1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Thạc sĩ - Cao học >

1 : Tổng quan về thanh toán quốc tế và rủi ro trong thanh toán quốc 3: Giải pháp hạn chế rủi ro trong thanh toán quốc tế tại Eximbank KẾT LUẬN 1 KẾT LUẬN 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (867.22 KB, 101 trang )


biện chứng để luận giải các vấn đề liên quan. Bên cạnh đó, các phương pháp nghiên cứu sau đã được sử dụng: phân tích, thống kê, tổng hợp, so sánh dựa trên cơ sở số liệu
thống kê của Eximbank Việt Nam.

5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài:


Luận văn làm sáng tỏ vị trí và vai trò của thanh tốn quốc tế trong nền kinh tế; các rủi ro thường gặp trong thanh toán quốc tế; đặc biệt đi sâu vào phân tích rủi ro các
phương thức thanh tốn quốc tế dưới góc độ các bên tham gia trong q trình thanh tốn xuất nhập khẩu. Căn cứ vào những tổng hợp rủi ro, cơ sở lý luận đã xây dựng và
thực tiễn nghiên cứu, đề ra thêm những giải pháp nhằm quản lý những rủi ro trong các phương thức thanh toán quốc tế tại Eximbank Việt Nam một cách hiệu quả hơn.

6. Kết cấu của luận văn:


Ngoài phần mục lục, mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu thành 3 chương như sau:

Chương 1 : Tổng quan về thanh toán quốc tế và rủi ro trong thanh toán quốc


tế Chương 2 :
Thực trạng h o ạ t đ ộ n g t h a n h t o á n q u ố c t ế v à rủi ro trong thanh toán quốc tế tại Eximbank Việt Nam

Chương 3: Giải pháp hạn chế rủi ro trong thanh toán quốc tế tại Eximbank


Việt Nam.
1

CHƯƠNG 1 : TỔNG QUAN VỀ THANH TOÁN QUỐC TẾ VÀ


RỦI RO TRONG THANH TOÁN QUỐC TẾ
  
1.1 Tổng quan về thanh toán quốc tế 1.1.1 Khái niệm về thanh toán quốc tế
TTQT là việc chi trả các nghĩa vụ tiền tệ phái sinh trong các quan hệ kinh tế, thương mại, tài chính, tín dụng giữa các tổ chức, các đơn vị kinh tế, các cá nhân
giữa nước này với nước khác.
TTQT là khâu rất quan trọng trong quá trình thực hiện bn bán – trao đổi hàng hóa – dịch vụ giữa các nước. Nó phản ánh sự vận động có tính chất quy luật của
giá trị trong q trình chu chuyển hàng hóa tiền tệ giữa các quốc và được xem là khâu
cuối cùng trong một giao dịch kinh tế.
TTQT không chỉ đơn thuần giống hoạt động thanh toán trong quan hệ giao dịch mua bán trong nước, mà TTQT rất phức tạp. Điều này là do TTQT có liên quan
đến nhiều quốc gia khác nhau, với nhiều đồng tiền thanh toán khác nhau. Và hơn nữa, việc thanh tốn giữa các nước đều phải tiến hành thơng qua các tổ chức tài chính trung
gian mà chủ yếu là Ngân hàng. Hoạt động thanh tốn thường khơng dùng tiền mặt, chủ yếu là thanh quyết tốn giữa các ngân hàng. Vì vậy, TTQT có những nét đặc thù
riêng. 1.1.2 Các điều kiện trong thanh toán quốc tế
Để thực hiện TTQT, điều khoản thanh toán quy định trong hợp đồng ngoại thương các bên tham gia phải quan tâm đến các điều kiện về tiền tệ, thời hạn thanh
toán, phương thức thanh toán và bộ chứng từ thanh toán. 1.1.2.1 Điều kiện về tiền tệ

1.1.2.1.1 Lựa chọn đồng tiền tính tốn và đồng tiền thanh toán:


Điều kiện này quy định cụ thể sử dụng đồng tiền nào để tính tốn và thanh tốn trong quan hệ mua bán và cách xử lý khi tỷ giá hối đoái biến động nhằm đảm bảo
quyền lợi các bên tham gia ký kết hợp đồng. Trong giao dịch thương mại quốc tế đồng
2
tiền tính tốn và đồng tiền thanh tốn có thể giống nhau hoặc khác nhau, có thể là tiền tệ của nước người mua, nước người bán hoặc nước thứ ba, thông thường là các ngoại
tệ mạnh. Tuy nhiên để xác định điều kiện tiền tệ trong các hợp đồng mua bán giữa các
nước với nhau thì dựa vào các yếu tố sau:
So sánh tương quan lực lượng của bên mua và bên bán, năng lực kinh doanh của các bên và mối quan hệ cung cầu về hàng hoá mà hai bên mua bán trên thị trường.
Vị trí của đồng tiền trên thế giới. Tập quán sử dụng đồng tiền trong thanh toán quốc tế.
Trong quan hệ thanh toán quốc tế người mua và người bán muốn dùng đồng
tiền của mình để tính tốn và thanh tốn vì những lý do sau: Khơng phải xuất ngoại tệ
để trả nợ; Tránh được sự biến động của tỷ giá; Nâng cao uy tín của đồng tiền nước
mình trên thế giới. 1.1.2.1.2 Lựa chọn kỹ thuật đảm bảo khi tỷ giá biến động: để
tránh rủi ro cho các nhà xuất nhập khẩu khi tỷ giá tăng ảnh hưởng đến khoản thanh toán chi trả cho nhà nhập khẩu, và ngược lại khi tỷ giá giảm ảnh hưởng đến thu nhập
của nhà xuất khẩu. Cho nên khi ký kết hợp đồng mua bán ngoại thương, đôi bên cần thiết bàn bạc lựa chọn đưa vào điều kiện đảm bảo trong hợp đồng nhằm đảm bảo
quyền lợi và nghĩa vụ giữa các bên. Thông thường các điều kiện đảm bảo bao gồm: a. Đảm bảo vàng: Theo điều kiện đảm bảo vàng có ba cách:
Đảm bảo theo khối lượng vàng: khi ký kết hợp đồng, quy định đơn giá và tổng giá trị hợp đồng được quy đổi trực tiếp bằng một khối lượng vàng nhất định. Khi
thanh tốn dựa vào khối lượng vàng đã tính tốn để thanh toán. Đảm bảo theo hàm lượng vàng: khi ký kết hợp đồng đơn giá và tổng giá trị
hợp đồng được xác định theo một đồng tiền có xác định hàm lượng vàng. Khi thanh toán nếu hàm lượng vàng thay đổi thì đơn giá và tổng giá trị được điều chỉnh tương
ứng. Đảm bảo theo giá vàng: Khi ký hợp đồng, đơn giá và tổng giá trị hợp đồng
được tính tốn theo một đồng tiền nào đó, đồng thời quy định giá vàng của đồng tiền
3
đó. Đến khi thanh tốn giá vàng biến động thì đơn giá và tổng giá trị hợp đồng sẽ tiến hành điều chỉnh cho phù hợp với giá vàng thực tế hiện tại.

b. Đảm bảo ngoại tệ: Có hai cách đảm bảo ngoại tệ:


Đảm bảo ngoại tệ: là việc đảm bảo dựa vào một ngoại tệ tương đối ổn định mà do hai bên lựa chọn.
Đảm bảo theo rổ ngoại tệ: là việc lựa chọn một số ngoại tệ làm đảm bảo. Số ngoại tệ càng nhiều thì tính chính xác càng cao nhưng phức tạp trong tính tốn. Theo
điều kiện này lấy giá từng ngoại tệ tại thời điểm ký hợp đồng và thanh tốn nếu biến động thì tiến hành điều chỉnh lại tổng giá trị hợp đồng.

c. Đảm bảo theo biến động giá cả hàng hoá: căn cứ vào biến động


chỉ số giá cả hàng hoá hàng hoá lúc thanh toán so với lúc ký hợp đồng điều chỉnh.

1.1.2.2 Điều kiện về thời gian thanh toán


Đây là điều kiện rất quan trọng vì thời gian thanh tốn càng ngắn càng giảm được chi phí thanh toán, tránh được những biến động về tỷ giá, ảnh hưởng lớn đến
việc luân chuyển vốn và các khoản thu nhập của các bên. Trong điều kiện về thời hạn
thanh tốn có thể lựa chọn một trong ba cách quy định sau:  Trả tiền trước: Việc trả tiền trước một phần giá trị hợp đồng được thực
hiện sau khi ký hợp đồng hoặc nhận đơn đặt hàng, nhưng phải trước khi giao hàng. Thực chất trả tiền trước chính là nhà nhập khẩu cấp tín dụng ngắn hạn cho nhà xuất
khẩu, trong trường hợp nhà xuất khẩu thiếu vốn, số tiền trả trước tương đối lớn và thời gian trả tương đối dài. Nếu với mục đích nhằm đảm bảo thực hiện hợp đồng thì số tiền
ít hơn và thời gian trả trước ngắn hơn, số tiền trả trước mang tính chất như một khoản
tiền đặt cọc.  Trả tiền ngay: Việc trả tiền được thực hiện ngay sau khi người bán hoàn
thành nghĩa vụ giao hàng theo như quy định trong hợp đồng, tức là trong khoảng thời gian từ lúc chuẩn bị xong hàng, giao hàng cho người chuyên chở cho đến khi hàng
được giao người mua theo đúng quy định.  Trả tiền sau: Việc trả tiền của người mua được thực hiện trong các
trường hợp sau:
4
Người mua trả tiền sau bao nhiêu ngày kể từ ngày nhận được thông báo của
người bán đã hoàn thanh nghĩa vụ giao hàng tại nơi quy định. Người mua trả tiền sau bao nhiêu ngày kể từ ngày chấp nhận hối phiếu.
Người mua trả tiền sau bao nhiêu ngày kể từ ngày nhận được bộ chứng từ.
Người mua trả tiền sau bao nhiêu ngày kể từ ngày nhận hàng. 1.1.2.3 Điều kiện về phương thức thanh toán
PTTT là cách thức hai bên trong quan hệ hợp đồng ngoại thương thực hiện chuyển tiền và nhận tiền. Hiện nay, các NHTM cung cấp nhiều PTTT tiện ích, đa dạng
cho khách hàng như: chuyển tiền, nhờ thu, tín dụng chứng từ,…. Mỗi PTTT đều có đặc điểm riêng và có thể gây rủi ro, bất lợi hoặc tạo thuận lợi cho các bên. Vì vậy, các
bên cần phải lưu ý khi lựa chọn PTTT trong kinh doanh quốc tế. 1.1.2.4 Điều kiện về bộ chứng từ thanh toán
Bộ chứng từ mô tả hàng hóa, dịch vụ và tồn bộ quá trình thực hiện hợp đồng. Nhà xuất khẩu phải lập bộ chứng từ xuất trình để chứng minh việc giao hàng
của mình. Nhà nhập khẩu sẽ nhận hàng dựa trên bộ chứng từ nhà xuất khẩu lập. Trong một số phương thức, việc quyết định thanh toán chỉ dựa vào bộ chứng từ nhà xuất
khẩu xuất trình. Với mong muốn hạn chế rủi ro trong thương mại, nhà nhập khẩu thường đòi hỏi chứng từ đầy đủ về số lượng, nội dung, hồn hảo đến từng chi tiết và
đơi khi cả đơn vị phát hành chứng từ. Điều này có thể làm gia tăng chi phí, tốn thời gian cho nhà xuất khẩu, thậm chí đơi khi nhà xuất khẩu khơng thể thực hiện được. Vì
vậy, ngay từ thời điểm ký hợp đồng, các bên cần phải quy định rõ ràng về bộ chứng từ thanh toán để tạo thuận lợi cho quá trình mua bán.
1.1.3 Các phương thức thanh tốn quốc tế thơng dụng 1.1.3.1 Phương thức chuyển tiền Remittance:
Khái niệm: phương thức chuyển tiền là phương thức thanh tốn trong đó một khách hàng người trả tiền, người mua hàng, người nhập khẩu.. yêu cầu ngân
hàng phục vụ mình chuyển một số tiền nhất định cho người hưởng lợi người bán,người xuất khẩu, người cung cấp dịch vụ ở một thời điểm nhất định. Ngân hàng
5
chuyển tiền phải thông qua đại lý của mình ở nước người hưởng lợi để thực hiện
nghiệp vụ chuyển tiền. Quy trình nghiệp vụ chuyển tiền được thể hiện trong sơ đồ sau:
Sơ đồ 1.1: Quy trình nghiệp vụ chuyển tiền
1 Giao dịch thương mại bao gồm kí kết hợp đồng ngoại thương hoặc thực hiệc cung cấp hàng hoá dịch vụ;
2 Người nhập khẩu yêu cầu ngân hàng của mình chuyển một số tiền nhất định cho người xuất khẩu;
3 Ngân hàng chuyển tiền ra lệnh cho ngân hàng đại lý của mình ở nước ngồi để chuyển trả cho người xuất khẩu;
4 Ngân hàng đại lý chuyển tiền cho người xuất khẩu;

