Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.67 MB, 104 trang )
Đồ án tốt nghiệp – SV Nguyễn Thế Đình
Về hiện trạng chất lượng nước mặt, do tình hình phát triển công nghiệp và nông
nghiệp tại tiểu vùng rừng núi và đồi trọc không cao, nên chất lượng nước mặt tại
tiểu vùng này còn khá tốt đối với các chỉ tiêu hoá lý. Tuy nhiên, hàm lượng vi sinh
trong nước mặt chưa đạt tiêu chuẩn. Đây chính là yếu tố gây nên các bệnh truyền
nhiễm nguy hiểm ở các tiểu vùng rừng núi. Nguyên nhân chính là do nhận thức
của người dân chưa cao, vệ sinh môi trường không tốt, điều kiện chăm sóc sức
khoẻ, y tế còn yếu kém. Ngoài ra, nguồn nước mặt còn bị ô nhiễm do phân người,
gia súc, xác chết của động vật, do con người thải bừa bãi xuống các con sông,
suối.
Chất lượng nước ngầm tại khu vực miền núi nói chung đạt tiêu chuẩn về
các chỉ tiêu lý hoá, ngoại trừ hàm lượng sắt trong nước còn cao. Nguyên nhân
chính gây ô nhiễm sắt là do cấu trúc địa chất tầng laterit chứa nước. Các chỉ tiêu vi
sinh trong nước ngầm tại khu vực miền núi chưa đạt tiêu chuẩn của Bộ Y tế quy
định.
Nhìn chung, tại khu vực các tiểu vùng miền núi đồi trọc, thành phần dân cư
chính là đồng bào dân tộc thiểu số. Do một số phong tục tập quán của địa phương
còn lạc hậu nên môi trường sống của người dân tại đây đã bị ô nhiễm do hoạt động
chăn nuôi gia súc, gia cầm gần nơi sinh hoạt. Lượng chất thải từ hoạt động này
không được quản lý đã tạo điều kiện cho các mầm mống bệnh tật phát sinh và lan
truyền.
3.2. Hiện trạng & qui hoạch ngành nông nghiệp huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng
Ngãi
Diện tích đất sản xuất nông nghiệp đến năm 2005 có 21.730ha. Trừ phần
ruộng đất nằm dọc hai bên sông Trà Bồng, phần lớn đất đai trong huyện Bình Sơn
khô cằn, bạc màu, xưa kia nông dân đa phần làm lúa gieo mỗi năm một vụ và
trồng các loại cây màu chịu hạn. Người dân Bình Sơn tập trung vào thủy lợi, chủ
yếu là đào ao, vét giếng, dùng cần vọt, gàu giai, gàu sòng, guồng đạp nước để lấy
nước tưới cho hoa màu cây trái. Thời kháng chiến chống Pháp, nhân dân đắp đập
69
Đồ án tốt nghiệp – SV Nguyễn Thế Đình
Đá Giăng, đập Gia Hội để dẫn nước sông suối vào ruộng. Từ những năm 60, 70
thế kỷ XX, nhân dân dùng máy bơm chạy bằng dầu mazut, bằng xăng, nay phổ
biến dùng bơm điện, để đưa nước vào đồng ruộng. Từ năm 1993, hệ thống kênh
mương thủy lợi Thạch Nham đã vươn dài, đưa nước sông Trà Khúc đến đồng
ruộng Bình Sơn, biến hàng ngàn hécta ruộng gieo một vụ thành ruộng cấy hai vụ.
Ngày nay, nhiều địa phương đã dùng phương tiện cơ giới trong làm đất, gặt, đập
lúa.
Cây lương thực ở Bình Sơn, trước kia đa phần là lúa gieo, ngô, sắn, khoai,
chủ yếu là lúa. Cây thực phẩm có các loại đậu. Sau ngày giải phóng, Bình Sơn
trồng khá nhiều dưa hấu. Dưa hấu Bình Sơn đã xuất đi cả nước và sang cả Trung
Quốc. Cây công nghiệp truyền thống có cây mía, dâu tằm, lạc, vừng, vài chục năm
gần đây thêm cây chè, cây bạch đàn, cây điều, cây bông, cây cao su cho thu hoạch
khá. Diện tích gieo trồng cây lương thực ở huyện Bình Sơn năm 2005 là 11.270ha,
sản lượng lương thực 51.993 tấn, bình quân lương thực đầu người cùng năm trong
toàn huyện là 289kg, thuộc hạng thấp nhất trong các huyện đồng bằng tỉnh Quảng
Ngãi. Tuy nhiên, xét trong địa hạt huyện thì có xã vượt rất cao như xã Bình Thanh
Đông bình quân lương thực đầu người lên đến 772kg, xã Bình Chương 581kg, xã
Bình Thới 556kg, xã Bình Tân 516kg, xã Bình Khương 501kg; ngược lại, các xã
ven biển chuyên nghề cá hay trồng các loại cây khác thường có bình quân lương
thực rất thấp (dưới 100kg) như Bình Đông (63kg), Bình Thạnh (39kg), Bình Hải
(46kg) và thị trấn Châu Ổ chuyên buôn bán (33kg), do vậy có sự chênh lệnh cao
giữa các xã về bình quân lương thực đầu người. Trong thành phần lương thực có
hạt thì ngô chiếm khoảng 1/10 về diện tích và sản lượng (1.375ha, 5.129 tấn).
