1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Công nghệ - Môi trường >

b. Phân bón hữu cơ:

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.67 MB, 104 trang )


Đồ án tốt nghiệp – SV Nguyễn Thế Đình



1.1.4. Tác động của phân bón đối với cây trồng:

- Phân đạm là yếu tố quan trọng nhất quyết định năng suất cây trồng, nhưng

bón nhiều đạm quá thì cây phát triển mất cân đối giữa bộ phận phía trên và dưới

đất, cây phải hình thành nhiều mô sinh trưởng và nhiều protit nên phần lớn những

sản phẩm trung gian trong quá trình hình thành đường bột bị tiêu hao mạnh vào

việc tổng hợp amino axit làm cho các hydratcacbon cao phân tử không hình thành

được mấy, các chất nòng cốt của tế bào như cellulose, lignin bị thiếu hụt dẫn đến

cây không cứng, dễ bị sâu bệnh và đổ. Theo Mecten (1974) nhiều loại cây bón

lượng đạm lớn và không cân đối thì thường có sự tích lũy alkaloid, glucoxit làm

cho nó có vị đắng, nếu là rau quả thì khó ăn, kém ngon dễ bị hư hỏng.

- Phân lân đóng vai trò cần thiết bậc nhất trong quá trình trao đổi chất và

trong quá trình tích lũy hydrat cacbon, protit, chất béo … đều có sự tham gia trực

tiếp hoặc gián tiếp của lân; điều hòa những thay đổi đột ngột về phản ứng môi

trường trong cây; tăng cường sự phát triển bộ rễ; tăng cường phẩm chất nông sản,

rau màu.

- Phân kali giúp cho quá trình quang hợp tiến hành bình thường, đẩy mạnh

sự di chuyển hydrat cacbon từ lá sang các bộ phận khác làm tăng cường quang

hợp của lá. Tăng cường sự tạo thành bó mạch, tăng độ dày và số lượng sợi, tăng bề

dày các giác mô làm cho cây cứng, chống lốp đổ; kích thích sự hoạt động của men

làm tăng hoạt động trao đổi chất của cây, phát triển tạo axit hữu cơ, tạo thêm

protit.

- Phân chuồng chứa hầu hết các chất dinh dưỡng cho cây như: đạm, lân,

kali và các nguyên tố vi lượng như B, Mo, Cu, Mn, Zn … do vậy, không chỉ làm

tăng năng suất cây trồng mà còn tăng hiệu lực phân hóa học, đặc biệt là cải tạo đất

(đất cát sẽ dính hơn, ít rời rạc và đất sét nặng thì lại xốp hơn), nên bón phân

chuồng nhiều cũng góp phần giúp cho cây chịu đựng được hạn hán.



15



Đồ án tốt nghiệp – SV Nguyễn Thế Đình



1.1.5. Tác động của phân bón đến môi trường sinh thái đất:

Chúng ta biết rằng cây chỉ sử dụng hữu hiệu tối đa 30% lượng phân bón

vào đất. Còn lại, phần thị bị rửa trôi, phần nằm lại trong đất ô nhiễm môi trường.

- Phân đạm: tăng tính chua của môi trường đất vì dạng axit nitrit (HNO 3) rất

phổ biến trong đất và phần lớn nitrat phân bón được giữ lại trong đất, chúng sẽ

ngấm xuống nước ngầm dưới dạng NO3.

- Phân lân: có thể chứa một số nguyên tố như cadimi, chì, niken. Sử dụng

phân lân lâu dài dẫn tới sự tích lũy trong đất những hỗn hợp chất hóa học độc,

chúng có khả năng di chuyển vào cây trồng trên đất đó.

Các dạng phân hóa học đều là các muối của các axit (muối kép hoặc muối

đơn). Vì vậy, khi hòa tan thường gây chua cho môi trường đất. 60 – 70% lượng

phân bón cây không sử dụng hòa tan vào nước ngầm làm xấu môi trường sinh thái,

gây hại cho động vật. Mặt khác, sự tích lũy các hóa chất dạng phân bón cũng gây

hại cho môi trường sinh thái đất về mặt cơ lý tính. Đất nén chặt, độ trương co kém,

kết cấu vững chắc, không tơi xốp mà nông dân gọi là đất trở nên “chai cứng”, tính

thông khí kém đi, vi sinh vật ít đi vì hóa chất hủy diệt.