1.1.3.2 Phương thức nhờ thu Collection.


Khái niệm: phương thức nhờ thu là phương thức thanh tốn mà người bán sau khi hồn thành nghĩa vụ giao hàng sẽ kí hối phiếu đòi tiền người mua, nhờ ngân
hàng thu hộ số tiền thu ghi trên tờ hối phiếu đó.Có hai loại nhờ thu: a. Nhờ thu phiếu trơn Clean collection: là phương thức mà người bán
nhờ ngân hàng thu hộ tiền hối phiếu ở người mua, nhưng không kèm theo điều kiện.

b. Nhờ thu kèm chứng từ Documentary collection: là phương thức mà


người bán sau khi sau khi hoàn thành nghĩa vụ giao hàng, lập bộ chứng từ thanh toán nhờ thu chứng từ gửi hàng và hối phiếu và nhờ ngân hàng thu hộ tờ hối phiếu đó với
điều kiện là người mua trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền thì ngân hàng mới trao toàn bộ chứng từ gửi hàng cho người mua để họ nhận hàng.
Quy trình nghiệp vụ nhờ thu được thể hiện trong sơ đồ sau: NGÂN HÀNG
NGÂN HÀNG
NGƯỜI XUẤT KHẨU NGƯỜI NHẬP KHẨU
1 2
3 4
6
Sơ đồ 1.2 Quy trình nghiệp vụ nhờ thu
1 Người bán giao hàng, lập bộ chứng từ và gửi bộ chứng từ thẳng cho người mua nhờ thu phiếu trơn hoặc chuyển bộ chứng từ cùng với hối phiếu cho ngân hàng nhờ
thu kèm chứng từ.
2 Người bán ký phát hối phiếu đòi tiền người mua và nhờ ngân hàng thu hộ tiền của hối phiếu đó nhờ thu phiếu trơn hoặc người bán chuyển bộ chứng từ cùng với hối
phiếu cho ngân hàng và nhờ ngân hàng thu hộ số tiền ghi trên hối phiếu nhờ thu kèm chứng từ.
3,4 Đòi tiền người mua thơng qua ngân hàng 5, 6, 7 Người mua trả tiền cho người bán thơng qua ngân hàng.

1.1.3.3 Phương thức tín dụng chứng từ Documentary Credit


Khái niệm: Phương thức thanh tốn tín dụng chứng từ còn gọi tắt là LC là một sự thoả thuận, trong đó một Ngân hàng ngân hàng mở thư tín dụng theo yêu cầu
của khách hàng người yêu cầu mở thư tín dụng sẽ trả một số tiền nhất định cho một người thứ ba người hưởng lợi số tiền của thư tín dụng hoặc chấp nhận hối phiếu do
người này ký trong phạm vi số tiền đó khi người này xuất trình cho ngân hàng một bộ chứng từ thanh toán phù hợp với những quy định đề ra trong thư tín dụng.
Qui trình nghiệp vụ tín dụng chứng từ được thể hiện qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 1.3 Quy trình nghiệp vụ tín dụng chứng từ
NGÂN HÀNG BÊN BÁN
NGÂN HÀNG BÊN MUA
NGƯỜI BÁN
NGƯỜI MUA
1 6
3
4 5
7 2
Hợp đồng ngoại thương
NGÂN HÀNG THÔNG BÁO
NGÂN HÀNG MỞ LC
NGƯỜI BÁN NH XUẤT KHẨU
NGƯỜI MUA NH NHẬP KHẨU
1 7
8 4
6 5
3 6
2 5
7
1 Người mua làm đơn xin mở LC và gởi cho ngân hàng mở LC, yêu cầu ngân hàng mở LC cho người người hưởng.
2 Căn cứ vào đơn xin mở LC, Ngân hàng mở LC tiến hành mở LC và thông báo nội dung LC này cho người bán biết và gởi bản chính LC cho người bán thông qua
ngân hàng của họ. 3 Ngân hàng thông báo thông báo nội dung LC cho người bán và chuyển bản chính
LC cho người bán. 4 Người bán giao hàng cho người mua, nếu chấp nhận LC; nếu không chấp nhận
LC thì yêu cầu người mua và Ngân hàng mở LC sửa đổi LC theo ý của mình, đến khi chấp nhận mới tiến hành giao hàng.
5 Người bán lập bộ chứng từ thanh tốn và xuất trình cho Ngân hàng mở thông qua ngân hàng thông báo hoặc một ngân hàng khác để đòi tiền.
6 Ngân hàng mở LC tiến hành kiểm tra bộ chứng từ thanh toán nếu thấy phù hợp với LC thì tiến hành trả tiền cho người bán. Nếu thấy không phù hợp ngân hàng mở
từ chối thanh tốn và gởi trả lại tồn bộ chứng từ cho người bán. 7 Ngân hàng mở đòi tiền người mua.
8 Người mua kiểm tra chứng từ, nếu thấy phù hợp với LC thì trả tiền lại cho Ngân hàng mở LC và nhận bộ chứng từ; nếu thấy khơng phù hợp có quyền từ chối trả tiền.
1.1.4 Vai trò của thanh tốn quốc tế 1.1.4.1 Vai trò của thanh tốn quốc tế đối với nền kinh tế
TTQT ra đời từ các quan hệ kinh tế đối ngoại và bản thân nó thúc đẩy sự phát triển của các quan hệ kinh tế đối ngoại. TTQT là cầu nối trong mối quan hệ kinh
tế đối ngoại, khơng có hoạt động TTQT thì khơng có hoạt động kinh tế đối ngoại. TTQT thúc đẩy hoạt động kinh tế đối ngoại phát triển. Việc tổ chức TTQT được tiến
hành nhanh chóng, an tồn chính xác, sẽ làm cho các nhà sản xuất yên tâm và đẩy mạnh hoạt động XNK của mình, nhờ đó thúc đẩy hoạt động kinh tế đối ngoại phát
triển, đặc biệt là hoạt động ngoại thương.
Đồng thời, hoạt động TTQT góp phần hạn chế rủi ro trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh tế đối ngoại. Trong hoạt động TTQT, do vị trí địa lý các đối tác xa
8
nhau nên việc tìm hiểu khả năng tài chính, khả năng thanh tốn của người mua gặp nhiều khó khăn. Nếu tổ chức tốt cơng tác TTQT thì sẽ giúp cho các nhà kinh doanh
hàng hoá XNK hạn chế được rủi ro trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh tế đối
ngoại, nhờ đó thúc đẩy hoạt động kinh tế đối ngoại phát triển.
Vì vậy, TTQT đóng một vai trò quan trọng trong việc thực hiện quá trình
hội nhập của một quốc gia đối với phần còn lại của Thế giới. 1.1.4.2 Vai trò của thanh toán quốc tế đối với các NHTM:
Đối với hệ thống NHTM, TTQT là dịch vụ mang lại lợi nhuận cao. Nghiệp vụ TTQT có mối quan hệ tương hỗ và tạo điều kiện phát triển các hoạt động kinh
doanh khác của ngân hàng như: kinh doanh ngoại tệ, tài trợ ngoại thương, bảo lãnh, đầu tư, ngân quỹ… Và cùng với các nghiệp vụ này, hoạt động TTQT đã mở rộng
phạm vi giao dịch, nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng ra ngoài trụ sở hành chính của nó.
Trong xu thế tồn cầu hố các hoạt động mậu dịch tài chính hiện nay, người ta thể chế hoá một số nghiệp vụ TTQT. Một số luật chủ yếu chi phối hoạt động của
TTQT như sau: Phòng thương mại quốc tế ICC đã ban hành “quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ” gọi tắt là UCP. UCP500 áp dụng từ ngày 1-1-1994
và được sửa đổi thành UCP 600 đã được áp dụng chính thức vào ngày 1-7-2007, đóng vai trò là hành lang pháp lý cho mọi giao dịch quốc tế của Ngân hàng và nền thương
mại thế giới; “Quy tắc thống nhất về hồn trả tiền hàng theo tín dụng chứng từ” gọi tắt là URR bản 725 và đối với nghiệp vụ nhờ thu, phòng thương mại quốc tế đã soạn
thảo “Quy tắc thống nhất về nghiệp vụ nhờ thu” gọi tắt là URC bản đầu tin 1956 bản 522 áp dụng từ 1-1-1996 là bản mới nhất; ngoài ra còn có các luật chi phối hoạt động
TTQT: luật thống nhất về hối phiếu và kỳ phiếu Công ước Geneve 1930… Ngoài ra để tạo điều kiện thực thi thuận lợi và có hiệu quả cho Cơng ước Geneve đồng thời bảo
vệ lợi ích cho nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức cá nhân tham gia quan hệ thương phiếu Uỷ Ban Thường vụ Quốc hội đã ra pháp lệnh số 171999PL-
UBTVQH, ngày 24 tháng 12 năm 1999, ngày 10 tháng 12 năm 2003 Chính Phủ cũng
9
đã đưa ra Nghị Định số 1592003NĐ-CP về cung ứng và sử dụng Sec tạo một bước thơng thống mới và đa dạng hơn cho cơng cụ thanh toán trong hoạt động TTQT .
1.2 Rủi ro trong thanh toán quốc tế 1.2.1 Khái niệm về rủi ro
Có thể nói rủi ro tồn tại ở khắp mọi lĩnh vực trong cuộc sống, hiện diện ở hầu hết trong mọi hoạt động của con người. Khi có rủi ro, người ta khơng thể dự đốn
chính xác kết quả, và sự hiện diện của mọi rủi ro gây nên sự bất định. Nguy cơ rủi ro sẽ phát sinh bất cứ khi nào một hành động dẫn đến khả năng được hay mất khơng thể
đốn trước. Vậy rủi ro là gì?
Quan điểm về rủi ro có hai trường phái lớn: đó là trường phái truyền thống hay còn gọi là trường phái tiêu cực và trường phái trung hòa. Theo trường phái
truyền thống, rủi ro là những thiệt hại, mất mát, nguy hiểm hoặc các yếu tố liên quan đến nguy hiểm, khó khăn, hoặc điều khơng chắc chắn có thể xảy ra cho con người. Đại
diện của trường phái này, từ điển Oxford cho rằng rủi ro là khả năng gặp nguy hiểm hoặc bị đau đớn thiệt hại…. Trong khi đó, theo cách nhìn của trường phái trung hòa,
rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường được. Theo Allan Willett, một đại biểu của trường phái trung hòa, thì rủi ro là sự bất trắc có liên quan đến việc xuất hiện những biến cố
không mong đợi.
Mỗi quan điểm hay khái niệm trên sử dụng những ngôn từ khác nhau nhưng đều có điểm chung là đề cập đến một hay một chuỗi sự kiện mà nó xảy ra sẽ tạo ra các
tổn thất hoặc đem lại những cơ hội. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả chỉ xét rủi ro ở đây như là các biến cố có thể gây ảnh hưởng xấu đến q trình hoạt động
kinh doanh của các ngân hàng thương mại, làm giảm hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Từ đó đưa ra các giải pháp hạn chế rủi ro nhằm ngăn chặn các tổn thất trong
hoạt động của ngân hàng. 1.2.2 Rủi ro trong thanh toán quốc tế
Sự cách biệt về địa lý, ngôn ngữ, hệ thống luật pháp, tập quán kinh doanh... làm cho hoạt động TTQT nói riêng và nghiệp vụ ngân hàng đối ngoại nói chung chứa
đựng nhiều rủi ro tiềm ẩn. Bên cạnh các rủi ro vốn có của hoạt động ngân hàng thương
10
mại như: rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất, rủi ro hoạt động, rủi ro thị trường...hoạt động TTQT chứa đựng nhiều rủi ro đặc thù. Sau đây là một số loại rủi ro
mà các ngân hàng thường gặp: 1.2.2.1 Rủi ro quốc gia, rủi ro chính trị pháp lý
Là khả năng mà một quốc gia hoặc người đi vay của một quốc gia nhất định không muốn hoặc không thể thực hiện nghĩa vụ cam kết của mình với đối tác nước
ngồi. Rủi ro quốc gia có thể tồn tại dưới các dạng sau:
Rủi ro chính trị: Tính ổn định của một quốc gia đóng vai trò rất quan trọng
trong giao thương quốc tế. Bất cứ một sự thay đổi nào về chỉnh thể, chính sách của chính phủ đều có thể ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh quốc tế. Chẳng hạn, khi
một quốc gia có chiến tranh, cuộc chiến sẽ phá vỡ mối quan hệ giữa quốc gia lâm chiến với một số nước khác trên Thế giới. Sự tàn phá của chiến tranh có thể làm cho
quốc gia bị nạn giảm hoặc khơng còn khả năng thực hiện các cam kết đã ký với đối tác quốc tế.
Rủi ro kinh tế: Bối cảnh kinh tế của một quốc gia sẽ tác động đến niềm tin
của nhà kinh doanh, đầu tư quốc tế đến quốc gia đó. Nếu một quốc gia suy thoái hoặc bị khủng hoảng kinh tế, khả năng thu hút vốn và giao thương quốc tế của nước đó sẽ
giảm sút và ngược lại.

