân hàng phải lựa chọn đầu tƣ vào các danh mục có rủi ro cao hơn.
(ii) Thuế đánh vào khoản cho vay của ngân hàng: làm giảm lƣu lƣợng cho vay và
tạo ra xu hƣớng chuyển hƣớng huy động vốn trên TTCK và các kênh huy động
khác. Nếu TTCK hoạt động hiệu quả thì tốc độ giảm cũng nhanh chóng hơn. Ở
những quốc gia mà ngân hàng cạnh tranh độc quyền trong thị trƣờng vốn thì thuế
đánh trên khoản vay ngân hàng có thể do chủ sở hữu ngân hàng chịu.
(iii) Thuế thu nhập vốn: làm giảm lƣợng tiền gửi do khả năng nhà đầu tƣ (NĐT)
sẵn sàng trả phí cho các dịch vụ ngân hàng gia tăng theo thu nhập khả dụng của họ.
4
Loại thuế này cũng làm tăng khoảng cách giữa lợi ích cận biên của đầu tƣ và tiết
kiệm.
Trong khoảng thời gian đó, Jappelli và Pistaferri (1996) đã nghiên cứu và
phát hiện ra hiệu quả của chính sách thuế khuyến khích tiết kiệm và chứng minh
thực nghiệm tại một số nƣớc cụ thể. Nghiên cứu “Ƣu đãi thuế đối với tiết kiệm và
cho vay hộ gia đình” tìm hiểu những động lực chính khuyến khích tiết kiệm hộ gia
đình. Nghiên cứu đã đƣa ra 2 luận cứ cho việc khuyến khích tiết kiệm: (i) Tại các
nền kinh tế “đóng” hoặc bị hạn chế tự do hoá di chuyển dòng vốn, tiết kiệm tăng sẽ
giúp tăng cƣờng vốn đầu tƣ cho sản xuất kinh doanh (SXKD), tạo động lực cho
phát triển kinh tế. (ii) Phát triển quỹ hƣu trí và bảo hiểm nhân thọ, có thể mang lại
tác động tích cực tới sự đa dạng và hiệu quả của hệ thống tài chính. Ngƣợc lại với
lý thuyết, sự đồng thuận trong thực tế khá thấp. Bởi lẽ, Nhà nƣớc áp dụng ƣu đãi
thuế để khuyến khích tiết kiệm, quỹ hƣu trí tự nguyện hay các sản phẩm bảo hiểm
nhân thọ thông qua việc miễn thuế cho lãi tiền gửi tiết kiệm, miễn thuế đối với các
khoản tiền phí tích lũy hoặc bảo tức thì quyết định tiết kiệm cuối cùng vẫn tuỳ vào
ý chí của cá nhân, hộ gia đình bởi họ phải đối mặt với bài toán cơ cấu tiêu dùng và
tiết kiệm. Ở các nƣớc đang phát triển, thông thƣờng những ngƣời thuộc cận trên
của phân phối thu nhập mới có điều kiện về nguồn lực tài chính và thông tin để tận
dụng đƣợc ƣu đãi trong khi những ngƣời còn lại thì không. Chƣa kể đến là trong
thực tế không phải loại thuế nào cũng đạt đƣợc tính trung lập kinh tế. Ƣu đãi thuế
cũng làm giảm thu NSNN. Trong nhiều trƣờng hợp, thay vì khuyến khích, Nhà
nƣớc đã áp dụng chƣơng trình hƣu trí bắt buộc chứ không ƣu tiên sử dụng chính
sách thuế cho mục tiêu thúc đẩy tiết kiệm tự nguyện.
