Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.03 MB, 69 trang )
Tính toán thiết kế hệ thống đánh lửa
Tất cả cuộn dây và lõi thép được bao ngoài bởi hợp chất khuôn, ống xilanh được
làm từ nhựa exopy bên trong được đổ đầy dầu biến thế, dầu có khả năng nóng chảy
ở nhiệt độ cao và tạo bọt khí, điều này giúp cho các cuộn dây được thoát nhiệt tốt.
2.3. Mạch đánh lửa (IC đánh lửa)
IC đánh lửa là mạch điện tử được tích hợp từ các linh kiện điện tử như
transistor ,diot, tụ điện, điện trở… để điều khiển đóng ngắt dòng sơ cấp (và tạo ra
tín hiệu phản hồi IGF về cho ECU động cơ.
Đối với các động cơ được trang bị hệ thống đánh lửa trực tiếp dùng chi tiết với
bobine đánh lửa nên kết cấu rất đơn giản gọn nhẹ. Điển hình trong trường hợp này
là IC đánh lửa của động cơ 1TR-FE (lắp trên xe Toyota Innova) có 4 chân giao tiếp
đó là các chân: +B, GND, IGT, IGF. Trong đó chân +B nối với accu, chân GND nối
mass, chân IGT và IGF nối với ECU động cơ.
Hình 2.6- Cấu tạo của IC đánh lửa.
1- bộ tạo tín hiệu phản hồi IGF; 2- bộ kiểm soát góc ngậm điện; T- là transistor
công suất; R- là điện trở trong IC; B- là chân nối tới một đầu của cuộn sơ cấp của
bobin; E- là chân nối mass; IGT- chân tín hiệu đánh lửa; IGF- chân tín hiệu phản
hồi.
Ngoài ra, trên một số loại động cơ, IC đánh lửa cón có chức năng hạn chế dòng
điện. Khi dòng điện sơ cấp vượt quá giá trị cho phép, IC đánh lửa sẽ hạn chế dòng
điện, tránh trường hợp làm cho biến áp đánh lửa quá nóng.
-38-
Tính toán thiết kế hệ thống đánh lửa
2.4. Hệ thống điều khiển ECU
2.4.1. Vai trò của ECU điều khiển
Thật sự, có thể nghĩ rằng ECU (hay còn gọi là hộp đen) chính là “bộ não” điều
khiển chi phối tất cả mọi hoạt động của động cơ thông qua việc tiếp nhận dữ liệu
các cảm biến trên động cơ hoặc ô tô, sau đó được truyền về ECU xử lý tín hiệu và
đưa ra “mệnh lệnh” buộc các cơ cấu chấp hành phải thực hiện như việc điều khiển
nhiên liệu, góc đánh lửa, góc phối cam, ga tự động, lực phanh ở mỗi bánh...
Mặc khác, cơ cấu chấp hành phải luôn bảo đảm thừa lệnh ECU và đáp ứng các
tín hiệu phản hồi từ các cảm biến nhằm đem lại sự chính xác và thích ứng cần thiết.
Bên cạnh đó, nhằm giảm tối đa chất độc hại trong khí thải và cải thiện lượng tiêu
hao nhiên liệu, đảm bảo công suất tối ưu ở các chế độ hoạt động của động cơ. Hơn
hết, ECU can thiệp và xử lý nhanh những tính huống mất kiểm soát của người khi
gặp tình huống nguy hiểm và điều đặc biệt giúp việc chuẩn đoán “bệnh” của động
cơ một cách nhanh chóng.
Tóm lại, ECU ngày nay trên những mẫu ô tô hiện đại có thể hiểu đó là bộ tổ hợp
vi mạch và bộ phận phụ dùng để nhận biết tín hiệu, trữ thông tin, tính toán, gửi đi
các tín hiệu thích hợp và quyết định chức năng làm việc của xe sao cho hiệu quả
nhất trong các tình huống khác nhau.