1.2.2.2 Rủi ro về quản lý ngoại hối


Quản lý ngoại hối là hệ thống kiểm soát luồng ngoại hối nhập vào hoặc chuyển ra khỏi một đất nước. Trong quản lý kinh tế, các chính phủ thường ban hành
các chính sách nhằm khơi thông hoặc hạn chế luồng ngoại hối nhằm thực hiện chính sách phát triển kinh tế của quốc gia trong từng thời kỳ. Những biện pháp này có thể
tạo ra sự chậm trễ trong thanh tốn, làm gia tăng chi phí và thời gian của các thương gia và nhà đầu tư quốc tế.

1.2.2.3 Rủi ro tác nghiệp


Rủi ro tác nghiệp là rủi ro xảy ra trong quá trình thực hiện nghiệp vụ. Trong nghiệp vụ tín dụng chứng từ, rủi ro tác nghiệp xảy ra phần lớn là do trình độ của cán
bộ nhân viên. Ngoài ra, sự sơ suất, thiếu cẩn thận dẫn đến việc hành động không theo
11
đúng các quy định, tập quán quốc tế cũng gây ra những rủi ro tác nghiệp nghiêm trọng. Hậu quả của rủi ro tác nghiệp là rất lớn, ảnh hưởng đến uy tín và tài sản của
ngân hàng.

1.2.2.4 Rủi ro tín dụng


Rủi ro tín dụng là rủi ro xảy ra khi ngân hàng không thu hồi được các khoản tín dụng đã cấp cho các bên tham gia trong phương thức tín dụng chứng từ. Các khoản
tín dụng đó là: mở LC theo u cầu nhà nhập khẩu, cho nhà nhập khẩu vay để thanh
toán LC, chiết khấu bộ chứng từ xuất khẩu theo LC. 1.2.2.5 Rủi ro đối tác trong các phương thức thanh toán quốc tế
Rủi ro này phát sinh do bởi các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu, các ngân hàng đại lý tham gia vào hoạt động thanh tốn xuất nhập khẩu khơng thực hiện đúng
nghĩa vụ của mình. Điều này được thể hiện rõ qua các hình thức như:người bán khơng giao hàng theo đúng hợp đồng xét về mặt thời gian, số lượng, chủng loại,….Người
mua chậm thanh toán do chưa chuẩn bị kịp tiền thanh tốn, thanh tốn khơng đủ, hoặc thậm chí từ chối thanh tốn dù người bán đã cung ứng hàng hóa, người mua bị mất
khả năng chi trả, vỡ nợ, phá sản; bất đồng về xử lý nghiệp vụ giữa các ngân hàng đại lý, sự yếu kém về công tác quản lý khách hàng của Ngân hàng phục vụ nhà nhập khẩu
cộng với tình trạng mất khả năng thanh tốn, phá sản của các Ngân hàng này.
Ngoài các rủi ro trên, thanh tốn XNK còn gặp phải những rủi ro khác như: rủi ro bất khả kháng, lừa đảo người mua lừa người bán, hoặc người bán lừa người
mua, hoặc người mua và nguời bán thông đồng để chiếm đoạt các khoản tài trợ của
Ngân hàng, rửa tiền, … Rủi ro trong phương thức chuyển tiền:

a. Chuyển tiền sau khi nhận hàng:


Nghiệp vụ chuyển tiền là phương thức đơn giản, trong đó người chuyển tiền và người nhận tiền tiến hành thanh toán trực tiếp với nhau. Ngân hàng chỉ là trung
gian và chỉ hưởng hoa hồng mà không bị ràng buộc bất kỳ trách nhiệm nào. Việc trả tiền hay khơng phụ thuộc vào thiện chí của nhà nhập khẩu, nhà nhập khẩu có thể sau
khi nhận được hàng nhưng khơng tiến hành chuyển tiền, hoặc cố tình dây dưa kéo dài
12
thời hạn trả tiền để chiếm dụng vốn của nhà xuất khẩu, quyền lợi của tổ chức xuất khẩu khơng được đảm bảo. Chính vì vậy mà trong ngoại thương phương thức chuyển
tiền này chỉ áp dụng trong trường hợp các bên mua bán có uy tín và tin cậy lẫn nhau hoặc thường dùng để thanh toán các chi phí liên quan đến xuất nhập khẩu như: bảo
hiểm, vận chuyển, bưu điện…. b. Chuyển tiền trước khi nhận hàng: Nhà nhập khẩu chấp nhận
giá hàng của nhà xuất khẩu và chuyển thanh toán cùng với đơn đặt hàng khi hàng hóa được chắc chắn khơng hủy ngang, nghĩa là việc thanh tốn xảy ra trước khi hàng hoá
được chở đi. Rủi ro đối với nhà xuất khẩu: Nếu nhà nhập khẩu không thực hiện thanh
tốn trước, thì nhà xuất khẩu phải chịu chi phí quản lý, chi phí lưu kho, tiền bảo hiểm, hoặc phải chở hàng trở về nếu hàng đã gửi đi, và tìm khách hàng mua khác rất tốn
kém hay phải giảm giá.
Rủi ro đối với nhà nhập khẩu: Phương thức này đảm bảo cho nhà xuất khẩu nhận thanh toán trước khi giao hàng, ngược lại đối với nhà nhập khẩu phải gánh chịu
những rủi ro: Hàng bị chủ tâm không giao hoặc được giao không đúng số lượng, chất lượng của hợp đồng. Hàng giao trễ hơn so với quy định. Nhà xuất khẩu không giao
hàng trong trường hợp nhà xuất khẩu bị phá sản, hoặc khơng có hàng để giao, hoặc khi giá cả thị trường đang có xu hướng tăng giá nhà xuất khẩu sẽ bán lô hàng này cho
người khách hàng khác và chấp nhận khoảng phạt trong hợp đồng nếu thấy vẫn có lợi cho mình. Khơng kiểm sốt được việc hàng hóa có được bảo hiểm đầy đủ trong q
trình vận chuyển hay khơng? Do phải thanh tốn trước, nhà nhập khẩu có thể phải chịu áp lực về tài chính. Tình hình sẽ xấu hơn, nếu hàng hóa đến chậm hoặc bị khiếm
khuyết thì điều này ngăn cản nhà nhập khẩu bán hàng thu hồi tiền và làm cho lợi
nhuận có thể giảm. Rủi ro của phương thức nhờ thu:

a. Rủi ro trong phương thức Nhờ thu trơn: Do việc trả tiền trong


phương thức nhờ thu trơn không căn cứ vào bộ chứng từ hàng hóa, mà chỉ dựa vào hối
phiếu do nhà xuất khẩu ký phát, do đó:
13
Rủi ro chủ yếu thuộc về nhà xuất khẩu, bao gồm:
Nếu nhà nhập khẩu vỡ nợ, thì nhà xuất khẩu chẳng bao giờ nhận được tiền thanh tốn.
Nếu năng lực tài chính của nhà nhập khẩu kém, thì việc thanh tốn sẽ dây dưa, chậm trễ và tốn kém.
Nếu nhà nhập khẩu chủ tâm lừa đảo, vẫn nhận hàng nhưng từ chối thanh toán hay từ chối ký chấp nhận thanh toán hối phiếu kỳ hạn.
Đến hạn thanh toán hối phiếu kỳ hạn, mà nhà nhập khẩu khơng thể thanh tốn hoặc khơng muốn thanh tốn do tình hình tài chính, kinh doanh nhà nhập khẩu
trở nên xấu đi, hay nhà nhập khẩu phát sinh chủ tâm lừa đảo thì nhà xuất khẩu có thể kiện ra tòa nhưng rất tốn kém và không phải lúc nào cũng nhận được tiền.
Rủi ro đối với nhà nhập khẩu: Rủi ro có thể phát sinh khi hối phiếu đòi
tiền đến trước và phải thực hiện nghĩa vụ thanh tốn, trong khi hàng hóa khơng được gửi đi, hoặc đã được gửi đi nhưng chưa tới, hoặc khi nhận hàng hố có thể khơng đảm
bảo đúng chất lượng, chủng loại và số lượng như đã thỏa thuận trong hợp đồng ngoại thương.