- Phân hữu cơ: có tác dụng cải tạo đất, tăng thêm chất dinh dưỡng đa lượng

và vi lượng, tăng tỉ lệ mùn và tích lũy được nhiều P, K tổng số cho đất, tạo tiền đề

cho đất có độ phì nhiêu cao và tăng độ xốp của đất. Nhưng nếu phân không ủ đúng

kỹ thuật sẽ gây ô nhiễm môi trường đất, diệt một số vi sinh vật có lợi trong đất.

Đa số phân bón đều chứa những chất dơ không thể bỏ hết vì muốn giữ giá thành

sản phẩm thấp nên thường gặp các vết kim loại và hóa chất như: As, Cd, Co, Cu,

Pb, Zn … Do vậy, sau khi dùng phân bón một thời gian dài những chất này sẽ tích

lũy trong đất làm cho đất bị chai xấu, thoái hóa, không canh tác tiếp tục được.

1.1.6. Tác động của phân bón đến sức khỏe con người:

Phân đạm dùng với liều lượng cao đều dẫn đến làm tăng hàm lượng nitrat

trong nông sản thực phẩm, rau quả. Nitrat là hợp chất độc hại cho sức khỏe con

người và động vật máu nóng. Các chất nitrit, nitrat không chỉ tác động trực tiếp

16



Đồ án tốt nghiệp – SV Nguyễn Thế Đình



trên cơ thể con người, mà còn là nguồn chất liệu để tạo thành nhóm chất gây ung

thư – nitrozamin. Một trong các nitrozamin có tính chất gây ung thư là

Dimetylnitrozamin. Có những dẫn liệu về tỉ lệ chết do ung thư dạ dày phụ thuộc

vào việc dùng phân đạm (NaNO3 và KNO3), cũng như mức độ tiếp xúc với các

nitrit, nitrat trong sản xuất.

Kim loại nặng tích lũy trong đất do bón phân, tồn tại trong các sản phẩm

nông nghiệp và đi vào chuỗi thực phẩm, cuối cùng con người sử dụng chúng.

1.2. Tổng quan về thuốc BVTV

1.2.1. Sơ lược về sự phát triển của thuốc BVTV

* Trên Thế giới

Vào thời kỳ 2500 (BC) (trước công nguyên) các hợp chất lưu huỳnh đã

được sử dụng để diệt côn trùng và nhện. Vào khoảng 1550 BC người ta đã biết sử

dụng thuốc để đuổi bọ chét. Năm 1200 BC ở miền đông Trung Quốc các sản phẩm

thảo mộc được dùng để xử lý hạt giống và để xông hơi, ngoài ra họ cũng sử dụng

tro bếp để ngăn chặn côn trùng trong nhà, trong kho. Nhà y học người Hy Lạp

Dioscorides (40 - 49 AD (sau công nguyên)) cũng đã biết về tính độc của lưu

huỳnh và thạch tín. Và nhiều tài liệu cho biết 900 AD người Trung Quốc đã dùng

arsenic sulfides để trừ côn trùng. Hai loài cây Veratum album và Veratum nigrum

đã được người La Mã dùng làm thuốc trừ loài gặm nhấm.

Từ nửa cuối thế kỷ 18 đến cuối thế kỷ 19, là thời gian của cách mạng nông

nghiệp ở Châu âu. Hỗn hợp lưu huỳnh và vôi được sử dụng rộng rãi để trị rệp sáp

trên các vườn cam tại Mỹ. Năm 1896 người ta đã ghi nhận một số biện pháp diệt

cỏ dại đầu tiên là loại sulfate, và một số loại chất vô cơ khác như sodium nitrate,

amonium sulfate và axít sulfuric được sử dụng như thuốc diệt cỏ. Cuối thế kỷ thứ

19, HgCl2 được sử dụng rộng rãi để làm thuốc trừ nấm. Nhìn chung các nguyên

liệu được sử dụng trong giai đoạn cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 hầu hết là những

chất vô cơ : Arsenic, Antimony, Selenium, Sulfur, Cooper hoặc một số chất thảo

mộc.