Nghiên cứu của Jappelli & Pistaferri tổng kết lại bằng một thực tế tại các
nƣớc đang phát triển, chi phí giao dịch tài chính thƣờng rất cao. Chi phí này chứa
đựng phí "làm luật " - mà tại nhiều quốc gia chúng đƣợc gọi là một loại thuế giao
dịch "ẩn danh" (Djankov et al., 2002). Điều này hàm ý rằng lợi tức và ƣu đãi thuế
5
đối với tiết kiệm có thể đƣợc cải thiện bằng cách tạo lập môi trƣờng kinh doanh
thực sự cạnh tranh và hiệu quả mà không cần dùng đến các công cụ thuế.
Thứ hai, nghiên cứu về từng loại thuế cụ thể đối với lĩnh vực tài chính
Nghiên cứu từng sắc thuế hoặc loại thuế đối với hoạt động DVTC, có thể kể
đến nghiên cứu của các tác giả Honoban (1994), Kirilenko & Summers (2006),
Sunley (2008), Habermeier & Kirilenko (2008), Poddar (2010).
* Thuế giao dịch chứng khoán: bàn về tác động của thuế giao dịch chứng khoán đối
với TTTC, nghiên cứu của Habermeier và Kirilenko (2008) luận giải về cách thức
những khoản thuế giao dịch chứng khoán dù rất nhỏ vẫn có khả năng tác động tới
khối lƣợng giao dịch công cụ tài chính có liên quan. Một số kết luận quan trọng
nhƣ: (i) Trên thị trƣờng bán buôn, hoạt động giao dịch có thể tạo thuận lợi cho việc
củng cố thanh khoản, nhận định giá và bình ổn giá. Nếu NĐT không thể thực hiện
đƣợc giao dịch mong muốn, nguồn lực không thể đƣợc phân bổ, sử dụng một cách
tối ƣu. (ii) Áp dụng thuế giao dịch chứng khoán càng làm tăng biến động giá giao
dịch. Biến động giá đƣợc giải thích thông qua sự thay đổi của: thông tin công bố,
thông tin riêng tƣ, chi phí giao dịch và những rào cản thị trƣờng khác. Giả định
những yếu tố khác không đổi, chi phí giao dịch tăng sẽ càng làm tăng bất ổn về giá.
(iii) Khi thuế giao dịch chứng khoán đƣợc thực thi, nhu cầu đối với chứng khoán
phái sinh có thể tăng mạnh. (iv) Nếu khối lƣợng giao dịch sẵn có nội dung thông
tin, một sự dịch chuyển giao dịch sẽ làm giảm hiệu quả về mặt thông tin của các
công cụ và thị trƣờng. Nhƣ thế, thuế có thể làm hạn chế hiệu quả thông tin thị
trƣờng. Nghiên cứu cũng chỉ ra chi phí thực hiện tại các thị trƣờng khác nhau cho
thấy: các loại chi phí giao dịch cổ phiếu nhƣ hoa hồng môi giới, thuế và phí chiếm
gần 2/3 tổng chi phí thực hiện. Từ đó, nghiên cứu kết luận rằng chi phí giao dịch
tăng cao (một phần do áp dụng thuế giao dịch chứng khoán) sẽ làm tăng biến động
giá và làm giảm khối lƣợng giao dịch chứng khoán.
* Thuế ghi nợ ngân hàng: nghiên cứu "Thuế ghi nợ ngân hàng: lợi nhuận hay loại
bỏ trung gian" của Kirilenko và Summers (2006) xem xét khá toàn diện thực tiễn
6
áp dụng thuế ghi nợ ngân hàng (Bank account debits tax - BADT) tại các nƣớc
Châu Mỹ Latin. Mặc dù thuế cho thấy hiệu quả cao trong việc tạo nguồn thu cho
ngân sách trong ngắn hạn nhƣng nó cũng gây ra các tổn thất xã hội. Sử dụng dữ
liệu của Brazil, Colombia, Ecuador và Venezuela, nghiên cứu chỉ ra rằng, ở mức
thuế suất cao, khoản thuế thu đƣợc tƣơng đƣơng với những tổn thất của xã hội. Sau
khi áp dụng thuế này, tổn thất xã hội ƣớc tính đối với Venezuela là 30%, Colombia
là 35% và Ecuador là 45%, thể hiện rõ nhất là lƣợng tiền rút khỏi các ngân hàng.