b. Rủi ro trong phương thức Nhờ thu kèm chứng từ: Trong phương


thức này nhà xuất khẩu mất quyền kiểm sốt hàng hóa và chưa được thanh tốn cũng như khơng có bảo lãnh thanh toán ngay từ lúc gửi hàng đi. Rủi ro thanh tốn hồn tồn
thuộc về nhà xuất khẩu khi nhà nhập khẩu không trả tiền khi đã nhận được hàng. Ngân hàng chỉ đóng vai trò trung gian đơn thuần, thu được hay khơng ngân hàng cũng thu
thủ tục phí, ngân hàng không chịu trách nhiệm nếu bên nhập khẩu không thanh toán. Nên nếu là tổ chức xuất khẩu ta chỉ sử dụng phương thức này khi có tín nhiệm hoàn
toàn với nhà nhập khẩu, hoặc có giá trị xuất khẩu nhỏ, mang tính chất thăm dò thị trường hay hàng hóa bị ứ đọng khó tiêu thụ… Phương thức nhờ thu kèm chứng từ thủ
tục đơn giản, và chi phí rẻ, nhưng mức độ rủi ro đối với nhà nhập khẩu và nhà xuất khẩu cao hơn so với phương thức tín dụng chứng từ.
Rủi ro đối với nhà xuất khẩu: Tập trung chủ yếu việc thanh toán khơng
được thực hiện sau khi hàng giao. Nó bao gồm:
14
Làm trái với lệnh nhờ thu, ngân hàng xuất trình đã trao bộ chứng từ hàng hóa cho nhà nhập khẩu trước khi người này thanh toán hay chấp nhận thanh tốn. Điều
này có thể xảy ra ở một số quốc gia, khi mà ngân hàng ưu tiên đặt mối quan hệ doanh nghiệp trong nước lên trên trách nhiệm và nghĩa vụ của họ đối với doanh nghiệp bên
ngoài lãnh thổ quốc gia. Lúc này, nhà xuất khẩu gặp rất nhiều khó khăn trong việc khiếu nại đối với ngân hàng xuất trình.
Chữ ký chấp nhận thanh tốn có tên bị giả mạo, hoặc người ký chấp nhận không đủ thẩm quyền hay chưa được đăng ký mẫu dấu, chữ ký.
Ngân hàng chuyển chứng từ NH nhà xuất khẩu luôn giữ lập trường rằng, nếu ngân hàng xuất trình có sai sót trong việc thực hiện lệnh nhờ thu, thì mọi hậu quả
đều do nhà xuất khẩu phải tự gánh chịu, thậm chí ngay cả trong trường hợp nhà xuất khẩu không hề liên quan đến việc chỉ định ngân hàng xuất trình Theo URC522, điều
11b. Toàn bộ hay một phần chứng từ bị thất lạc.
Số hàng hóa mà bộ chứng từ là đại diện chỉ có thể được chuyển cho hay theo lệnh của ngân hàng xuất trình với sự đồng ý của ngân hàng này từ trước. Ngồi
ra, ngân hàng khơng chịu bất cứ trách nhiệm nào về việc lưu kho, mua bảo hiểm hàng hóa, giao hàng hay dỡ hàng hóa.
Khi ngân hàng hành động để bảo vệ hàng hóa như dàn xếp việc lưu kho, mua bảo hiểm hàng hóa thì ngân hàng khơng chịu bất cứ trách nhiệm nào về tổn thất
hay hư hỏng, mất mát hàng hóa. Nhà xuất khẩu thường phải gánh chịu mọi chi phí liên quan đến cơng việc
bảo vệ hàng hóa của ngân hàng, cho dù ngân hàng không được yêu cầu làm các công việc này.
Nhà nhập khẩu đã thanh toán để nhận bộ chứng từ, nhưng ngân hàng xuất trình khơng chuyển cho ngân hàng chuyển chứng từ để trả cho nhà xuất khẩu. Điều
này có thể xảy ra, ví dụ khi ngân hàng xuất trình khơng thể hoặc phải chậm thanh toán do các giải pháp kiểm sốt ngoại hối cấm chuyển ngoại tệ ra ngồi lãnh thổ quốc gia.
15
Ngân hàng xuất trình chuyển tiền cho ngân hàng chuyển chứng từ, nhưng ngân hàng này lại chậm trễ hay bị mất khả năng thanh tốn, do đó nhà xuất khẩu nhận
được tiền chậm hoặc không nhận được tiền. Nhà nhập khẩu khước từ thanh toán hay chấp nhận thanh tốn, trong khi
hàng hóa đã được gửi từ trước. Dù nhà xuất khẩu có thể kiện nhà nhập khẩu theo hợp đồng đã ký, nhưng điều này mất nhiều thời gian, trong khi, hàng hóa có thể đã bốc dỡ
và lưu kho hoặc nhà xuất khẩu đã ra lệnh chuyên chở hàng về nước. Hàng hóa đã được bảo hiểm đầu đủ hay chưa? Và nhà xuất khẩu có thể
khiếu nại tiền bồi thường nếu hàng hóa bị tổn thất hay hư hại không? Các ngân hàng không chịu trách nhiệm về bất kỳ sự chậm trễ hay thất lạc
chứng từ nào theo URC522, điều 14a. Nếu hóa đơn thanh tốn bằng ngoại tệ, nhà xuất khẩu khơng chịu rủi ro tỷ
giá cho đến khi nhận được tiền. Bất kỳ chi phí phát sinh nào liên quan đến nhờ thu hay chi phí lãi suất mà
nhà nhập khẩu chịu như đã thỏa thuận mà nhà nhập khẩu từ chối thanh tốn, ngân hàng xuất trình vẫn trao chứng từ cho nhà nhập khẩu theo lệnh nhờ thu để được thanh
toán và khấu trừ chi phí phát sinh, số tiền còn lại trả cho ngân hàng chuyển chứng từ để thanh toán cho nhà xuất khẩu Theo URC522, điều 21a. Điều này làm nhà xuất
khẩu mất một khoản chi phí khơng muốn.
Rủi ro đối với nhà nhập khẩu: Phương thức nhờ thu kèm chứng từ phần
lớn rủi ro thuộc về nhà xuất khẩu, tuy nhiên nhà nhập khẩu vẫn đứng trước các rủi ro
sau:
Cho dù nhà nhập khẩu có cơ hội kiểm chứng từ trước khi thanh tốn hay chấp nhận thanh tốn, nhưng hàng hóa thì có thể đã khơng được kiểm định, chưa được
bảo hiểm đầy đủ, hay không tuân theo các tiêu chuẩn ghi trong hợp đồng thương mại. Nhà nhập khẩu có thể đứng trước rủi ro khi nhà xuất khẩu lập thanh toán do các giải
pháp kiểm soát ngoại hối cấm chuyển ngoại tệ ra ngoài lãnh thổ quốc gia.
16
Ngân hàng xuất trình chuyển tiền cho ngân hàng chuyển chứng từ, nhưng ngân hàng này lại chậm trễ hay bị mất khả năng thanh tốn, do đó nhà xuất khẩu nhận
được tiền chậm hoặc không nhận được tiền. Nhà nhập khẩu khước từ thanh toán hay chấp nhận thanh toán, trong khi
hàng hóa đã được gửi từ trước. Dù nhà xuất khẩu có thể kiện nhà nhập khẩu theo hợp đồng đã ký, nhưng điều này mất nhiều thời gian, trong khi, hàng hóa có thể đã bốc dỡ
và lưu kho hoặc nhà xuất khẩu đã ra lệnh chuyên chở hàng về nước. Hàng hóa đã được bảo hiểm đầy đủ hay chưa? Và nhà xuất khẩu có thể
khiếu nại tiền bồi thường nếu hàng hóa bị tổn thất hay hư hại khơng? Các ngân hàng không chịu trách nhiệm về bất kỳ sự chậm trễ hay thất lạc
chứng từ nào theo URC522, điều 14a.
Rủi ro đối với ngân hàng chuyển chứng từ
:
Nhìn chung, ngân hàng chuyển chứng từ chỉ chịu rủi ro khi đã thanh toán hay đã cho nhà xuất khẩu vay trước
khi nhận được tiền chuyển đến ngân hàng xuất trình chiết khấu chứng từ nhờ thu. Nếu không nhận được tiền chuyển đến, ngân hàng chuyển chứng từ chịu rủi ro tín
dụng trong việc nhà xuất khẩu hoàn trả tiền vay.
Rủi ro đối với ngân hàng xuất trình:
Nếu ngân hàng xuất trình chuyển tiền cho ngân hàng chuyển chứng từ trước khi nhà nhập khẩu thanh tốn, thì phải chịu rủi ro nếu như nhà nhập khẩu không nhận
chứng từ và không thanh tốn hoặc khơng chấp nhận thanh tốn. Nếu ngân hàng xuất trình cho nhà nhập khẩu vay để thanh tốn, thì có thể
chịu rủi ro tín dụng từ phía nhà nhập khẩu. Chịu trách nhiệm kiểm tra chứng từ nhận được xem có đủ và phù hợp với
danh mục liệt kê chứng từ gửi tới, nếu chứng từ không đủ hoặc khơng phù hợp thì phải thơng báo cho ngân hàng chuyển chứng từ để xin chỉ thị tiếp.
Ngân hàng chuyển chứng từ có thể yêu cầu rằng, nếu nhà nhập khẩu khơng thanh tốn hoặc khơng chấp nhận thanh tốn, thì ngân hàng xuất trình thu xếp để hàng
hóa được lưu kho và được bảo hiểm cho đến khi bán được cho khách hàng mới hay
17
chuyển hàng quay về nước. Nếu điều này xảy ra, thì ngân hàng xuất trình phải được bù đắp chi phí đầy đủ.
Rủi ro trong phương thức Tín dụng chứng từ:
Phương thức thanh tốn tín dụng chứng từ là phương thức thanh tốn đảm bảo được quyền lợi cho nhà sản xuất cao nhất so với các phương thức thanh toán khác.
Tuy nhiên nó khơng phải là phương thức thanh toán tuyệt đối an toàn cho các bên tham gia. Vẫn còn một số rủi ro cho cả nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu và các ngân
hàng tham gia.
Đối với nh à xuất khẩu:
Đối với nhà xuất khẩu có thể gặp nhiều khó khăn hoặc khơng thể thực hiện được các điều khoản trong thư tín dụng, nếu như nhà nhập khẩu cố tình mở thư tín
dụng khác với nội dung đã thỏa thuận, hoặc đưa thêm vào các điều khoản mà chưa được đồng ý trước đây, chẳng hạn:
Thời gian giao hàng quá gấp không thể đáp ứng được. Các chứng từ quy định phải xuất trình quá khó khăn hoặc khơng thể thực
hiện được. Quy định một cước phí vận tải mà nhà xuất khẩu không thể chấp nhận được.
Thời hạn hiệu lực LC quá ngắn, nhà xuất khẩu không đủ thời gian tập hợp chứng từ để xuất trình.
Loại thư tín dụng không đúng như đã được thỏa thuận. Ngay khi nhà xuất khẩu đã chấp nhận các điều kiện của thư tín dụng, vẫn
gặp rủi ro trong khâu thanh tốn: Bộ chứng từ khơng phù hợp và ngân hàng từ chối thanh toán hoặc NHPHNgân hàng xác nhận mất khả năng thanh tốn.
Trong thực tiễn bn bán giữa các quốc gia trong khu vực gần nhau, hàng đến cảng trước khi nhà nhập khẩu nhận được chứng từ vận tải. Để thuận tiện cho việc
nhận hàng mà không cần bảo lãnh của ngân hàng, người mở thư tín dụng yêu cầu một bản vận đơn gốc gửi theo hàng hoá hoặc được nhà xuất khẩu gửi trực tiếp cho nhà
nhập khẩu. Chứng từ gốc này sẽ được nhận hàng thay thế cho chứng từ gửi qua cho ngân hàng. Trong trường hợp này, nếu như ngân hàng xác định là bất hợp lệ, trong khi
18
nhà nhập khẩu đã nhận được hàng và từ chối thanh toán. Như vậy nhà xuất khẩu phải chấp nhận rủi ro.
NHPH LC không thực hiện đúng cam kết của mình trong thanh toán cho nhà xuất khẩu.
Đối với nh à nhập khẩu:
Ngân hàng sẽ tiến hành trả tiền cho người hưởng lợi dựa trên các chứng từ được xuất trình, khơng dựa vào việc kiểm tra hàng hố. Ngân hàng khơng chịu trách
nhiệm về tính xác thực của các chứng từ, không chịu trách nhiệm về số lượng và chất lượng hàng được giao. Do vậy, nếu có sự giả mạo trong việc xuất trình chứng từ giả để
nhận được thanh tốn, thì trong trường hợp này, nhà nhập khẩu phải bồi hồn lại số tiền mà NHPH thư tín dụng đã trả cho người hưởng lợi.
Trong trường hợp nhà xuất khẩu xuất trình các chứng từ phù hợp với quy định của LC và nhận được thanh toán từ ngân hàng. Nhưng hàng hố khơng giao
đúng hợp đồng. Bởi vì ngân hàng khơng liên quan đến việc kiểm tra hàng hố như đã phân tích ở trên.
Khi cần thiết có sự thay đổi về các điều khoản trong hợp đồng thì nhà nhập khẩu phải tu chỉnh, sửa đổi các điều khoản trong LC. Như vậy, thời gian giao hàng có
thể bị trễ hơn, khơng thể đáp ứng nhu cầu kinh doanh của nhà nhập khẩu kịp thời, và phải chịu phí tu chỉnh, sửa đổi.
Trong một số trường hợp, hàng đã được giao đến nơi đến nhưng nhà nhập khẩu vẫn chưa nhận được các chứng từ thanh tốn và như vậy khơng thể nhận hàng
được. nếu nhà nhập khẩu cần gấp hàng hóa hay sợ chịu chi phí lưu kho thì phải thu xếp để NHPH phát hành một bảo lãnh gửi hãng tàu để nhận hàng, nhà nhập khẩu phải
chịu thêm chi phí khơng nhỏ trả cho ngân hàng. Ngân hàng xác nhận hay một ngân hàng được chỉ định khác có thể mắc sai
lầm khi đã thanh toán cho một bộ chứng từ sai sót, sau đó ghi nợ NHPH LC. Nếu ngân hàng mắc sai lầm lại do nhà nhập khẩu chỉ định, thì NHPH có quyền truy hồn
số tiền đã bị ghi nợ. Hơn nữa, trong một số trường hợp, nhà nhập khẩu phải chấp nhận điều khoản hoàn trả cho NHPH ngay cả khi ngân hàng mắc sai lầm do NHPH chỉ định.
19
Về nguyên tắc, ngân hàng chỉ định mắc sai lầm phải hoàn trả số tiền đã ghi nợ cho NHPH, nhưng thực tế thì rất phức tạp và dễ bị từ chối. Điều này xảy ra là vì, để được
bồi hoàn buộc NHPH phải giao dịch với một ngân hàng ở rất xa và tại một quốc gia khác, hơn nữa ngân hàng này thường đề cao mối quan hệ và trách nhiệm của mình với
nhà xuất khẩu nội địa. Thậm chí, cho dù cuối cùng NHPH cũng được bồi hoàn, nhưng phải mất nhiều thời gian và chi phí có thể vượt giá trị LC.
Đối với ngân hàng: Đối với NHPH:
NHPH phải thực hiện thanh toán cho người thụ hưởng theo quy định của LC ngay cả trong trường hợp nhà nhập khẩu chủ tâm khơng hồn trả hoặc khơng hồn
trả. Với lý do này, rủi ro tín dụng đối với NHPH là rất hiện hữu. Khi thanh toán LC xác nhận, NHPH hay được yêu cầu chấp nhận thanh
toán cho người thụ hưởng mà chưa nhìn thấy bộ chứng từ. Trong trường hợp này, nếu khơng có sự chấp thuận trước của người nhập khẩu về việc hồn trả, thì NHPH sẽ gặp
rủi ro khi bộ chứng từ sai sót, nên nhà nhập khẩu từ chối, do đó ngân hàng sẽ khơng truy hồn được tiền từ nhà nhập khẩu. Về mặt ngun tắc, NHPH có quyền truy đòi
ngân hàng trả tiền cho bộ chứng từ sai sót. Nhưng như đã nói ở trên, việc này tỏ ra mất thời gian và tốn kém.
Nếu NHPH trả tiền hay chấp nhận thanh tốn hối phiếu kỳ hạn, mà khơng kiểm tra kỹ lưỡng bộ chứng từ, để bộ chứng từ có lỗi, nhà nhập khẩu từ chối thì
NHPH khơng thể đòi tiền nhà nhập khẩu. Rủi ro xảy ra trong quá trình vận chuyển mà trách nhiệm không thuộc hãng
tàu mà nhà nhập khẩu không mua bảo hiểm, nhà nhập khẩu không sẵn lòng thanh tốn thì NHPH có thể gặp rủi ro.
Rủi ro nhà nhập khẩu mất khả năng thanh toán hoặc phá sản: rủi ro này gây thiệt hại nặng nề cho NHPH nếu NHPH tài trợ vốn nhập khẩu.
Rủi ro do nhà xuất khẩu có hành vi lừa đảo: nhà xuất khẩu giả mạo chứng từ, mặc dù ngân hàng được chỉ định đã kiểm tra nhưng không phát hiện ra, còn NHPH
thì cho phép NH chiết khấu trích tài khoản tiền gửi của mình để thanh tốn cho người bán hoặc đòi tiền tại NH thứ ba. Nếu như nhà xuất khẩu là một tổ chức “ma” hoặc bị
20
phá sản trong khi nhà nhập khẩu khơng có đủ năng lực tài chính để bồi thường cho NHPH thì NHPH cuối cùng là người gánh chịu rủi ro.
NHPH khơng cẩn trọng thanh tốn bộ chứng từ khơng có BL hay AWB gốc, tức là thanh toán tiền ra nước ngồi khơng chứng minh trên cơ sở có hàng hố đối
ứng, gây rủi ro là thanh tốn khơng hay phía nước ngồi lợi dụng để xuất trình đòi tiền tiếp với bộ chứng từ hồn hảo có BL hay AWB gốc.
Rủi ro do NHPH không hành động đúng UCP mà thư tín dụng đã dẫn chiếu: Theo UCP, NHPH được miễn trách nhiệm thanh toán nếu bộ chứng từ có lỗi. Tuy
nhiên nếu NHPH không hành động đúng theo những quy định tại điều 16 UCP600 thì NHPH gặp rủi ro trên chính những bộ chứng từ có lỗi đó. Đó là những trường hợp sau:
Thông báo từ chối nhưng không nêu rõ và đầy đủ các bất hợp lệ của bộ chứng từ, hoặc những bất hợp lệ này bị Ngân hàng chiết khấu phủ nhận và trở nên
khơng có giá trị; Thông báo những bất hợp lệ và từ chối chứng từ vượt quá 5 ngày làm việc
của Ngân hàng; Không nêu chỉ thị về việc định đoạt bộ chứng từ;
Đã chuyển giao chứng từ cho người mở, hoặc làm mất không trả lại đầy đủ và nguyên vẹn bộ chứng từ cho phía xuất trình, hoặc khơng giao chứng từ cho phía thứ
ba do phía xuất trình chỉ định.
Đối với Ngân h àng thông báo: Ngân hàng thông báo chịu trách nhiệm phải
có sự “quan tâm hợp lý” để đảm bảo rằng thư tín dụng là chân thật, bao gồm cả việc xác thực chữ ký, khóa mã, mẫu điện trước khi gửi thông báo cho nhà xuất khẩu. Ngân
hàng thông báo chịu trách nhiệm khi quyết định không thơng báo thư tín dụng mà không gửi thông báo về quyết định của mình cho NHPH biết một cách không chậm
trễ.
Đối với NH được chỉ định : Trừ khi là Ngân hàng xác nhận, các ngân hàng
được chỉ định không có một trách nhiệm nào phải thanh toán cho người xuất khẩu trước khi nhận được tiền từ NHPH. Tuy nhiên, trong thực tế, trên cơ sở bộ chứng từ
xuất trình, các ngân hàng được chỉ định thường ứng trước cho nhà xuất khẩu với điều
21
kiện truy đòi with recourse để trợ giúp nhà xuất khẩu, do đó, ngân hàng này phải tự chịu rủi ro tín dụng đối với NHPH hoặc nhà xuất khẩu.
Đối với NH xác nhận:
Nếu bộ chứng từ là hồn hảo, thì Ngân hàng xác nhận phải trả tiền cho nhà xuất khẩu bất luận là có truy hoàn được tiền từ NHPH hay không. Như vậy, Ngân
hàng xác nhận chịu rủi ro tín dụng đối với NHPH, cũng như rủi ro chính trị và rủi ro cơ chế hạn chế ngoại hối của nước NHPH.
NH xác nhận không nắm được năng lực tài chính của NHPH mà vội xác nhận theo yêu cầu của họ để cuối cùng, Ngân hàng xác nhận phải nhận lãnh trách
nhiệm thanh toán cho NHPH do NHPH thiếu thiện chí hay mất khả năng thanh tốn, thậm chí bị phá sản.
Nếu Ngân hàng xác nhận trả tiền hay chấp nhận thanh toán hối phiếu kỳ hạn, mà khơng có sự kiểm tra một cách thích đáng bộ chứng từ, để bộ chứng từ có lỗi,
NHPH khơng chấp nhận, thì khơng thể đòi tiền NHPH.
Đối với NH chiế t khấu chứng từ: NH chiết khấu có thể là Ngân hàng xác
nhận nếu là LC xác nhận, hoặc là NHPH nếu người hưởng khơng muốn xuất trình qua ngân hàng thứ ba, nhưng thông thường là Ngân hàng được chỉ định cụ thể hoặc bất cứ
Ngân hàng nào nếu LC cho phép chiết khấu tự do any bank negotiation. Theo UCP 600, NHPH được quyền từ chối thanh toán bộ chứng từ có lỗi phần lớn tùy thuộc
thiện chí nhà nhập khẩu. Mặc dù điều khoản chiết khấu cho phép Ngân hàng chiết khấu được phép truy đòi lại nhà xuất khẩu nhưng nếu nhà xuất khẩu không đủ khả
năng thanh tốn thì Ngân hàng chiết khấu gặp rủi ro.
1.3 Bài học kinh nghiệm từ những rủi ro trong thanh toán quốc tế của các ngân hàng thương mại tr
ên thế giới 1.3.1 Giới thiệu kinh nghiệm từ những rủi ro trong thanh toán quốc tế của các
ngân hàng thương mại tr ên thế giới
Các ngân hàng lớn ở nước ngoài đều rất chú trọng đến việc phòng ngừa rủi ro trong hoạt động ngân hàng nói chung và rủi ro trong TTQT nói riêng. Họ có rất
nhiều ưu thế trong hoạt động phòng ngừa rủi ro trong TTQT vì có thời gian hoạt động
22
lâu dài, đúc kết được nhiều kinh nghiệm, có hệ thống chi nhánh ở nhiều quốc gia, có nhiều nhân viên lâu năm giàu kinh nghiệm...Vì vậy, những kinh nghiệm mà các ngân
hàng lớn ở nước ngoài đúc kết sẽ mang lại nhiều bài học cho các ngân hàng Việt Nam trong cơng tác phòng ngừa rủi ro trong TTQT