17



Đồ án tốt nghiệp – SV Nguyễn Thế Đình



Đầu thế kỷ thứ 20, hợp chất thủy ngân Phenyl (1915), thủy ngân

Akyloxyalkyl (vào những năm 20) và thủy ngân alkyl (vào những năm 40) được

dùng làm thuốc trừ nấm. Các hợp chất Arsenate được sử dụng cho đến khi được

thay thế bởi các hợp chất fluorine vào thập kỷ thứ 20. Đầu những năm 30, hợp

chất Dưỡng và Thyocyanates được sử dụng rộng rãi để diệt côn trùng.

Ở thế chiến thứ II, một số nước trên thế giới tập trung cho việc sản xuất các

loại thuốc trừ sâu thuộc nhóm Chlor hữu cơ : DDT (Dichlorophenyl

Trichlorothane), HCH (Hexachloro cychlorothane) còn được gọi là (Benzen

Hexachloride hay BHC). Đến năm 1940 hợp chất Lidan là dạng đồng phân gama

của BHC có tính sát trùng cao đã được tổng hợp.

Bên cạnh đó, những loại thuốc trừ sâu thuộc nhóm lân hữu cơ cũng xuất

hiện. Năm 1944 chất có tên thương mại Bladan là một ester đặc trưng của axít

Pyrophosphoric (hoặc Tetrathyl Pyrophosphoric - TEPP). Sau đó, hơn 7.000 hợp

chất hữu cơ ra đời. Trong đó, Methyl Parathion là thuốc trừ sâu thông dụng nhất

và chiếm thị trường nhiều nhất lúc bấy giờ. Một chất có độ độc cao hơn như:

Sarin, Sorman và Tabun cũng ra đời từ đó.

Nhóm thứ 3 trong hóa chất BVTV là nhóm Carbamates. Được phát minh

vào những năm cuối thập niên 1940 bởi các nhà khoa học Thụy Sĩ. Việc thương

mại hóa các sản phẩm thuộc nhóm Cathamates bắt đầu vào những năm 1950, với

việc sử dụng rộng rãi thuốc Carbaryl do Công Ty Union Cathide của Mỹ sản xuất

1953.

Đặc biệt một trong những nhóm thuốc sát trùng quan trọng hiện nay đã

được khám phá là nhóm Pyrethroid. Các hợp chất này là dẫn xuất được trích ly

trong hoa cây thủy cúc với các tên thương mại là Allerthrin, Permethrin,

Cypemlethrin [29].

* Ở Việt Nam

Từ thế kỷ 19 trở về trước, ngành hóa chất BVTV hoàn toàn không xuất

hiện. Trước các dịch hại, nông dân Việt Nam chỉ dùng các biện pháp mang nặng

tính dị đoan hơn là các biện pháp có cơ sở phòng trị. Đầu thế kỷ 20, cùng với sự

18



Đồ án tốt nghiệp – SV Nguyễn Thế Đình



phát triển nông nghiệp chủ yếu là sự hình thành các đồn điền và trang trại, việc sử

dụng hóa chất BVTV đã bắt đầu. Trong thời kỳ này, các loại thuốc sử dụng là các

loại thuốc vô cơ giống như trào lưu chung của thế giới. Tuy nhiên từ những năm

1980 trở về trước, các loại thuốc được sử dụng nhiều nhất là các loại thuốc thuộc

nhóm Chlor và nhóm lân hữu cơ trong đó bao gồm những loại thuốc như DDT,

Lindan, Methyl parathion, Furadan [29] .

Bảng 1.1 Lượng thuốc BVTV được sử dụng Ở Việt Nam từ năm 1990 1996.