Vai trò của ECU đối với hệ thống đánh lửa thì nhờ vào cảm biến tốc độ động cơ
và vị trí piston – công dụng của cảm biến này sẽ giúp ECU xác định thời điểm đánh
lửa và thời điểm phun xăng tối ưu nhằm cải thiện hiệu suất và khả năng tiêu thụ
nhiên liệu. Ngoài ra với những cảm biến khác như vị trí bướm ga xác định lưu
lượng không khí nạp, gửi đến ECU tính toán lượng nhiên liệu phun thích hợp với
từng chế độ tải, song song đó với các dữ liệu về tốc độ động cơ, tải, nhiệt độ… nhờ
các cảm biến mã hoá tín hiệu đưa vào ECU xử lý và tính toán để đưa ra góc đánh
lửa sớm tối ưu theo từng chế độ hoạt động của động cơ. Với những ưu điểm nổi
bật, ngày nay hệ thống đánh lửa với cơ cấu điều khiển góc đánh lửa sớm bằng điện
-39-
Tính toán thiết kế hệ thống đánh lửa
tử kết hợp với phun xăng đã thay thế hoàn toàn hệ thống đánh lửa bán dẫn thông
thường.
2.2.2. Cấu tạo của ECU
Hình 2.5. Hệ thống điều khiển ECU
ECU cấu thành từ 3 bộ phận chính: bộ nhớ trong ECU, bộ vi xử lý (bộ não của
ECU) và đường truyền – BUS.
a Bộ nhớ trong ECU: bao gồm 4 thành viên đãm nhiệm chức năng riêng biệt:
RAM, ROM, PROM, KAM
– ROM (Read Only Memory): Dùng trữ thông tin thường trực. Bộ nhớ này chỉ
đọc thông tin đã được lập trình sẵn, chứ không thể ghi vào được. Do đó, ROM
chính là nơi cung cấp thông tin cho bộ vi xử lý.
– RAM (Random Access Memory): Bộ nhớ truy xuất ngẫu nhiên, dùng để lưu
trữ thông tin mới được ghi trong bộ nhớ và xác định bởi vi xử lý. RAM có thể đọc
và ghi các số liệu theo địa chỉ bất kỳ.
– PROM (Programmable Read Only Memory): Cấu trúc cơ bản giống như
ROM nhưng cho phép lập trình (nạp dữ liệu) ở nơi sử dụng chứ không phải nơi sản
-40-
Tính toán thiết kế hệ thống đánh lửa
xuất như ROM. PROM cho phép sữa đổi chương trình điều khiển theo những đòi
hỏi khác nhau.
– KAM (Keep Alive Memory): KAM dùng để lưu trữ những thông tin mới
(những thông tin tạm thời) cung cấp đến bộ vi xử lý. KAM vẫn duy trì bộ nhớ cho
dù động cơ ngưng hoạt động hoặc tắt công tắc máy. Tuy nhiên, nếu tháo nguồn cung
cấp từ acquy đến máy tính thì bộ nhớ KAM sẽ bị mất.
b.Bộ vi xử lý: (Microprocessor)
MICROPROCESSOR
ROM
PROM
RAM
Từ việc tiếp nhận thông tin tín hiệu ở các cảm biến trên động cơ thông qua các
bộ nhớ trong ECU, tín hiệu lập tức gửi đến Bộ vi xử lý, lúc này nó có chức năng
tính toán và đưa ra mệnh lệnh cho bộ phận chấp hành thích hợp. Có thể nói, đây là
bộ phận quan trọng nhất của ECU.
c. Đường truyền – BUS: Dùng để chuyển các lệnh và số liệu trong ECU.