1.3.1.1 Phân loại khách hàng


Các ngân hàng nước ngồi có những tiêu chuẩn để phân loại khách hàng thuộc loại khách hàng có tình hình tài chính tốt, trung bình và xấu. Tùy mỗi ngân hàng
mà có hệ thơng tiêu chuẩn phân loại khác nhau. Khi tiến hành giao dịch với một khách hàng, ngân hàng sẽ phân loại khách hàng đó thuộc nhóm khách hàng nào. Đối với
khách hàng có tình hình tài chính tốt sẽ được cấp hạn mức tín dụng, hạn mức chiết khấu, bảo lãnh mở thư tín dụng có thể ký quỹ là 0. Đối với những khách hàng có
tình hình tài chính trung bình sẽ được cấp hạn mức chiết khấu có truy đòi, hạn mức bảo lãnh mở thư tín dụng có ký quỹ. Đối với khách hàng có tình hình tài chính xấu sẽ
khơng được cấp hạn mức tín dụng hoặc phải trình lên hội đồng tín dụng. Có được bước chuẩn bị ban đầu tốt sẽ giảm thiểu được rủi ro cho ngân hàng sau này.
1.3.1.2 Sử dụng các thỏa thuận cho giao dịch thanh toán quốc tế trong hợp đồng, cam kết v
à mẫu biểu
Khi các ngân hàng tham gia vào các giao dịch tín dụng nói chung và các giao dịch tín dụng chứng từ nói riêng đều có những hợp đồng, thỏa thuận với khách
hàng được soạn thảo một cách chặt chẽ. Các hợp đồng, thỏa thuận đó có thể là hợp đồng cấp bảo lãnh, hợp đồng chiết khấu, thỏa thuận về ký quỹ thư tín dụng, các mẫu
đơn xin mở thư tín dụng, phát hành thư bảo lãnh nhận hàng của khách hàng. Trong các hợp đồng và thỏa thuận này, các ngân hàng thường đưa các điều khoản ràng buộc
trách nhiệm của khách hàng khi có rủi ro xảy ra để giảm thiểu trách nhiệm của ngân hàng. Các ngân hàng lớn thường có một bộ phận hoặc phòng ban chuyên soạn thảo
các hợp đồng và mẫu biểu này để khi có rủi ro xảy ra ngân hàng có đủ căn cứ để giảm thiểu trách nhiệm cho mình.

1.3.1.3 Chức năng thơng tin về các khách hàng của phòng quan hệ quốc tế


23
Các ngân hàng nước ngồi thường có rất nhiều chi nhánh ở nhiều nước. Phòng quan hệ quốc tế của họ thường có những cẩm nang về nghiệp vụ để bảo đảm
các giao dịch hàng ngày ln chính xác và hiệu quả. Những cẩm nang này luôn được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với đặc trưng mỗi nước, mỗi chi nhánh. Ngồi ra, phòng
quan hệ quốc tế ln thực hiện cảnh báo cho các chi nhánh về các rủi ro quốc gia và rủi ro ngân hàng khi giao dịch với chính phủ, doanh nghiệp, và tổ chức tài chính bao
gồm chi nhánh của nó tại một quốc gia. Tùy theo mức độ rủi ro mà các chi nhánh nên tránh hoặc chỉ giới hạn ở những khách hàng có tình hình tài chính tốt, hoặc tuyệt đối
tránh giao dịch với một nước thường có chiến tranh, xung đột chính trị, khủng hoảng kinh tế, hoặc các tổ chức tài chính hay bị phá sản, phong toả tài sản, đình trệ kinh
doanh... Ví dụ về danh sách các nước bị Mỹ cấm vận của các NHTM ở Việt Nam để
hạn chế rủi ro cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu khi nhận và thanh toán tiền cho những khách hàng ở các nước này.

1.3.1.4 Áp dụng công nghệ và đào tạo con người


Các ngân hàng nước ngoài thường sử dụng các chương trình quản lý với kỹ thuật và cơng nghệ rất hiện đại để giảm bớt những rủi ro liên quan đến công nghệ. Các
chi nhánh của ngân hàng ở bất kỳ đâu đều có thể truy cập thơng tin của khách hàng, ngân hàng phục vụ cho nghiệp vụ của mình nên giảm được những rủi ro do thiếu
thơng tin. Ngồi ra, các ngân hàng này đều có các chương trình đào tạo nhân sự bài bản bằng những khóa huấn luyện dài ngày ở trung tâm đào tạo của hội sở, trao đổi
thông tin giữa các chi nhánh, học hỏi kinh nghiệm tổ chức quản lý của nhau. Chẳng hạn, Citibank là ngân hàng hàng đầu có đội ngũ huấn luyện chuyên
nghiệp, các nhân viên cao cấp, có chuyên viên tư vấn nghiệp vụ có thể giải đáp các tình huống phức tạp cho các chi nhánh. Do vậy, nhân viên của họ làm việc chuyên
nghiệp, tác phong nhanh nhẹn, thao tác thuần thục. Họ luôn đặt chất lượng công việc lên vị trí hàng đầu.
1.3.2 Bài học kinh nghiệm từ những rủi ro trong thanh toán quốc tế của các ngân hàng thương mại tr
ên thế giới
24
Qua tìm hiểu những kinh nghiệm phòng ngừa rủi ro trong thanh tốn quốc tế của các ngân hàng thương mại trên thế giới có thể thấy họ rất coi trọng chất lượng
cũng như trình độ kinh nghiệm của đội ngũ nhân viên thanh toán quốc tế, và những
hợp đồng, thỏa thuận với khách hàng được soạn thảo một cách chặt chẽ. Mỗi ngân hàng trên thế giới đều có mơ hình chức năng và kinh nghiệm hoạt động khác nhau.
Việt Nam có thể học tập kinh nghiệm này của các ngân hàng nhưng tuỳ vào mơ hình điều kiện riêng có của mình mà có các giải pháp cụ thể trong việc phòng ngừa xử lý
rủi ro trong thanh toán quốc tế. Tuy nhiên chúng ta có rút ra những bài học chung nhất cho các ngân hàng trong việc phòng ngừa xử lý rủi ro trong thanh toán quốc tế là phải
phân loại khách hàng, phát huy hiệu quả của phòng quan hệ quốc tế, và không ngừng
phát triển công nghệ thông tin ngân hàng.
25
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
  
Thanh toán xuất nhập khẩu của các ngân hàng thương mại ngày càng chiếm tỷ trọng lớn và tác động rất tích cực đến sự phát triển của hoạt động ngoại
thương nói riêng và nền kinh tế nói chung. Cũng như các lĩnh vực kinh doanh khác, hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu của các ngân hàng thương mại, đặc biệt là các
phương thức thanh tốn gắn liền với nó, đều hàm chứa những rủi ro khác nhau và có thể xảy đến với tất cả đối tượng liên quan, nhất là đối tượng trung gian “ngân hàng”.
Do đó, việc nhận biết và kiểm sốt được các rủi ro trong từng phương thức thanh tốn rất có ý nghĩa đối với các nhà quản trị thanh toán xuất nhập khẩu cũng như đối
với đội ngũ nhân viên đang công tác trong lĩnh vực này, và có như vậy các ngân hàng thương mại thực hiện dịch vụ thanh toán xuất nhập khẩu mới mong đạt được
sự thành công trong hoạt động nghề nghiệp của mình. Với tinh thần đó, Chương I đã cho chúng ta tất cả những cơ sở lý luận về
rủi ro trong các phương thức thanh toán quốc tế. Lý luận là vậy, nhưng thực tế chúng ta đã vận dụng các phương thức thanh toán quốc tế như thế nào trong thời gian qua và
kết quả như thế nào, việc kiểm soát rủi ro ra sao. Chúng ta hãy tiếp tục tìm hiểu điều này trong chương II sau đây với điểm nghiên cứu là Eximbank Việt Nam
26

CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TTQT VÀ RỦI RO


TRONG TTQT TẠI EXIMBANK
  
2.1 Tổng quan về Eximbank 2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của Eximbank
2.1.1.1 Những cột mốc đáng nhớ Eximbank được thành lập vào ngày 24051989 theo quyết định số 140CT
của Chủ Tịch Hội Đồng Bộ Trưởng với tên gọi đầu tiên là Ngân hàng Xuất Nhập
Khẩu Việt Nam Vietnam Export Import Bank, là một trong những Ngân hàng
thương mại cổ phần đầu tiên của Việt Nam. Ngân hàng đã chính thức đi vào hoạt động ngày 17011990. Ngày
06041992, Thống Đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ký giấy phép số 11NH-GP cho phép Ngân hàng hoạt động trong thời hạn 50 năm với số vốn điều lệ đăng ký là 50
tỷ đồng VN tương đương 12,5 triệu USD với tên mới là Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Xuất Nhập Khẩu Việt Nam Vietnam Export Import Commercial Joint - Stock
Bank, gọi tắt là Vietnam Eximbank. Đến nay vốn điều lệ của Eximbank đạt 8.800 tỷ đồng. Vốn chủ sở hữu đạt 13.627 tỷ đồng. Eximbank hiện là một trong những Ngân
hàng có vốn chủ sở hữu lớn nhất trong khối Ngân hàng TMCP tại Việt Nam. Ngân hàng TMCP Xuất Nhập Khẩu Việt Nam có địa bàn hoạt động rộng khắp cả nước với
Trụ Sở Chính đặt tại TP. Hồ Chí Minh và 124 Chi nhánh, phòng giao dịch được đặt tại Hà Nội, Đà Nẵng, Nha Trang, Cần Thơ, Quảng Ngãi, Vinh, Hải Phòng, Quảng Ninh,
Đồng Nai, Bình Dương, Tiền Giang, An Giang, Bà Rịa- Vũng Tàu, Đắc Lắc, Lâm Đồng và TP.HCM. Đã thiết lập quan hệ đại lý với hơn 750 Ngân hàng ở tại 72 quốc
gia trên thế giới Ngân hàng chúng tôi cung cấp đầy đủ các dịch vụ của một Ngân hàng tầm
cỡ quốc tế, cụ thể sau:
27
Huy động tiền gởi tiết kiệm, tiền gởi thanh toán của cá nhân và đơn vị bằng
VND, ngoại tệ và vàng. Tiền gửi của khách hàng được bảo hiểm theo quy định của
Nhà nước. Cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn; cho vay đồng tài trợ; cho vay thấu chi;
cho vay sinh hoạt, tiêu dùng; cho vay theo hạn mức tín dụng bằng VND, ngoại tệ và vàng với các điều kiện thuận lợi và thủ tục đơn giản.
Mua bán các loại ngoại tệ theo phương thức giao ngay Spot, hoán đổi Swap, kỳ hạn Forward và quyền lựa chọn tiền tệ Currency Option.
2.1.1.2 Thành tích và sự ghi nhận Năm 2009, Eximbank Vietnam tăng vốn điều lệ lên 8,800 tỷ đồng, chính
thức niêm yết cổ phiếu trên Sở Giao Dịch Chứng khốn Tp.Hồ Chí Minh, và đạt được thương hiệu Việt 2009 do độc giả Tạp Chí Thương Hiệu Việt bình chọn,
thương hiệu Vàng – Golden Brand Awards 2009 do Hiệp Hội Chống hàng giả và bảo vệ thương hiệu Việt Nam VATAP bình chọn.
Năm 2008, Eximbank vinh dự nhận được danh hiệu “Ngân hàng tốt nhất
Việt Nam” do Tạp chí The Banker trao tặng; đạt danh hiệu “Thương Hiệu Mạnh 2007” do báo Kinh Tế Việt Nam và Bộ Thương Mại. Trong 4 năm liên tiếp
Eximbank đã được người tiêu dùng trên cả nước bình chọn và vinh dự nhận được danh hiệu “Dịch vụ được hài lòng nhất năm 2008” do báo Sài Gòn Tiếp Thị tổ chức
bình chọn lấy ý kiến của hàng nghìn người tiêu dùng trên cả nước. Năm 2007, Eximbank đạt giải “Top Trade Servicer” do Báo Thương Mại
trao tặng về những thành tựu đã đạt được trong quá trình hoạt động; được Ban tổ chức Hiệp hội chống hàng giả và Bảo vệ thương hiệu Việt Nam trao tặng danh hiệu
“ Thương Hiệu Vàng” và đạt giải thưởng “Thương Hiệu Mạnh Việt Nam 2007”do đọc giả của Thời Báo Kinh Tế Việt Nam bình chọn. Qui trình đáng giá và lựa chọn
được Thời Báo Kinh Tế Việt Nam phối hợp cùng Cục xúc tiến Thương Mại tổ chức. Năm 2006, Eximbank đạt giải thưởng “Thương hiệu mạnh Việt Nam
2005” do độc giả của Thời Báo Kinh tế Việt nam bình chọn. Quy trình đánh giá và lựa chọn được Thời báo Kinh tế Việt Nam phối hợp cùng Cục xúc tiến Thương Mại
28
tổ chức và vinh dự nhận giải cúp vàng thương hiệu Việt trong cuộc bình chọn CÚP VÀNG TOPTEN THƯƠNG HIỆU VIỆT lần thứ 2 do Mạng Thương Hiệu Việt kết
hợp cùng Hội sở hữu công nghiệp Việt Nam hợp tác tổ chức. Năm 2005, Eximbank là Ngân hàng đầu tiên tại Việt Nam phát hành thẻ
thanh toán Quốc tế mang thương hiệu Visa Debit; là Ngân hàng duy nhất được chọn làm đại diện cho khối Ngân hàng TMCP vinh dự được Thống đốc NHNN Việt Nam
trao tặng bằng khen và phần thưởng vì đã có thành tích xuất sắc trong cơng tác đấu thầu trái phiếu chính phủ tại NHNN.
2.1.2 Kết quả họat động kinh doanh của Eximbank từ năm 2007 đến năm 2009

2.1.2.1 Về huy động vốn


Tính đến 31 tháng 12 năm 2009, tổng huy động từ tổ chức kinh tế và dân cư trong toàn hệ thống đạt 46,989 tỷ đồng, tăng 45 tương đương 14,658 tỷ đồng so
với năm 2008, đạt 104 kế hoạch năm 2009.
Nguồn: Báo cáo thường niên 2008-2009 của Eximbank Việt Nam
Huyđđộng vốn từ tổ chức kinh tế năm 2009 đạt 14,209 tỷ đồng, tăng 62.6 tương đương 5,468 tỷ đồng so với đầu năm 2008, đạt 101,3 so với kế hoạch. Số
8.741 14.209
23.590 32.780
5.000 10.000
15.000 20.000
25.000 30.000
35.000
2008 2009
Năm
T ỷ
Đ ồ
n g
Doanh Nghiệp Cá Nhân
Hình 2.1 Huy Động Vốn Từ Tổ Chức Kinh Tế Và Dân Cư Năm 2009
29
dư huy động vốn từ tổ chức kinh tế chiếm 30 trong tổng huy động vốn. Huy động vốn từ dân cư đạt32,780 tỷ đồng, tăng 39tương đương 9,190 tỷ đồng so với đầu
năm 2009, chiếm 70 trong tổng huy động. Đơn vị
Nguồn: Báo cáo thường niên năm 2009 của Eximbank Việt Nam

2.1.2.2 Về sử dụng vốn


Cùng với tốc độ tăng trưởng chung của toàn ngành, doanh số cho vay của Eximbank đạt hơn 140,000 tỷ đồng. Tổng dư nợ cho vay đạt 38,580 tỷ đồng, tăng
82mức tăng trưởng của ngành là 38 so với đầu năm, đạt 113 kế hoạch. Trong đó, cơ cấu tín dụng bao gồm dư nợ cho vay tổ chức tín dụng đạt 198 tỷ đồng, chiếm tỷ
trọng 0.5, dư nợ cho vay khách hàng doanh nghiệp đạt 26,827 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 69.5, tăng 90.8tương đương 12,765 tỷ đồng so với đầu năm; dư nợ cho vay
khách hàng cá nhân đạt 11,555 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 30, tăng 61tương đương 4,385 tỷ đồng so với đầu năm 2009.
Đơn vị
Nguồn: Báo cáo thường niên 2007-2009 của Eximbank Việt Nam
Hình 2.2 Cơ Cấu Huy Động Vốn Năm 2009
30 70
Cá nhân Doanh nghiệp
Hình 2.3 Cơ Cấu Dư Nợ Theo Đối Tượng Khách Hàng
0,5
69,5 30,0
Cá nhân Doanh nghiệp
Tổ chức tín dụng
30

2.1.2.3 Các hoạt động dịch vụ


Đối với dịch vụ hỗ trợ du học sinh, Eximbank tích cực đẩy mạnh cơng tác tiếp thị dịch vụ du học đến khách hàng thông qua hợp tác với các công ty tư vấn du
học lớn tại Việt Nam, tổ chức nhiều chương trình hội thảo giới thiệu sản phẩm, dịch vụ hỗ trợ du học trọn gói đến khách hàng như Hội chợ giáo dục phát triển Thành
phố.Hồ Chí Minh tại nhà thi đấu Phú Thọ, Hội thảo du học Úc,…Kết quả đạt được trong năm 2009 hết sức khả quan: doanh số chuyển tiền du học, định cư, chuyển thu
nhập về nước,…đạt trên 77 triệu USD, tăng 55 so với năm 2008. Về hoạt động kiều hối, trong năm, do tình hình suy thối kinh tế tồn cầu đã
ảnh hưởng đến công ăn, việc làm, chi tiêu của kiều bào Việt Nam trên thế giới, kéo theo lượng kiều hối chảy về Việt Nam giảm 20 so với năm 2008. Kết thúc năm
2009, doanh số chuyển tiền kiều hối, thanh toán, vãng lai,…tại Eximbank đạt gần 197 triệu USD.
Về dịch vụ thẻ, năm 2009 Eximbank đạt được 288,587 thẻ, tăng 42 so với năm 2008. Doanh số sử dụng thẻ đạt 4,173 tỷ đồng, tăng 27 so với năm 2008. Doanh
số thanh toán thẻ đạt 3,200 tỷ đồng, tăng 26 so với năm 2008. Tổng số máy ATM đã lắp đặt là 2,600 máy.

2.1.2.4 Phát triển mạng lưới hoạt động


Năm 2009, Eximbank đã đưa vào hoạt động 4 chi nhánh và 25 phòng giao dịch, nâng tổng số điểm giao dịch đang hoạt động của Eximbank lên 140 gồm 1 Sở
Giao Dịch, 37 Chi nhánh và 102 Phòng giao dịch, tăng 29 điểm giao dịch so với năm 2008. So với năm 2007 tổng số điểm giao dịch của năm 2009 tăng lên hơn gấp đôi.
Mạng lưới giao dịch của Eximbank trải khắp 17 tỉnh thành trên tồn quốc.
31
Mạng lưới hoạt động
66 111
140
50 100
150
2007 2008
2009 Điểm giao
dòch
Hình 2.4 Mạng lưới hoạt động
Nguồn: Báo cáo thường niên 2007-2009 của Eximbank Việt Nam