Năm

1990

1991

1992

1993

1994

1995

1996



Tổng số

21.600

20.300

23.100

24.800

20.380

25.666

32.751



Giá trị (triệu

USD)

9,5

22,5

24,1

33,4

58,9

100,4

124,3



Thuốc trừ sâu

Khối lượng

(tấn)

17.590

16.900

18.000

18.000

15.226

16.451

17.352



Tỉ lệ (%)

82,2

83,3

76,4

72,7

68,3

64,1

53,0



1.2.2. Khái niệm về thuốc BVTV

Thuốc BVTV (Pesticides) là tất cả các hóa chất được sử dụng trong công

tác bảo vệ và điều hòa tăng trưởng cây trồng. Như thế có nghĩa thuốc BVTV đóng

một vai trò hết sức to lớn trong canh tác nông nghiệp.

Những tác động do thuốc BVTV gây ra là do tính độc (Toxicity) của

chúng. Tính độc của một chất là khả năng gây độc của chất đó đối với cơ thể dịch

hại. Tính độc được thể hiện bằng độ độc. Độ độc của mỗi loại chất độc thay đổi

tùy theo đối tượng bị gây độc, liều lượng, thời gian gây độc v.v...

1.2.3. Phân loại thuốc BVTV

Hiện nay, thuốc BVTV rất đa dạng và phong phú về cả chủng loại và số

lượng, tuy nhiên có thể phân loại thuốc BVTV theo các hướng sau:

1. Phân loại theo đối tượng phòng trừ

19



Đồ án tốt nghiệp – SV Nguyễn Thế Đình



Theo cách phân loại này ta có các nhóm sau:

* Thuốc diệt động vật không xương sống, gồm:

- Diệt côn trùng (Insecticides): Cypemlethrin, Methamidophos,...

- Thuốc diệt ốc sên (Molluscicides): Metaldehyde...

- Thuốc diệt tuyến trùng (Nematicides): Ethoprophos...

- Thuốc diệt nhện (Acaricides): Amitraz...

* Thuốc diệt động vật có xương sống, gồm:

- Thuốc diệt loại gặm nhấm (Rodenticides) .

- Thuốc diệt chim (Avicides)

- Thuốc diệt cá (Piscicides)

* Thuốc diệt vi sinh vật, gồm:

- Thuốc trừ nấm (Fungicides): chuyên sử dụng để trừ các loại bệnh do nấm

gây ra, như: Iprobenfos (Kitazin), dung dịch Bordeaux, Edifenphos (Hinozan),

Benomyl (Benlate)...

- Thuốc trừ vi khuẩn (Bactericides)

- Thuốc trừ tảo (Algicides)

- Các chất khử trùng (Disinfestants)

* Thuốc khống chế các loài thực vật, gồm:

- Thuốc trừ cỏ (Herbicides) như: 2,4-D; Paraquat, Phenoxaprop-P-Ethyl

- Thuốc kích thích tăng trưởng thực vật (Plant Growth Regulators)

- Thuốc gây rụng hoặc khô lá (Defoliants hoặc Desicants)

2. Phân loại theo con đường xâm nhập

- Các thuốc lưu dẫn: Furadan, Aliette,...

- Các thuốc tiếp xúc: Sherpa, Cypermethrin, Sumialpha,...

- Các thuốc vị độc : Trichlorfon. Decamethrin,...

- Các thuốc xông hơi : Methyl Bromide, Chloropicrin,....

Tuy vậy vẫn có nhiều thuốc có một đến ba con đường xâm nhập.

3. Phân loại theo nguồn gốc

- Vô cơ

20



Đồ án tốt nghiệp – SV Nguyễn Thế Đình



- Thảo mộc

- Hữu cơ tổng hợp:

+ Chỉ hữu cơ

+ Phospho (lân) hữu cơ

+ Carbamate

+ Pyrethroid

+ Các chất điều hòa tăng trưởng (Growth Regulator) côn trùng.