Có thể hiểu nôm na rằng để thông tin có thể truyền từ bộ vi xử lý gửi đến các cơ cấu
chấp hành nhanh nhất có thể, đường truyền đóng một vai trò không nhỏ. Trước đây,
máy tính điều khiển động cơ dùng loại 4, 8, hoặc 16 bit phổ biến nhất là loại 4 và 8
bit. Máy tính 4 bit chứa rất nhiều lệnh vì nó thực hiện các lệnh logic tốt hơn. Tuy
nhiên, máy tính 8 bit làm việc tốt hơn với các phép đại số, và chính xác hơn 16 lần
so với loại 4 bit. Vì vậy, hiện nay để điều khiển các hệ thống khác nhau trên ôtô với
tốc độ thực hiện nhanh và chính xác cao, người ta sử dụng máy tính 8 bit, 16 bit
hoặc 32 bit.
-41-
Tính toán thiết kế hệ thống đánh lửa
2.5. Các cảm biến
2.5.1. Cảm biến tốc độ động cơ –NE và vị trí piston-G
- Cảm biến vị trí Piston (TDC sensor) hay còn gọi là cảm biến G, báo cho ECU biết
vị trí tử điểm chết trên hoặc gần đến vị trí tử điểm chết trên của piston. Trong một
số trường hợp, chỉ có vị trí của piston xylanh số một hoặc số sáu được báo về ECU
còn vị trí các xylanh còn lại sẽ được tính toán. Công dụng của cảm biến này là để
ECU xác định thời điểm đánh lửa và thời điểm phun xăng.
- Cảm biến tốc độ động cơ (Engine speed; Crankshaft Angle Sensor hay còn gọi là
tín hiệu NE), để báo tốc độ động cơ để tính toán hoặc tìm góc đánh lửa tối ưu và
lượng nhiên liệu sẽ phun cho từng xylanh. Cảm biến này cũng được dùng vào mục
đích điều khiển tốc độ cầm chừng hoặc cắt nhiên liệu ở chế độ cầm chừng cưỡng
bức.
- Cảm biến vị trí xylanh và cảm biến tốc độ động cơ có nhiều dạng khác nhau như:
cảm biến điện từ (loại nam châm quay hoặc đứng yên), cảm biến quang, cảm biến
Hall … Dưới đây là sơ đồ mạch điện từ sử dụng hai sensor: một lắp ở trục khuỷu
để xác định tốc độ động cơ (Ne) và một lắp tại trục cam để xác định vị trí của piston
(G)
Cuộn dây tín hiệu NE
ECU
Hình 2.9- Sơ đồ mạch điện cảm biến tốc độ động cơ và vị trí piston
-42-
Tính toán thiết kế hệ thống đánh lửa
1200
Tín hiệu NE
Tín hiệu G
3600
Hình 2.10- Tín hiệu Ne và tín hiệu G
2.5.2. Cảm biến nhiệt độ nước làm mát-THW (Coolant Water Temperature
Sensor)
- Dùng để xác định nhiệt độ động cơ, có cấu tạo là một điện trở nhiệt (Thermistor)
hoặc Diode.
- Điện áp 5V đưa qua điện trở chuẩn (điện trở này có giá trị không đổi theo nhiệt
độ) tới cảm biến rồi trở về ECU về mass. Như vậy nhiệt điện trở và điện trở chuẩn
trong cảm biến tạo thành một cầu phân áp. Điện áp điểm giữa cầu được đưa đến bộ
chuyển đổi tín hiệu tương tự - số (Bộ chuyển đổi ADC).
- Khi nhiệt độ động cơ thấp, giá trị điện trở cảm biến cao và điện áp gửi đến bộ
chuyển đổi ADC lớn. Tín hiệu điện áp được biến đổi thành một dãy xung vuông và
được giải mã bằng bộ vi xử lý để thông báo cho ECU biết động cơ đang lạnh. Khi
động cơ nóng, giá trị điện trở cảm biến giảm kéo theo điện áp đặt giảm, báo cho
ECU biết là động cơ đang nóng.