Hệ thống ngân hàng Venezuela bị giảm 28% trong tổng vốn huy động, tại
Colombia là 41% và tại Ecuador là 47%. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng cả tổn thất xã
hội đƣợc tích luỹ dần theo thời gian khi biểu thuế này đƣợc giữ nguyên. Những
phát hiện này ủng hộ quan điểm cho rằng với mức thuế suất thấp xét trong một
khoảng thời gian xác định, thuế ghi nợ ngân hàng có thể đƣợc sử dụng nhƣ là một
biện pháp nhanh chóng và hiệu quả để tạo ra nguồn thu, trong khi việc triển khai
chính sách thuế truyền thống còn nhiều vấn đề phải cải thiện. Song với mức thuế
suất cao hay áp dụng trong khoảng thời gian đủ dài, thuế ghi nợ có thể sẽ tác động
rất mạnh tới lƣợng vốn của ngân hàng.
* Thuế lạm phát: nghiên cứu của Honohan (1994) cho thấy nhƣng bằng chứng
thuyết phục về thuế lạm phát cũng nhƣ thảo luận mở rộng về cơ chế tƣơng tác giữa
thuế lạm phát và các loại thuế khác ảnh hƣởng tới quy mô và lợi nhuận của các
trung gian tài chính.
* Chủ đề trích lập dự phòng rủi ro tín dụng: Sunley (2008) tập trung thảo luận về
nguyên tắc trích lập dự phòng rủi ro tín dụng và những vấn đề liên quan trong "Xử
lý thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) đối với khoản dự phòng tổn thất tín dụng".
Khẳng định, không có một thông lệ chuẩn nào trên thế giới hƣớng dẫn xử lý các
khoản tổn thất tín dụng của ngân hàng cho mục đích thuế. Một số nƣớc áp dụng
phƣơng pháp dự phòng nhƣ cho phép trích lập dự phòng rủi ro tín dụng và tính vào
chi phí thuế. Nhƣng còn nhiều quan điểm về không cho khấu trừ hay cho khấu trừ
thuế thích hợp dành cho dự phòng tổn thất tín dụng, một số cho rằng mọi khoản dự
7
phòng nên đƣợc khấu trừ thuế. Nhƣng với giả định các ngân hàng đang thực hiện
trích lập dự phòng thận trọng, nghiên cứu này nhìn nhận rằng quy định về thuế đối
với dự phòng tổn thất tín dụng phải gắn chặt với quy tắc bảo đảm an toàn tín dụng.
Theo đó, khấu trừ thuế không nên áp dụng đối với dự phòng chung cho các khoản
vay.
Thứ ba, nghiên cứu thực nghiệm thực hiện ở từng nhóm nƣớc
Tại các nước công nghiệp phát triển: Nghiên cứu "Thuế trung gian tài chính
của các nƣớc công nghiệp" của Levin & Ritter (2007) về quá trình cải cách thuế đối
với trung gian tài chính tại các nƣớc công nghiệp phát triển kể từ thập niên 80 2007
chỉ ra rằng các nƣớc luôn cố gắng cải thiện hiệu quả của thuế bằng cách cắt giảm
thuế suất và mở rộng các căn cứ tính thuế bằng cách thu hẹp phạm vi miễn thuế,
đồng thời tạo ra các chính sách ƣu đãi thuế tiết kiệm mới. Cũng tại đây, xu hƣớng
toàn cầu hóa cùng mức độ co dãn cung ứng vốn cao càng gây ra nhiều khó khăn đối
với việc đánh thuế thu nhập vốn. Mặc dù vậy, chính sách thuế đối với thu nhập vốn
vẫn đƣợc áp dụng trên diện rộng, với quy mô lớn thay vì việc cắt giảm thuế thu
nhập vốn. Lý do đƣợc chỉ ra là thể chế chính trị, sự trì trệ trong đổi mới hệ thống
chính sách và có thể thiếu những nỗ lực để tiến xa hơn trong việc giảm thuế. Sau
cùng, mọi cải cách thƣờng là sự thể hiện của việc thay đổi để phù hợp với sự phát
triển của các công cụ tài chính.