Trong số cây công nghiệp ở Bình Sơn thì đáng kể nhất là cây mía, cây sắn.
Năm 2004, mía có diện tích 874ha, sản lượng 43.294 tấn. Mía trồng nhiều nhất ở
các xã Bình Mỹ, Bình Tân, Bình Khương. Sắn năm 2005 có 1.990ha, sản lượng
36.417 tấn, được trồng nhiều nhất ở các xã Bình Minh, Bình Khương, Bình An,
Bình Trung. Đậu phụng cũng là cây trồng đáng kể với diện tích 1.195ha, sản
70
Đồ án tốt nghiệp – SV Nguyễn Thế Đình
lượng 2.120 tấn, nhiều nhất ở các xã Bình Trung, Bình Hòa, Bình Minh, Bình
Thạnh.
3.3. Tình hình sử dụng thuốc bảo vệ thực vật và phân bón hóa học trong canh
tác cây lúa ở huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi
3.3.1. Tình hình sử dụng phân bón
Bên cạnh việc đầu tư cải thiện giống để tăng năng suất, người nông dân còn
gia tăng việc cung cấp dưỡng chất cho cây. Trong đó, phải kể đến là sử dụng phân
bón để bổ sung thêm dưỡng chất cho cây trồng. ảnh hưởng của chúng được biết
đến như là một loại chất cung cấp chất dinh dưỡng cho cây trồng nói chung và cho
cây lúa nói riêng. Thiếu phân bón cây không thể sinh trưởng tốt và cho năng suất
cao được. Ngoài ra phân bón có vai trò quan trọng trong thâm canh tăng năng suất
cây trồng, bảo vệ cây trồng và nâng cao độ phì nhiêu cho đất.
Theo điều tra tại điểm này, thì ở huyện Bình Sơn- tỉnh Quảng Ngãi đang sử
dụng 2 nhóm phân bón chính cho cây lúa: phân hữu cơ (chuồng) và phân vô cơ.
Dưới đây là kết quả điều tra về tình hình sử dụng phân bón cho 80 hộ nông dân.
Trong đó, phân hóa học được sử dụng chủ yếu, phân chuồng và các loại khác như
tro dừa chỉ được dùng để bón lót, hỗ trợ thêm.
Bảng 3.1 Thống kê tỉ lệ % nông hộ có sử dụng phân bón
STT
Tên phân bón
Tỷ lệ % nông hộ có sử
dụng
Phân hữu cơ
1
Phân chuồng
2
Tro dừa
Phân vô cơ (hóa học)
Sử dụng riêng.