- Vi sinh vật:

+ Nấm (Fungus)

+ Vi khuẩn (Bacteria)

+ Virus

+ Protozoa (động vật đơn bào)

4. Phân loại theo tính độc của thuốc

Tổ chức y tế thế giới (WHO) và tổ chức Lương nông Quốc tế trực thuộc

Liên Hiệp Quốc (FAO) phân loại độc tính của thuốc như sau:

Bảng 1.2 : Phân loại thuốc BVTV của WHO theo độ độc cấp tính

Nhóm

IA (cực độc)

IB (độc cao)

II (độc trung

bình)

III (độc nhẹ)



LD 50 trên chuột (mg a.i./kg thể trọng)

Qua đường miệng

Qua da

Thể rắn

Thể lỏng

Thể rắn

<5

<20

< 10

5 – 50

20 – 200

10 – 100



Thể lỏng

< 40

40 – 400



50 – 500



400 – 4000



> 500



200 – 2000



100 – 1000



> 2000

> 1000

>4000

Nguồn: Asian Development Bank, 1987.



Ngoài ra, còn có nhiều hệ phân loại tính độc khác.

1.2.4.Đặc tính sinh - hóa học của một số nhóm thuốc BVTV chính

1.2.4.1. Các thuốc BVTV nhóm Chlor hữu cơ

Các thuốc Chlor hữu cơ (CHC) chứa chủ yếu các nguyên tử carbon,

chlorine và hydrogen. Chất tiêu biểu của nhóm thuốc này là DDT (hiện nay đã bị

21



Đồ án tốt nghiệp – SV Nguyễn Thế Đình



cấm ở hầu hết các nước trên thế giới). Đa số các thuốc Chlor hữu cơ bị chỉ trích vì

khả năng tồn tại bền vững của nó và sự tích lũy tăng bội sinh học trong chuỗi thực

phẩm (chainfood). Trong nhóm do hữu cơ có các nhóm thuốc sau:

* Nhóm DDT và các chất liên quan

Nhóm này gồm có các đại diện như DDT, DDD (TDE), Methoxychlor,

Ethylan, Dicofol, Chorobenzilate. Hai đặc tính cơ bản của DDT và chất chuyển

hóa của nó DDE là:

- Bền vững trong môi trường, không bị phân hủy bởi sinh vật, men, nhiệt,và

UV;

- Tích lũy tăng bội sinh học trong chuỗi thực phẩm, chủ yếu tích lũy trong

mô mỡ động vật.

Các thuốc nhóm này có tính độc thần kinh, phá hủy sự cân bằng muối và

kali trong sợi trục tế bào thần kinh, làm chúng không còn dẫn truyền luồng thần

kinh được nữa

Trong nhóm này, nhà nước Việt Nam đã cấm sử dụng DDT và hạn chế

Dicofol (Kenthal) vào tháng 5 năm 1996.

* HecxachlorcyChlorhexan (HCH)

HecxachlorcyChlorhexan (HCH, 666) hay còn gọi là Benzenehexachloride

(BHC) được biết tới từ năm 1825, nhưng mãi đến năm 1940 mới được dùng như

thuốc diệt côn trùng. Chất này có nhiều đồng phân (alpha, be ta, gam ma, delta,

epsilon). Trong hỗn hợp bình thường của các đồng phân, gam ma BHC chiếm

12%. Về sau, người ta chế tạo được Lindane với 99% gamma BHC. Thuốc BHC

thường lưu lại mùi trên sản phẩm nhưng do giá rẻ nên vẫn còn được dùng ở các

nước thuộc Thế giới thứ ba. Lindane gây độc thần kinh, gây run rẩy, co giật và

cuối cùng là suy kiệt. Lindane không mùi và bay hơi mạnh.

Trong nhóm này, nhà nước Việt Nam đã cấm sử dụng Lindane và BHC vào

tháng 5 năm 1996.

* Các CyChlordiens



22



Đồ án tốt nghiệp – SV Nguyễn Thế Đình



Các thuốc trong nhóm CyChlordien được chế tạo vào những năm sau Thế

Chiến Thứ II gồm có: Chlordan (1945); Aldrin, Dieldrin (1948); Heptachlor

(1949); Endnn (1951); Mirex (1954); Endosulfan (1956); và Chlordecone (1958).