Tại các nước đang phát triển: nhà kinh tế học Cardoso trong nghiên cứu của
ông về "Thuế đúc tiền, dự trữ bắt buộc và khoảng cách phát triển ngân hàng tại
Brazil" (2005), đã cho thấy hạn chế trong quá trình phát triển hệ thống tài chính
nƣớc này, cụ thể là còn thiếu các công cụ tài chính kỳ hạn. Lãi suất huy động trong
nƣớc ở mức cao - ngay cả khi đồng nội tệ mất giá nghiêm trọng do nợ công và
những bất ổn chính trị. Những điều chỉnh tài khoá dài hạn bằng công cụ thuế sẽ góp
phần củng cố tín nhiệm của chính sách vĩ mô và hạ lãi suất. Việc áp dụng công
nghệ chấm điểm tín dụng và thông tin tín dụng đã giúp cải thiện khả năng tiếp cận
cho các doanh nghiệp nhỏ. Phân tích của Cardoso cũng chỉ ra rằng các nƣớc đang
8
phát triển với hệ thống thuế còn đơn giản cần có những bƣớc đi mạnh bạo hơn,
chẳng hạn nhƣ tạo ra một hệ thống thuế dựa trên tiêu dùng là chủ yếu thay vì đánh
trực tiếp vào thu nhập. Tuy nhiên, kinh nghiệm cải cách thuế của Ý, Croatia cho
thấy, đôi khi sáng kiến cải cách táo bạo bị giới hạn bởi nhiều các yếu tố chính trị.
Nói tóm lại, các nghiên cứu nƣớc ngoài thời gian qua đã bỏ ngỏ khả năng của
chính sách thuế với việc khắc phục những thất bại của thị trƣờng, một số lập luận
còn chƣa trọn vẹn. Khi nói về biến động TTTC tác giả chú ý đến biến động giá.
Nhƣng sự biến động này có thể hàm ý là TTTC có thể tự thích nghi nhanh hơn các
thị trƣờng khác. Tức là, chính sách thuế đối với hoạt động của ngành tài chính là
một công cụ hiệu chỉnh hữu hiệu. Các sắc thuế đối với khu vực tài chính có thể làm
tăng tính biến động thị trƣờng, khuyến khích “pha loãng thị trƣờng”, (Hubbard,
1993). Khi bàn về tác động của thuế đối với khả năng chịu rủi ro, Broadway &
Keen cũng chƣa thể làm rõ khía cạnh liên quan tới thiết kế chính sách thuế tối ƣu:
cho tới khi nào còn tồn tại sự bất định trong các mô hình phát triển tài chính, rủi ro
tổng hợp sẽ khó có thể đƣợc xác định và các bên tham gia sẽ vẫn bàng quan với rủi
ro (risk-neutral). Nói chung, khi thị trƣờng rủi ro, vẫn sẽ có chỗ cho những can
thiệp cải thiện phúc lợi, tuy nhiên điều này phụ thuộc chủ yếu vào việc liệu chính
phủ có thể chịu đựng rủi ro tốt hơn so với khu vực tƣ nhân không? Nhƣng thực
tiễn, đáp án thƣờng là “không”. Ở một số nƣớc, đặc biệt là nƣớc đang phát triển đã
sử dụng chính sách thuế và một số biện pháp khác nhằm thúc đẩy phát triển lĩnh
vực tài chính. Mặc dù, chính sách này bị chỉ trích là đặt không đúng chỗ. Tuy
nhiên, khi TTTC có những dấu hiệu rủi ro nhƣ nợ xấu cao, nhiều tổ chức tài chính
yếu kém, Nhà nƣớc thƣờng sử dụng các biện pháp tác động đến quản trị doanh
nghiệp nhƣ hợp nhất, mua bán, sáp nhập thay vì sử dụng chính sách thuế.