3
Kali
4
Lân
5
Urê
6
NPK 20-20-15
7
NPK 16-6-8
8
NPK (đầu trâu)
Sử dụng kết hợp
71
30/80 = 37.5%
25/80 = 31.25%
3/80 = 3.75%
5/80 = 6.25%
6/80 = 7.5%
12/80 = 15%
8/80 = 10%
7/80 = 8.75%
Đồ án tốt nghiệp – SV Nguyễn Thế Đình
9
10
11
12
Lân và NPK (đầu trâu)
Lân và Urê
Urê và NPK (đầu trâu)
Urê và NPK 20-20-15
9/80 = 11.25%
10/80 = 12.5%
8/80 = 10%
12/80 = 15%
Biểu đồ 3.1. Tỉ lệ nông hộ sử dụng các loại phân vô cơ
Theo như biểu đồ phía trên (Biểu đồ 3.1) số nông hộ sử dụng riêng các loại
phân Kali, Urê, Lân chiếm tỉ lệ thấp, dưới 30% so với các nông hộ sử dụng phân
N-P-K và kết hợp N-P-K với các loại phân khác, chiếm hơn 2/3 số nông hộ
Bảng 3.2 Thống kê % nông hộ theo số lần bón phân trong 1 vụ
Số lần bón
Loại phân bón
Urê
Lân
Kali
NPK và Kết hợp
Bón
1 Bón
2 Bón
lần/vụ
lần/vụ
lần/vụ
16.7%
20%
33.3%
20%
33.3%
12.12%
50%
60%
66.7%
80.30%
7.58%
72
3
Đồ án tốt nghiệp – SV Nguyễn Thế Đình
Bảng 3.3 Thống kê % nông hộ sử dụng số lượng phân bón trong 1 vụ
Tên phân
Hữu cơ
Vô cơ
Số lượng phân bón/vụ
(Kg/ha)
0-25
>25
< 100
100-200
200-300
300-400
400-500
>500
% nông hộ bón phân
0%
81.25%
8.75%
25.00%
8.75%
22.50%
15.00%
20.00%
Biểu đồ 3.2. Tỉ lệ nông hộ tính theo số lượng phân bón trong 1 vụ
73
Đồ án tốt nghiệp – SV Nguyễn Thế Đình
3.3.2. Tình hình sử dụng thuốc bảo vệ thực vật
a. Tình hình sâu bệnh:
Qua điều tra nông hộ, có thể nhận thấy tình hình sâu bệnh rất phức tạp và
gây ảnh hưởng đến năng suất của nông sản, đặc biệt là sản lượng lúa huyện Bình
Sơn (bảng 3.2). Các yếu tố này gồm có do thiên tai và do sinh vật gây hại. Bên
cạnh các ảnh hưởng do thiên tai (bão, lũ, lụt, hạn hán), cây lúa còn bị rất nhiều loại
sinh vật khác gây hại như : côn trùng, sâu bệnh, cỏ dại, các loài gậm nhắm (ví dụ
chuột). Có thể tóm tắt theo sơ đồ 1: các yếu tố gây hại cho ruộng lúa như sau:
Các yếu tố khác
Côn trùng
Bệnh hại
Ruộng lúa
Cỏ dại
Loài gậm nhấm
Hình 3.1 Các yếu tố gây hại cho ruộng lúa
Về tình hình sâu hại: qua kết quả điều tra trực tiếp tại các hộ nông dân trồng
lúa, đa số các hộ trồng đều bị nhiễm sâu bệnh khá nặng, cụ thể là rầy nâu
(Snaphalocrosis medinalis) chiếm tỷ lệ 75.00%. Còn lại các loại sâu khác chiếm tỷ
lệ từ 16.25% đến 22.50% (sâu cuốn lá nhỏ và các loại khác) (Bảng 3.4)
Về tình hình bệnh hại: tương tự như tình hình sâu hại, bệnh hại cũng góp
phần gây ảnh hưởng đến năng suất và phẩm chất của nông sản. Cụ thể chiếm tỷ lệ
nhiều nhất là bệnh Cháy lá (do nấm Pyricularia oryzae) chiếm 66.25% , kế đến là
bệnh khô vằn (đốm vằn) (Rhizotonta solani) 53.75% và đến bệnh bạc lá (do vi
khuẩn Xanthomonas oryzae) chiếm 26.25% (Bảng 3.4). Như đã trình bày phía
74
Đồ án tốt nghiệp – SV Nguyễn Thế Đình
trên, tình hình sâu bệnh tương đối phổ biến đã dẫn đến việc nông dân phải dùng
một lượng thuốc BVTV để tiêu diệt các loài gây hại trên. (Bảng 3.4)
Ngoài ra có một số loại cỏ dại cũng là một trong những nguyên nhân làm
giảm năng suất của lúa do cạnh tranh về chất dinh dưỡng .
Bảng 3.4: Tỷ lệ phần trăm số nông hộ có ruộng lúa bị nhiễm các loại sâu, bệnh tại
huyện Bình Sơn vào tháng 2/2012.
% nhiễm
Sâu hại
- Sâu cuốn lá nhỏ (Snaphalocrosis medinais)
16.25%
- Rầy nâu (Nilaparvatalugens)
75.00%
- Một số loại khác
22.50%
Bệnh hại
-Cháy lá (do nấm Pyricularia oryzae)
66.25%
-Khô vằn (đốm vằn) (Rhizotonta solani)
53.75%
-Bạc lá và bệnh khác (do vi khuẩn Xanthomonas oryzae)
26.25%
75