2.1.2.5 Kết quả hoạt động kinh doanh


Tổng tài sản của Eximbank tăng qua các năm, năm 2007 tổng tài sản của Eximbank là 33.710 tỷ đồng, năm 2008 là 48.248 tỷ đồng, tăng 14.538 tỷ đồng so với
năm 2007, đến năm 2009 tổng tài sản của Eximbank đạt 65.448 tỷ đồng, tăng so với năm 2007 là 17.200 tỷ đồng.
Lợi nhuận trước thuế của Eximbank năm 2007 đạt 663 tỷ đồng, năm 2008 là 1.289 tỷ đồng tăng 94 và năm 2009 đạt 1.670 tỷ đồng, tăng 30 so với năm 2008.
Nguồn: Báo cáo thường niên 2007-2009 của Eximbank Việt Nam
2.2 Thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế tại Eximbank từ năm 2007 đến năm 2009
2.2.1 Sự phát triển nghiệp vụ thanh toán quốc tế tại Eximbank Hình 2.5 Tổng Tài Sản
Hình 2.6 Lợi Nhuận Trước Thuế
663 1.289
1.670
500 1.000
1.500 2.000
2007 2008
2009
Năm Tỉ
Đ o
àn g
33.710 48.248
65.448
10.000 20.000
30.000 40.000
50.000 60.000
70.000
2007 2008
2009
Naêm
T ỷ
Đ ồ
n g
32
Hoạt động thanh toán quốc tế là thế mạnh truyền thống của Eximbank từ trước đến nay. Với bề dày kinh nghiệm và chun mơn trong lĩnh vực hoạt động thanh
tốn quốc tế cùng với đội ngũ cán bộ nhân viên nhiệt tình và có trình độ, chun mơn sâu ln sẵn sàng phục vụ, hướng dẫn tư vấn khách hàng về chun mơn, chất lượng
dịch vụ thanh tốn quốc tế, đặc biệt là công tác tư vấn hiệu quả cho khách hàng. Với mạng lưới giao dịch đối ngoại rộng lớn với hơn 700 Ngân hàng ở 65
nước trên thế giới, các nghiệp vụ thanh toán quốc tế được Eximbank được thực hiện theo tập quán quốc tế UCP 600, URR 525, URC 522,… của Phòng thương mại quốc tế
ICC và các quy định, pháp luật của Nhà nước Việt Nam. Hệ thống thanh toán của Eximbank bảo đảm các giao dịch thanh tốn quốc
tế của khách hàng ln chính xác, an tồn, nhanh chóng và tiết kiện chi phí nhất. Eximbank đã tham gia vào hệ thống Swift Tổ chức viễn thơng tài chính
liên Ngân hàng tồn cầu từ năm 1995. Năm 2006 và năm 2007 Eximbank vinh dự nhận được bằng khen của Ngân
hàng Standard Chartered Bank, Ngân hàng HSBC trao tặng về chất lượng dịch vụ điện thanh toán quốc tế.
Năm 2008 Eximbank được Wachovia Bank N.A New York trao tặng bằng khen về thanh toán quốc tế xuất sắc. Đây là giải thưởng nhằm ghi nhận và đánh giá
cao q trình xử lý nghiệp vụ tốn tự động nhanh chóng, chuẩn xác và chuyên nghiệp trong dịch vụ điện thanh toán quốc tế
2.2.2 Kết quả thực hiện nghiệp vụ thanh toán quốc tế tại Eximbank 2.2.2.1 Doanh số thanh toán quốc tế
Chất lượng dịch vụ thanh toán là thế mạnh của Ngân hàng trong lĩnh vực thanh toán xuất nhập khẩu. Điều này được kiểm chứng trong suốt 20 năm hoạt động
và được nhiều tổ chức tài chính có uy tín trên thế giới công nhận như Standard Charterd Bank, HSBC, Wachovia Bank New York,…
Doanh số thanh toán quốc tế của Eximbank năm 2008 đạt 2,900 triệu USD, tăng 47 tương đương 1,000 triệu USD so với năm 2007. Năm 2009 doanh số thanh
toán quốc tế đạt 3,098.19 triệu USD, tăng nhẹ so với năm 2008 là 153.2 triệu USD
33
tương đương 5,2. Nguyên nhân doanh số thanh toán quốc tế của Eximbank năm 2009 tăng ít là do tác động từ cuộc khủng hoảng tài chính thế giới, khiến các doanh
nghiệp Việt Nam gặp nhiều khó khăn phải đương đầu với nhiều áp lực từ thị trong và ngoài nước.
Đơn vị tính : triệu USD
Doanh số thanh toán quốc tế
2002,6 2944,99 3098,19
500 1000
1500 2000
2500 3000
3500
2007 2008
2009 Doanh số TTQT
Hình 2.7 Doanh số thanh toán quốc tế
Nguồn: Báo cáo thường niên 2007-2009 của Eximbank Việt Nam
2.2.2.2 Tỷ trọng các phương thức thanh toán trong thanh toán quốc tế tại
Eximbank Trong tổng doanh số thanh toán xuất nhập khẩu của Eximbank qua các năm
gần đây thì tỷ lệ thanh toán bằng phương thức chuyển tiền TTR chiếm hơn 50, kế tiếp là phương thức tín dụng chứng từ , chiếm khoảng 40, và phương thức nhờ thu
chiếm khoảng 8.
Bảng 2.1 - Tỷ trọng các phương thức thanh toán quốc tế Đơn vị:
Năm LC
TTR Nhờ thu
2007 41,39
52,06 6,55
2008 41,39
52,06 6,55
2009 40,33
51,05 8,62
Nguồn: Báo cáo thường niên năm 2009 của Eximbank Việt Nam
34
Đơn vị tính: Triệu USD
8 2
8 ,9
3
1 3
1 ,2
1 1
4 2
,5 1
2 1
9
1 9
2 ,9
4 1
5 3
3 1
2 4
9 ,4
2 6
7 ,1
3 1
5 8
1 ,6
500 1000
1500 2000
LC Nhờ thu
TTR 2007
2008 2009
Nguồn: Báo cáo thường niên 2007-2009 của Eximbank Việt Nam
Năm 2008 thanh toán LC đạt 1,219 triệu USD tăng 390.07 triệu USD tương đương 47 so với năm 2007. Năm 2009 thanh toán LC đạt 1,249.43 triệu
USD, tăng 30.41 triệu USD tương đương 2.5 so với năm 2008. Thanh toán nhờ thu năm 2008 đạt 192.94 triệu USD tăng 61.73 triệu USD
tương đương 47 so với năm 2007. Năm 2009 thanh toán nhờ thu đạt 267.13 triệu USD, tăng 74.09 triệu USD tương đương tăng 38.45 so với năm 2008.
Thanh toán TTR năm 2008 đạt 1,533 triệu USD tăng 490.5 triệu USD tương đương 47 so với năm 2007. Năm 2009 thanh toán TTR đạt 1,518.63 triệu USD, tăng
48.6 triệu USD, tương đương 3.17 so với năm 2008. Về xuất khẩu đạt doanh số 1,093.95 triệu USD, chiếm tỷ trọng 1.93 kim
ngạch xuất khẩu cả nước, tăng 29.3 so cùng kỳ năm trước. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là thuỷ sản 143.65 triệu USD, hàng dệt may 20.13 triệu USD, giày dép
12.89 triệu USD, hàng thủ cơng mỹ nghệ 28.3 triệu USD,…
Hình 2.8 Trị Giá Các Phương Thức Thanh Toán Quốc Tế
35
Bảng 2.2 Cơ cấu doanh số thanh toán xuất khẩu năm 2008 và năm 2009 +- 2009 so với 2008
Doanh số thanh toán xuất khẩu
Năm 2009 Năm 2008
Trị giá Tỷ lệ
LC triệu USD 356,46
322,75 33,71
10,44 Nhờ thu triệu USD
128,26 78,71
49,55 62,95
TTR triệu USD 609,23
444,51 164,72
37,06
Tổng triệu USD 1.093,95
845,97 247,98
29,31
Nguồn: Báo cáo thường niên 2008-2009 của Eximbank Việt Nam
Về nhập khẩu, doanh số thanh toán đạt 2,004.24 triệu USD, chiếm tỷ trọng 2.92 kim ngạch nhập khẩu cả nước, giảm 4.52 so với cùng kỳ. Các mặt hàng có
doanh số nhập khẩu cao như máy móc thiết bị 194.76 triệu USD, sắt thép 103.05 triệu USD, xăng dầu 146.34 triệu USD, ô tô và phụ tùng ô tô 49.26 triệu USD,
chất dẻo nguyên liệu 58.35 triệu USD
Bảng 2.3 Cơ cấu doanh số thanh toán nhập khẩu năm 2008 và năm 2009 +- 2009 so với 2008
Doanh số thanh toán nhập khẩu
Năm 2009 Năm 2008
Trị giá Tỷ lệ
LC triệu USD 892,97
896,27 -3,30
-0,37 Nhờ thu triệu USD
138,87 114,33
24,54 21,46
TTR triệu USD 972,40
1.088,52 -116,12
-10,67
Tổng triệu USD 2.004,24
2.099,12 -94,88
-4,52
Nguồn: Báo cáo thường niên 2008-2009 của Eximbank Việt Nam
Doanh số thanh toán xuất nhập khẩu trong năm nay của Eximbank chịu ảnh hưởng do suy thoái kinh tế, chủ yếu giảm ở doanh số nhập khẩu do nhiều nguyên nhân
khách quan và chủ quan như: do biến động giá của thị trường thế giới ảnh hưởng đến sức tiêu thụ của thị trường trong nước của một số mặt hàng nhập khẩu nên Eximbank
đã chủ động hạn chế việc tài trợ vốn cho doanh nghiệp nhằm hạn chế rủi ro; do tình trạng khan hiếm ngoại tệ kéo dài dẫn đến việc đã hạn chế mở LC có trị giá lớn; các
nguyên nhân trên cũng phần nào làm chuyển dịch một lượng khách hàng của Eximbank sang giao dịch ở các ngân hàng khác. Tình hình xuất khẩu khả quan hơn
36
nhờ vào những biện pháp hỗ trợ của Chính phủ và các sản phẩm tài trợ XNK của Eximbank đã phát huy hiệu quả đẩy mạnh doanh số xuất khẩu.
Tổng thu phí dịch vụ từ hoạt động thanh tốn quốc tế năm 2008 đạt 86 tỷ, tăng 35 tỷ tương đương 68.25, năm 2009 đạt 137 tỷ đồng, tăng 51 tỷ đồng tương
đương tăng 60.15 so với năm 2008.
Nguồn: Báo cáo thường niên 2007-2009 của Eximbank Việt Nam
2.3 Tình hình rủi ro trong TTQT tại Eximbank 2.3.1 Rủi ro trong TTQT tại Eximbank

2.3.1.1 Rủi ro quốc gia, rủi ro chính trị pháp lý


Trong TTQT, bất cứ một thay đổi nào về chính trị, pháp lý của một quốc gia cũng sẽ ảnh hưởng đến các bên tham gia giao dịch. Không chỉ mâu thuẫn giữa luật
pháp các nước, mà ngay cả sự thay đổi về chính sách thuế quan, áp dụng hạn ngạch cũng gây khó khăn cho các Ngân hàng trong hoạt động TTQT.
Như chúng ta đã biết, thanh toán quốc tế là một hoạt động có liên quan đến nhiều lĩnh vực cũng như quốc gia khác nhau. Do đó, mỗi sự thay đổi về kinh tế, chính
trị đều có ảnh hưởng đến khả năng thanh toán và sự đáp ứng các điều kiện đã thỏa thuận trong hợp đồng của các bên. Suy thoái kinh tế và biến động chính trị sẽ có ảnh
51 86
137
20 40
60 80
100 120
140 160
2007 2008
2009
Năm T
ỷ Đ
ồ n
g
Hình 2.9 Phí Thanh Toán Quốc Tế
37
hưởng tiêu cực đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và giao lưu thương mại quốc tế. Ngồi ra còn có những rủi ro do nguyên nhân bất khả kháng gây
nên như: chiến tranh, đình cơng, động đất, núi lửa, cấm vận… gây tổn thất cho các bên liên quan
Tình huống 1:
Năm 2005, Eximbank có mở một LC cho Doanh nghiệp tư nhân Hải Thông nhập khẩu một lô hạt nhựa từ Iraq. Khi chứng từ về đến Eximbank cũng là lúc hàng vế
đến cảng của TP. Hồ Chí Minh, Doanh nghiệp tư nhân Hải Thông đưa công văn chấp nhận mọi bất hợp lệ của bộ chứng từ và cam kết thanh toán tồn bộ trị giá lơ hàng là
55,000USD. Theo đúng quy trình thanh tốn hàng nhập khẩu theo TDCT, Eximbank đã tiến hành thanh toán trị giá lô hàng trên cho ngân hàng xuất trình bộ chứng từ ở
Iraq. Nhưng khơng may, thời điểm mà Eximbank thanh tốn cho ngân hàng ở Iraq thì nước Iraq đang bị lệnh cấm vận của Mỹ nên toàn bộ số tiền 55,000USD khi qua hệ
thống ngân hàng ở Mỹ đã không được chuyển trả cho ngân hàng ở Iraq. Cuối cùng Eximbank phải nhờ đến ngân hàng nostro là JPMorgan Chase can thiệp để chuyển trả
lại số tiền trên cho Eximbank, nhưng không đầy đủ sau khi bị trừ đi các khoản chi phí
chỉ còn lại USD54,900 2.3.1.2 Rủi ro về quản lý ngoại hối
Như chúng ta đã biết khi tỷ giá biến động sẽ làm ảnh hưởng rất lớn đến các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, đặt biệt là trong tài trợ tín dụng xuất nhập khẩu. Đầu
tháng 62008, tỷ giá đột ngột tăng mạnh lên gần 17.000 đồngđôla ngồi thị trường tự do có lúc lên đến 19.000 đồngđôla, các Ngân hàng bán với giá trần. Các nhà nhập
khẩu muốn mua thì phải chịu thêm phí mua đơla hoặc bán cho các doanh nghiệp theo tỷ giá chuyển đổi thay vì bán đôla theo đúng giá niêm yết thì Ngân hàng khơng có
đơla để bán, Ngân hàng yêu cầu doanh nghiệp mua EUR theo tỷ giá ngân hàng ấn định rồi mới chuyển đổi qua đôla. Các doanh nghiệp nhập khẩu lúc này đã lở ký hợp đồng
phải thanh toán tiền hàng cho kịp nên đành chấp nhận những khoản phí phát sinh thêm này. Điều này khiến cho lợi nhuận của các nhà nhập khẩu bị thiệt hại nặng thậm chí có
nhiều doanh nghiệp bị lỗ nặng nề. Tuy nhiên đối với các nhà xuất khẩu, khi thu được
38
tiền hàng sẽ đem bán cho Ngân hàng để lấy nội tệ hoạt động kinh doanh, lúc này khi thu mua lượng ngoại tệ trên, Ngân hàng sẽ trả thêm cho các doanh nghiệp xuất khẩu
một khoản phí. Chính điều này sẽ làm tăng thêm lợi nhuận cho nhà xuất khẩu. Hơn thế nữa chính những sự biến động về tỷ giá như trên đã làm cho trạng
thái ngoại tệ của các ngân hàng không ổn định, tạo ra những rủi ro về tỷ giá cho các ngân hàng thương mại trong đó có Eximbank.
Năm 2008, do tình hình ngoại tệ biến động như trên nên Eximbank đã hạn chế mở LC cho nhiều công ty có nhu cầu nhập khẩu hàng hóa nên một số khách hàng
của Eximbank đã chuyển sang giao dịch với các ngân hàng khác làm cho Eximbank mất đi một lượng khách hàng đáng kể. Ngồi ra, có những bộ chứng từ trả chậm đến
hạn thanh toán cho ngân hàng nước ngồi nhưng Eximbank khơng đủ ngoại tệ để bán cho khách hàng, nên phải vay hoặc mua của các ngân hàng khác với lãi suất cao hoặc
tỷ giá cao đã làm ảnh hưởng rất lớn đến doanh thu và lợi nhuận từ hoạt động này.
Tình huống 2:
Eximbank phải chấp nhận thanh toán LC số 2000ILSEIB09XXX đã mở trị giá 1,500,200 EUR cho ngân hàng Mizuho Corporation Bank mặc dù khách hàng nhập
khẩu là Cơng XNK H.K có đề nghị tu chỉnh giá trị LC sang ngoại tệ Đôla Mỹ. Lý do: đề nghị tu chỉnh giá trị LC sang ngoại tệ Đôla Mỹ không được khách hàng thụ hưởng
LC và ngân hàng Mizuho Corporation Bank chấp nhận do đồng Đôla Mỹ đang bị giảm giá so với đồng Euro và thời hạn sửa đổi để sửa đổi điều khoản loại ngoại tệ
thanh toán là 3 tháng trước khi hàng được giao đã trôi qua. Đây là một ví dụ mà khách hàng cũng như Eximbank là ngân hàng tài trợ thanh toán cũng bị rủi ro về biến động
tỷ giá.
Tình huống 3:
Eximbank thường xuyên mở LC cho các công ty trong nước để nhập khẩu vải, sợi. Các bộ chứng từ xuất trình cho mặt hàng này đa số rất nhiều và món tiền nhỏ,
khó kiểm tra. Thường hay xảy ra các lỗi như: thư đòi tiền của ngân hàng nước ngoài nhiều hơn số tiền tổng các hóa đơn, các chứng nhận đóng gói packing list lên đến
hàng chục trang nhưng kiểm tra số kiện thì nhiều hơn số kiện thể hiện trên chứng từ
39
vận tải mà vẫn đòi tiền trên số kiện của chứng từ đóng gói, xuất trình chứng từ vận tải khơng phải là bản gốc, hóa đơn đòi tiền hàng mẫu hay phí bưu điện không được đề
cập trong LC v.v…. Eximbank nhận định rõ, đây là những lỗi không nhỏ, gây một số rủi ro nhất định cho Eximbank khi tài trợ thanh tốn những LC này. Đó là khi thanh
tốn số tiền lớn hơn số tiền tổng các hóa đơn, số kiện trên các chứng từ đóng gói khơng như chứng từ vận tải thể hiện, thanh tốn hàng mẫu hay phí bưu điện không đề
cập trong LC mà không biết hay thanh tốn một chứng từ vận tải khơng phải chứng từ gốc có thể giả mạo, tức là đã thanh tốn khống tiền ra nước ngồi mà khơng có hàng
hóa đối ứng, vi phạm quy định về quản lý ngoại hối, đây có thể khơng phải là sai sót của ngân hàng đòi tiền mà có thể là một sự cố ý khi mà lượng chứng từ dày đặc khó
kiểm tra; hay người mua nợ tiền người bán nên cấu kết lừa ngân hàng để chuyển tiền khống.