Thiết kế chính sách thuế với các DVTC đƣợc đƣa ra bàn luận nhiều nhƣng
vấn đề thực thi chính sách thuế gần nhƣ không đƣợc đề cập trong các nghiên cứu
gần đây. Đối với hoạt động DVTC, nơi chứa đựng nhiều tổ chức tài chính rất
chuyên nghiệp, công nghệ tài chính hiện đại, nhân sự có truyên môn sâu về tài
9
chính ngân hàng, khả năng tận dụng các kẽ hở của chính sách thuế để tiết kiệm thuế
là hoàn toàn có thể. Thêm vào đó, hội nhập tài chính cho phép sự góp mặt của trung
gian tài chính nƣớc ngoài. Nhƣ thế, hành vi trốn thuế có thể đƣợc thực hiện tƣơng
đối dễ dàng hơn khi vốn, chi phí, doanh thu dễ dàng luân chuyển toàn cầu. Chƣa kể
đến, thuế áp dụng đối với lĩnh vực DVTC có thể dẫn đến nguy cơ gia tăng các giao
dịch tiền mặt thay vì các hình thức giao dịch không dùng tiền mặt, gây khó khăn
cho công tác kiểm soát thuế hơn. Điều này chắc chắn sẽ có tác động không tốt tới
quản lý thu thuế: hạn chế khả năng thu hoặc chi phí hành thu tăng cao. Những vấn
đề trên dƣờng nhƣ bị bỏ ngỏ trong nghiên cứu trƣớ đây.
2.2. Tổng quan nghiên cứu trong nƣớc
Ở Việt Nam, thuế là chủ đề nghiên cứu đƣợc đề cập rất đa dạng. Nhiều
nghiên cứu về thuế xoay quanh các chủ đề nhƣ xác định cơ sở thuế, mức thuế,
chính sách ƣu đãi cũng nhƣ quản lý thuế v.v.
Nhóm tác giả Nguyễn Văn Hiệu, Nguyễn Thị Liên (2008) trong cuốn “giáo
trình nghiệp vụ thuế” đã tập trung vào việc cung cấp công cụ tính thuế đối với hầu
hết các loại thuế ở Việt Nam. Cùng chủ đề đó, tiếp cận theo hƣớng hệ thống thuế
hiện hành ở Việt Nam, trong cuốn “Thuế thực hành” của tác giả Nguyễn Thị Mỹ
Linh (2008) đã cho thấy cái nhìn toàn diện về toàn bộ chính sách thuế cũng nhƣ
vấn đề quản lý thuế nói chung. Tác giả Đỗ Đức Minh, Nguyễn Việt Cƣờng (2007,
2010) trong cuốn giáo trình “Lý thuyết thuế” hệ thống hóa đầy đủ lý luận về thuế,
gồm các nguyên lý, nguyên tắc, phƣơng pháp đánh thuế cũng nhƣ những tác động
kinh tế của thuế. Tƣơng tự, tác giả Hoàng Văn Bằng (2009) trong sách chuyên khảo
“Lý thuyết và chính sách thuế” ngoài việc nêu lên khuôn khổ lý thuyết về thuế,
điểm đặc biệt là đề cập rất chi tiết đến chính sách thuế trong thực tiễn ở các nƣớc
trên thế giới. Tác giả Lê Xuân Trƣờng (2010) lại hƣớng sự tập trung vào các vấn đề
về quản lý thuế, trong cuốn giáo trình “Quản lý thuế”, tác giả đã cho thấy một cách
toàn diện các vấn đề cả về lý thuyết và thực tiễn quản lý thuế, nó không đơn thuần
chỉ là việc thực hiện các thủ tục hành chính thuế, thay đổi cơ chế tính thuế mà
10
những khía cạnh nhƣ thanh kiểm tra, tuyên truyền, hỗ trợ ngƣời nộp thuế (NNT)
cũng đƣợc nhìn nhận thấu đáo.