Còn có một số khác ít quan trọng hơn như: Isodrin, Alodan, Bromodan, Telodrin.

Nhìn chung, các CyChlordien là những chất bền vững trong đất và khá bền trước

tác động của UV và ánh sáng thấy. Do đó, chúng được dùng phổ biến ở dạng

thuốc xử lý vào đất để trừ mối và các côn trùng đất có giai đoạn ấu trùng ăn phá rễ

non. Các thuốc nhóm này rẻ, khả năng tiêu diệt bền bỉ nên được ưa chuộng trước

đây. Tuy nhiên hiện nay côn trùng đất đã phát triển tính kháng với chúng, do đó

mức tiêu thụ sau đó ít dần. Riêng Ở Mỹ, từ 1975 đến 1980 cơ quan Bảo vệ Môi

trường đã cấm dùng nhóm này. Riêng Aldrin và Dieldrin còn tiếp tục dùng để trừ

mối thì đến năm 1984 bị cấm luôn, đồng thời Chlordane và Heptachlor cũng bị

cấm vào năm 1998.

Các thuốc cyChlordien gây độc thần kinh tương tự như DDT và HCH.

chúng cũng làm rối loạn sự cân bằng muối và khu trong nơ con nhưng theo một

cách khác với DDT và HCH. Trong nhóm này, nhà nước Việt Nam đã cấm sử

dụng Aldrin, Dieldrin, Endrin, Chlordane, Heptachlor, Isodrin, và hạn chế

Endosulfan vào tháng 5 năm 1996.

* Các Potychlorterpene

Nhóm Polychlorterpene chỉ có hai chất là Toxaphene ( 1 947) và Strobane

(1951). Toxaphene sinh ra từ sự ảo hóa Camphene, một chất từ cây thông. Trong

nông nghiệp, Toxaphene được dùng rất nhiều, dùng ở dạng đơn độc hoặc phối hợp

với DDT hoặc với Methyl Parathion. Toxaphene là một hỗn hợp 177 chất dẫn xuất

Chlor hóa của hợp chất 10 carbon. Thành phần cực độc của hỗn hợp Toxaphene

này là Toxicant A, chỉ chiếm 3% trong hỗn hợp kỹ thuật. Chất này độc gấp 18 lần

trên chuột, 6 lần trên ruồi, và 36 lần trên cá vàng so với hỗn hợp Toxaphene kỹ

thuật.

Các loại thuốc này lưu lại lâu trong đất nhưng không lâu bằng

cyChlordiene, và thường biến mất khỏi bề mặt thực vật sau khi phun hai hay ba

23



Đồ án tốt nghiệp – SV Nguyễn Thế Đình



tuần. Sự mất đi chủ yếu là do bay hơi hơn là do biến đường hoặc quang phân giải.

Thuốc dễ bị biến đổi trong cơ thể động vật hoặc loài chim. Thuốc không tồn lưu

trong mô mỡ. Tuy ít độc cho côn trùng, động vật có vú và chim, thuốc lại rất độc

đối với cá tương tự như Toxaphene. Cơ chế gây độc cũng tương tự như

CyChlordiene. Ở Mỹ, Toxaphen đã bị cấm vào năm 1983. Trong nhóm này, nhà

nước Việt Nam đã cấm Toxaphene và Strobane vào tháng 5 năm 1996.

1.2.4.2. Các thuốc BVTV nhóm Phospho hữu cơ

Các thuốc thuộc nhóm Phospho hữu cơ là các thuốc có chứa phospho. Tính

chất diệt côn trùng được phát hiện ở Đức trong Thế chiến thứ II. Các thuốc

phospho hữu cơ có hai đặc tính nổi bật: (1) thuốc độc đối với động vật có xương

sống hơn là thuốc do hữu cơ và (2) không tồn lưu lâu (dễ phân hủy trong môi

trường có pH > 7) và ít hoặc không tích lũy trong mô mỡ động vật. Các thuốc

phospho hữu cơ gây độc chủ yếu thông qua sự ức chế men acetylcholinesterase

làm tích lũy quá nhiều acetylcoline tại vùng synap làm cho cơ bị giật mạnh và cuối

cùng bị tê liệt.