Hình 2.11 - Mạch điện cảm biến nhiệt độ nước làm mát
-43-
Tính toán thiết kế hệ thống đánh lửa
2.5.3. Cảm biến nhiệt độ khí nạp -THA(Intake Air Temperature Sensor):
Cảm biến nhiệt độ khí nạp dung để xác định nhiệt độ khí nạp. Cũng giống như
cảm biến nhiệt độ nước làm mát, nó gồm một điện trở được gắn trong bộ đo gió
hoặc trên đường ống nạp. Có đặc tính tương tự như cảm biến nhiệt độ nước.
Hình 2.12 - Mạch điện cảm biến nhiệt độ khí nạp
2.5.4. Cảm biến lưu lượng khí nạp-VS:
- Cảm biến lưu lượng khí nạp là một trong những cảm biến quan trọng nhất vì nó
được sử dụng trong EFI kiểu L để phát hiện khối lượng hoặc thể tích không khí nạp.
Tín hiệu của khối lượng hoặc thể tích của không khí nạp được dùng để tính thời
gian phun cơ bản và góc đánh lửa sớm cơ bản.
- Có ba loại cảm biến đo lưu lượng khí nạp: Kiểu cánh và kiểu gió xoáy quang học
Karman.
- Hiện nay hầu hết các xe sử dụng cảm biến lưu lượng khí nạp khí kiểu dây nóng vì
nó đo chinh xác hơn, trọng lượng nhẹ hơn và độ bền cao hơn.
Hình 2.13- Cảm biến lưu lượng khí nạp
-44-
Tính toán thiết kế hệ thống đánh lửa
- Cấu tạo: Cảm biến lưu lượng khí nạp gọn và nhẹ như được thể hiện trong hình
minh họa ở bên dưới là loại cắm phích được đặt vào đường không khí, và làm cho
phần không khí nạp chạy qua khu vực phát hiện. Một dây nóng và nhiệt điện trở,
được sử dụng như một cảm biến, được lắp vào khu vực phát hiện. Bằng cách trực
tiếp đo khối lượng không khí nạp, độ chính xác phát hiện được tăng lên và hầu như
không có sức cản của không khí nạp. Ngoài ra, vì không có các cơ cấu đặc biệt,
dụng cụ này có độ bền tuyệt hảo.
Hình 2.14 - Cấu tạo cảm biến đo khối lượng khí nạp: Kiểu dây sấy
- Nguyên lý hoạt động : Dòng điện chạy vào dây sấy (bộ sấy) làm cho nó nóng lên.
Khi không khí chạy quanh dây này, dây sấy được làm nguội tương ứng với khối
không khí nạp. Bằng cách điều chỉnh dòng điện chạy vào dây sấy này để giữ cho
nhiệt độ của dây sấy không đổi, dòng điện đó sẽ tỷ lệ thuận với khối không khí nạp.
Sau đó có thể đo khối lượng không khí nạp bằng cách phát hiện dòng điện đó.
Trong trường hợp của cảm biến lưu lượng khí nạp kiểu dây sấy, dòng điện này được
biến đổi thành một điện áp, sau đó được truyền đến ECU động cơ từ cực VG.
- Sơ đồ mạch điện: Trong cảm biến lưu lượng khí nạp thực tế, một dây sấy được
ghép vào mạch cầu. Mạch cầu này có đặc tính là các điện thế tại điểm A và B bằng
nhau khi tích của điện trở theo đường chéo bằng nhau ([Ra+R3]*R1=Rh*R2).
- Khi dây sấy này (Rh) được làm mát bằng không khí nạp, điện trở tăng lên dẫn đến
sự hình thành độ chênh giữa các điện thế của các điểm A và B. Một bộ khuyếch đại
xử lý phát hiện chênh lệch này và làm tăng điện áp đặt vào mạch này (làm tăng
dòng điện chạy qua dây sấy (Rh)).
-45-