Nhìn chung, các nghiên cứu này đƣợc thực hiện công phu, là tài liệu tham
khảo rất có giá trị. Mặc dù vậy, do nghiên cứu dựa trên nhiều văn bản pháp luật nên
điểm hạn chế chung của các nghiên cứu này là dù đã có nhiều sửa đổi quan trọng
chƣa đƣợc cập nhật lại. Ngoài ra, khi tập trung vào các vấn đề thuế nói chung, ở
lĩnh vực cụ thể đòi hỏi hƣớng nghiên cứu gắn với đặc trƣng ngành, lĩnh vực thì các
tài liệu này chƣa đề cập một cách đầy đủ.
Nhiều công trình luận án tiến sĩ của các tác giả trong nƣớc đã thay đổi hƣớng
nghiên cứu theo cách đi vào từng ngành, lĩnh vực, hoạt động cụ thể hoặc chỉ nghiên
cứu riêng từng sắc thuế trong điều kiện, bối cảnh nghiên cứu khác nhau nhƣ “Hoàn
thiện chính sách thuế thu nhập ở Việt Nam phù hợp với quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế”, Nguyễn Xuân Sơn (2007), “Hoàn thiện hệ thống chính sách thuế ở Việt
Nam trong điều kiện gia nhập WTO”, tác giả Vƣơng Thu Hiền (2008), “Quản lý
thuế ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế” tác giả Nguyễn Thùy
Dƣơng (2011) v.v. Các nghiên cứu này về thuế đƣợc đặt trong bối cảnh cụ thể.
Nhƣng dƣờng nhƣ, ở khía cạnh liên quan đến ngành, lĩnh vực, ít có nghiên cứu nào
tìm ra mối tƣơng đồng giữa các nhóm đối tƣợng chịu thuế, hoặc nhóm đối tƣợng
nộp thuế. Trong lĩnh vực DVTC, nơi tập trung nhiều tổ chức tài chính trung gian,
với đặc thù rủi ro cao, dịch vụ đƣợc tạo ra và tiêu dùng ngay, quá trình cung cấp và
sử dụng dịch vụ luôn luôn là sự kết hợp đồng thời giữa khách hàng – nhân viên –
công nghệ tài chính, cũng mới xuất hiện một số ít các nghiên cứu bắt đầu hƣớng
vào một số loại thuế cụ thể hoặc chỉ nghiên cứu trong một lĩnh vực DVTC.