Các thuốc phospho hữu cơ được chia làm 3 nhóm dẫn xuất: Aliphatic,

Phenyl và Heterocylic .

* Các dẫn xuất của Aliphatic

Tất cả các dẫn xuất của aliphatic là những dẫn xuất của acid phosphoric

mang chuỗi carbon thẳng. Chất phospho hữu cơ đầu tiên được dùng trong nông

nghiệp vào năm 1946 là TEPP. Loại thuốc này để thủy phân trong nước và biến

mất sau khi phun 12-24 giờ. Malathion là chất được dùng nhiều nhất bắt đầu từ

năm 1950. Ngoài phạm vi nông nghiệp, Malathion còn được dùng trong nhà, trên

súc vật và thậm chí trên cả con người để trừ các ký sinh. Malathion thường được

trộn với đường và để làm bả tiêu diệt côn trùng.

Monocrotophos là một phospho hữu cơ aliphatic chứa nitrogen. Đó là loại

thuốc lưu dẫn, có độc tính cao đối với động vật máu nóng. Thuốc này hiện vẫn

nằm trong danh mục hạn chế sử dụng của Việt nam.

24



Đồ án tốt nghiệp – SV Nguyễn Thế Đình



Trong số các dẫn xuất aliphatic có nhiều chất khác lưu dẫn trong cây như:

dimethoate, dicrotophos, oxydemetonmethyl, và disulfoton. Các loại này, ngoại

trừ dicrotophos bị hạn chế sử dụng, đều có thể dùng trong vườn nhà với dạng

loãng thích hợp.

Dichlorvos là dẫn xuất aliphatic có áp suất hơi lớn, hiện bị hạn chế sử dụng.

Mevinphos là một phospho hữu cơ rất độc nhưng rất mau phân hủy, dùng tết trong

sản xuất rau thương phẩm. Thuốc này có thể dùng một ngày trước khi thu hoạch

mà không để lại dư lượng trên rau thu hoạch ngày sau.

Methamidophos (hiện đã bị cấm sử dụng) và Acephate là hai phospho hữu

cơ dùng nhiều trong nông nghiệp, đặc biệt là trừ côn trùng trên rau. Ngoài ra còn

có các thuốc khác cùng loại là Phosphamidon (Dimecron), Naled (Dibrom), và

Propretamphos (Saprotin).

Sebutos (Apache, Rugby) là loại thuốc diệt côn trùng và tuyến trùng hiệu

quả trên bắp, đậu phộng, mía và khoai tây.

Nhìn chung, các dẫn xuất aliphatic đều có cấu trúc đơn giản, độ độc thay

đổi rất nhiều, khá hòa tan trong nước, có tính lưu dẫn tốt. Một số trong nhóm này

hiện bị hạn chế hoặc cấm sử dụng ở Việt Nam.

* Các dẫn xuất Phenyl

Các thuốc nhóm này có một phenyl gắn vào phân tử acid phosphoric, các vị

trí còn lại của phân tử acid phosphoric thường mang các nhóm Cl, NO2' CH3' có

hoặc S. Các phosphophenyl thường bền hơn các phospho hữu cơ Aliphatic do đó

dư lượng cũng cao hơn.

Parathion là một phospho hữu cơ phenyl quen thuộc nhất và là chất

phospho hữu cơ thứ nhì được đưa vào dùng trong nông nghiệp năm 1947 sau

TEPP. Ethyl Parathion là dẫn xuất phenyl đầu tiên được sử dụng rộng rãi nhưng

do quá độc nên đã bị nhà nước Việt Nam cấm từ tháng 5 năm 1996 (ở Mỹ cấm từ

năm 1991).

Năm 1949 Methyl Parathion (hiện đã bị cấm sử dụng) xuất hiện và tỏ ra ưu

việt hơn Ethyl Parathion ở chỗ nó ít độc cho người và gia súc, đồng thời tiêu diệt

25



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.doc) (104 trang)

×