Tác giả Nguyễn Thị Mai Chi (2012) trong luận án tiến sĩ “Nghiên cứu chính
sách thuế GTGT đối với các dịch vụ tài chính” đã nhận định xác đáng về một số lý
do chủ yếu khi chính sách thuế GTGT ở Việt Nam không đƣa DVTC vào diện chịu
thuế. Một trong những lý do cơ bản của việc không đánh thuế này mà nghiên cứu
chỉ ra là do DVTC khó xác định giá trị tăng thêm. Cũng từ đây, nghiên cứu gợi mở,
11
đề xuất DVTC vào diện chịu thuế và xác định căn cứ tính thuế GTGT là tiền lƣơng
cộng với lợi nhuận của các tổ chức cung cấp DVTC. Nghiên cứu này cho thấy sự
ủng hộ với việc đánh thuế GTGT vào các DVTC để đảm bảo tính chất công bằng,
đồng đều với nhiều các lĩnh vực khác. Tuy nhiên, với việc xác lập căn cứ tính thuế
chỉ dựa vào tiền lƣơng cộng với lợi nhuận của các tổ chức tài chính thì tính khả thi
khó đạt đƣợc trong điều kiện hiện nay, bởi lẽ thuế GTGT thƣờng đƣợc xác định
hàng tháng, một số trƣờng hợp là theo quý. Thuế GTGT đầu vào của kỳ tính thuế
nào sẽ khấu trừ toàn bộ trong kỳ tính thuế đó. Nhƣng nếu xác định thuế đầu ra dựa
vào tỷ lệ % của tiền lƣơng cộng với lợi nhuận theo đề xuất của tác giả thì rất khó
cho các tổ chức tài chính vì lợi nhuận thƣờng không xác định từng tháng mà ít nhất
cũng tạm tính theo quý, còn thông thƣờng là ghi nhận hàng năm. Việc ghi nhận
doanh thu, lợi nhuận cũng khó đạt đƣợc sự phù hợp với các nguyên tắc kế toán đã
có. Nghiên cứu cũng bỏ qua chính sách thuế GTGT đối với các dịch vụ bảo hiểm.
Nghiên cứu trong lĩnh vực chứng khoán, tác giả Nguyễn Thị Thuận (2009)
trong luận án tiến sĩ của mình đã chỉ ra rằng việc đánh thuế đối với hoạt động kinh
doanh chứng khoán có thể làm thay đổi quyết định đầu tƣ của các NĐT trong hoạt
động thị trƣờng, chẳng hạn đánh thuế thu nhập cá nhân (TNCN) dựa trên thu nhập
ròng mà NĐT có đƣợc từ việc mua bán chứng khoán có thể hạn chế các giao dịch
ngắn hạn, thay vào đó là các hình thức đầu tƣ trung và dài hạn. Bởi lẽ nếu đầu tƣ
theo kiểu ngắn hạn, nhiều trƣờng hợp bị lỗ vẫn phải nộp thuế.
Có thể nhận thấy, những công trình nghiên cứu này mới đề cập chính sách
thuế cho một loại hình cụ thể, chủ yếu là các dịch vụ thuộc lĩnh vực chứng khoán,
chƣa đi sâu vào khía cạnh chính sách thuế đối với các DVTC, phát hiện ra những
đặc trƣng của nó chi phối đến việc thiết lập và thực thi chính sách thuế, hoặc xét
đến các yếu tố nhƣ mức độ mở cửa hội nhập ngày càng sâu rộng của DVTC.
2.3 Khoảng trống tri thức và bối cảnh nghiên cứu mới
2.3.1 Khoảng trống tri thức
12
Các nghiên cứu trƣớc đây, cả trong và ngoài nƣớc đều đƣợc thực hiện rất
công phu, đã đóng góp lớn trong việc hình thành cơ sở lý luận cũng nhƣ nghiên cứu
thực tiễn về chính sách thuế đối với các DVTC. Nhƣng vì đặt trong các điều kiện
nghiên cứu cụ thể nên vẫn còn có khoảng trống nghiên cứu nhất định nhƣ:
- Chƣa khai thác và phân tích một cách có hệ thống chính sách thuế đối với các
DVTC chủ yếu đặt trong bối cảnh quốc gia hội nhập sâu sắc trong một cộng đồng
kinh tế, tức là hoạt động giao dịch tài chính lúc này chủ yếu đƣợc tiến hành xuyên
biên giới, và cả những giải pháp hỗ trợ cho thực tế này hầu nhƣ đƣợc đề cập tới.
- Về các nghiên cứu thực tiễn, do các mục tiêu quản lý của Chính phủ mỗi nƣớc là
khác nhau, nên việc đánh giá chính sách hay khuôn khổ thuế đối với DVTC nào là
kiểu mẫu tối ƣu nhất vẫn là một câu hỏi còn bỏ ngỏ.
2.3.2 Chủ đề, câu hỏi và bối cảnh nghiên cứu mới
Sự thay đổi nhanh chóng của khu vực DVTC; quá trình tái cấu trúc các ngân
hàng, chứng khoán, bảo hiểm; mức độ mở cửa ngày càng sâu của thị trƣờng DVTC
trong nƣớc so với thế giới đã khiến cho chính sách thuế với DVTC bộc lộ nhiều
hạn chế, thậm chí nhiều điểm trong chính sách không còn phù hợp với thông lệ,
chƣa thể hiện đầy đủ vai trò của thuế. Trong phạm vi nghiên cứu của luận án tiễn
sĩ, đề tài “Hoàn thiện chính sách thuế đối với các dịch vụ tài chính ở Việt Nam” đã
đƣợc chọn để thực hiện nhằm nghiên cứu các câu hỏi chính: (1) Chính sách thuế
đối với các DVTC có những đặc trƣng gì; đặc thù của lĩnh vực DVTC đặt ra yêu
cầu gì với việc hoàn thiện chính sách thuế. (2) Những tồn tại căn bản trong chính
sách thuế đối với các DVTC ở Việt Nam là gì; xuất phát từ căn nguyên nào. (3)
Chính sách thuế cần hoàn thiện theo hƣớng nào, các nội dung hoàn thiện để đảm
bảo phát triển cũng nhƣ hội nhập của ngành DVTC Việt Nam.
3. Mục tiêu nghiên cứu
-Làm sáng tỏ cơ sở lý luận về DVTC và chính sách thuế đối với các DVTC. Nghiên
cứu kinh nghiệm quốc tế đồng thời rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam;
13
- Đánh giá thực trạng chính sách thuế đối với các DVTC ở Việt Nam trong giai đoạn
từ 2009 đến 2016 nhằm phát hiện những tồn tại của chính sách và chỉ ra các nguyên
nhân của hạn chế đó;
- Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách thuế đối với các DVTC ở Việt
Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tƣợng nghiên cứu: Luận án đứng từ góc độ vĩ mô để nghiên cứu về chính
sách thuế đối với các DVTC gồm dịch vụ ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm và
chính sách thuế liên quan đến các chủ thể tham gia vào quá trình cung cấp và sử
dụng DVTC.
- Phạm vi nghiên cứu:
Luận án thực hiện nghiên cứu trong phạm vi Việt Nam và một số quốc gia
điển hình trên thế giới, tập trung vào chính sách thuế GTGT, TNDN, TNCN đối
với 3 nhóm chủ yếu là lĩnh vực dịch vụ ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, giai
đoạn từ 2009 - 2016. Các giải pháp đề xuất theo lộ trình đến năm 2020, một số giải
pháp đến 2030.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phƣơng pháp nghiên cứu định tính, phân tích và tổng hợp
thông tin một cách kế thừa có chọn lọc.
Để thu thập dữ liệu sơ cấp, luận án sử dụng phƣơng pháp phỏng vấn chuyên
gia để kiểm tra mức độ phù hợp của những tiêu chí đánh giá thực trạng chính sách
thuế đối với các DVTC với lý thuyết và đƣợc cụ thể hóa bằng thực tế ở Việt Nam.
Tác giả luận án tiến hành phỏng vấn sâu các chuyên gia trong lĩnh vực quản lý nhà
nƣớc về thuế (tại Cục Thuế và Tổng cục Thuế); cán bộ trực tiếp làm công tác thuế
tại các công ty chứng khoán (CTCK), bảo hiểm, hội sở các ngân hàng thƣơng mại
(NHTM); ủy ban chứng khoán (UBCK) Nhà nƣớc, Viện Chiến lƣợc chính sách tài
chính, ngân hàng nhà nƣớc (NHNN), cũng nhƣ phỏng vấn nhóm tập trung đối với
các đối tƣợng khác.