2.3.1.3 Rủi ro đối tác trong các phương thức thanh tốn Tình huống 4:


Nhà nhập khẩu là Doanh nghiệp tư nhân Đồng Tâm, nhập khẩu thép từ công ty ở Đức. Công ty này mở LC trả ngay tại Eximbank trị giá USD 245,000. Sau đó, bộ
chứng từ xuất trình tại Eximbank và kiểm tra với các bất hợp lệ: giao hàng từng phần không được phép, giao hàng thiếu, ngày phát hàng của chứng từ bảo hiểm sau ngày
giao hàng. Eximbank theo chỉ thị người mua về nên tạm thời từ chối thanh toán bộ chứng từ trên cơ sở bộ chứng từ có bất hợp lệ vì lý do chính là hàng chưa về đến thành
phố Hồ Chí Minh. Mặt khác, người bán sau khi giao hàng xong, muốn nhận tiền hàng lập tức yêu cầu chuyển sang hình thức nhờ thu trả ngay DP at sight. Khi đó
Eximbank trở thành ngân hàng trung gian phục vụ khách hàng và tuân thủ quốc tế về quy tắc thống nhất nhờ thu chứng từ bằng cách thông báo chi tiết về bộ chứng từ nhận
được. Người mua biết hàng hóa vẫn chưa cập cảng nên cương quyết không nhận bộ chứng từ và thương lượng với người bán chỉ nhận bộ chứng từ và thanh toán khi hàng
về cảng. Người bán do đã gửi hàng và bộ chứng từ khá lâu mà chưa nhận được tiền hàng lại khơng có bất kỳ thơng tin nào từ phía ngân hàng thu hộ là Eximbank, do đã
chuyển sang hình thức nhờ thu nên ngân hàng thu hộ Eximbankkhơng có sự ràng
40
buộc về việc thơng báo tình trạng bộ chứng từ cho người bán trong vòng 5 ngày làm việc theo quy định của UCP600. Người bán lại không tin tưởng người mua nên không
thể tin và chờ người mua nhận hàng rồi mới thanh tốn. Do đó, người bán thơng qua ngân hàng xuất trình u cầu hồn trả chứng từ khơng được trì hỗn vì có thể người
bán đã tìm được đối tác khác để bán với giá cao hơn hoặc có có sự lừa đảo là thật sự
người bán chưa giao hàng như đã tuyên bố với người mua. Nhận định một số rủi ro các bên tham gia:
Như vậy, giao dịch này đã không thành, gây ra một số rủi ro: người mua đang cần hàng mà khơng có hàng, tiềm ẩn rủi ro bị lừa đảo nếu trả tiền mà không nhận
được hàng; người bán tốn chi phí để chở hàng bán cho đối tác khác…
Trong tình huống này, khi người mua và người bán chưa thật sự tin tưởng lẫn nhau thì phương thức tín dụng chứng từ vẫn đảm bảo việc thanh toán của người
mua cho người bán hơn là phương thức nhờ thu. Tình huống 5:
Ngày 01052008 Cơng ty TNHH xuất khẩu Minh Phát xuất trình bộ chứng từ nhờ thu trả chậm DA 90 ngày sau ngày BL, trị giá USD 585,000, xuất khẩu cá
ba sa cho Công ty Hoogland Foods BV của Hà Lan với ngân hàng thu hộ là Fortis Bank, ngày giao hàng là 26042008, ngày đến hạn thanh toán là 25072008.Nhưng
việc thanh toán tiền hàng đã gặp rất nhiều khó khăn, đến ngày đáo hạn 25072008 Cty
Minh Phát vẫn chưa nhận được tiền thanh toán từ đối tác.
Công ty Hoogland Foods BV là công ty của 1 người ông Gert.J Hoodlands
để đăng ký kinh doanh tại Hà Lan. Công ty TNHH xuất khẩu Minh Phát sang tận Hà Lan tìm gặp ơng Gert.J
Hoodlands nhưng vẫn khó có thể gặp được, liên hệ điện thoại với Công ty Hoogland Foods BV thì... khơng có người nghe máy, lý do là Công ty Hoogland Foods BV là
công ty của 1 người ông Gert.J Hoodlandsđể đăng ký kinh doanh tại Hà Lan.
Trong giao dịch với các doanh nghiệp Việt Nam, phía nước ngồi Hoogland Foods BV đều đề nghị phương thức thanh toán DA thanh toán nhờ thu
chấp nhận chứng từ - người mua hàng sẽ ký chấp nhận lên hối phiếu và gửi lại cho
41
ngân hàng nhờ thu. Tuy nhiên sau khi giao hàng “đối tác” này cứ...lần lữa khơng
thanh tốn.
Người giao dịch với phía doanh nghiệp Việt Nam là ơng Gert.J Hoodlands, Giám đốc Công ty Hoogland Foods BV, nhưng khi ký hợp đồng thì thường lấy tư cách
pháp nhân là Công ty Star Procurement Inc. Nhận định một số rủi ro các bên tham gia:
Trước tình huống trên, các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam đã phải thuê luật sư để nhờ toà án bắt giữ tài sản mới thu được tiền hàng.Vừa qua, một số cơ quan
thương vụ Việt Nam ở nước ngoài, như Pakixtan, Singapore, Hà Lan… cũng đã đăng tải thông tin cảnh báo về việc doanh nghiệp Việt Nam không được thanh toán tiền
hàng khi chấp nhận phương thức thanh toán DA, DP thanh toán nhờ thu kèm chứng từ - người mua sẽ gửi lại cho ngân hàng lệnh chi, đặc biệt là giao dịch với những đối
tác mới.
Nhiều doanh nghiệp Việt Nam thường không chú ý là giao dịch với một người nhưng khi ký hợp đồng lại với một tư cách pháp nhân khác mà mình khơng rõ,
đến khi khơng thu được tiền hàng, tranh chấp xảy ra, đối tác đứng ra giao dịch chỉ nhận là đại lý agent của pháp nhân đứng ra ký hợp đồng nhập khẩu và không chịu
trách nhiệm pháp lý; liên hệ với đối tác là pháp nhân đứng tên ký hợp đồng thì khơng
liên lạc được, doanh nghiệp Việt Nam thường bị thua thiệt…
Để phòng tránh những rủi ro khơng thu được tiền hàng khi giao dịch với đối tác nước ngoài, các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam cần lưu ý, đối với khách
hàng mới quen hoặc mới giao dịch, doanh nghiệp cần u cầu phía đối tác cung cấp thơng tin về đăng ký kinh doanh và tra cứu thông tin trước khi tiến hành thương thảo,
sử dụng phương thức thanh tốn chặt chẽ, an tồn nhằm đảm bảo thu hồi tiền hàng.
Cơng ty nước ngồi cũng như cơng ty Việt Nam khi đã đăng ký kinh doanh là có tư cách pháp nhân, tuy nhiên không phải đối tác có tư cách pháp nhân là yên tâm
ký hợp đồng, mà cần chú ý tới khả năng chuyên doanh, số lượng nhân viên, tình hình
tài chính, các điều khỏan hợp đồng mà khách hàng đưa ra…
42
Các doanh nghiệp cần đặc biệt chú ý tư cách pháp nhân người, công ty giao dịch và ngườicông ty đứng ra ký kết hợp đồng trong trường hợp nêu trên, khi tranh
chấp xảy ra, người giao dịch chỉ nhận tư cách là đại lý và không chịu trách nhiệm, lúc ký hợp đồng đã lấy danh nghĩa một công ty khác mà doanh nghiệp ta lại không chú ý
đến vấn đề này.
Như vâỵ, các doanh nghiệp Việt Nam cần tra cứu thông tin trước khi tiến hành thương thảo, sử dụng phương thức thanh tốn chặt chẽ, an tồn để đảm bảo thu
hồi tiền hàng. Tình huống 6:
Ngày 15032007 nhận được một LC từ ngân hàng Hana Bank, Korea với ngày giao hàng chậm nhất là 20042007, chứng từ phải được xuất trình sau 15 ngày
sau ngày BL và LC hết hạn hiệu lực là ngày 04052007 với cty xuất khẩu là công ty TNHH Tân Minh Long. Eximbank đã tiến hành thông báo LC này cho nhà xuất khẩu
là Công ty xuất nhập khẩu Tân Minh Long biết mà khơng có bất kỳ sự lưu ý đặc biệt nào về các điều khoản trên của LC. Công ty TNHH Tân Minh Long tiếp nhận LC,
chuẩn bị hàng để giao và chuẩn bị các chứng từ xuất trình cho Eximbank kiểm tra theo quy định của LC đòi tiền. Eximbank do nghe cơng ty TNHH Tân Minh Long nói sẽ
giao hàng khoảng 15042007 và trễ lắm cũng trước ngày 20042007 nên Eximbank cho rằng sẽ chuẩn bị kịp chứng từ để gửi đòi tiền và sợ tốn phí mà khơng có sự cảnh
báo hay cẩn trọng cần thiết là yêu cầu công ty TNHH Tân Minh Long liên lạc yêu cầu cty nhập khẩu tu chỉnh LC dời ngày hết hạn hiệu lực của LC đến 15052007 thay vì
05052007 nhằm tránh bất hợp lệ và phòng ngừa mọi rủi ro có thể xảy ra. Mặt khác Eximbank cho rằng đây là việc nhập khẩu rất quen thuộc và thường xuyên, ngân hàng
Hana bank lại là một ngân hàng có uy tín. cơng ty TNHH Tân Minh Long xuất trình bộ chứng từ và hợp đồng ngoại chưa được người mua ký nhưng Eximbank không hỏi
mà vẫn tiếp nhận bộ chứng từ.
Mãi đến ngày 20042007, công ty TNHH Tân Minh Long mới tiến hành giao hàng. Bắt buộc sau ngày 04052007, Eximbank mới được xuất trình bộ chứng từ
đến ngân hàng Hana bank vì chứng từ phải được xuất trình sau 15 ngày sau ngày
43
BL để đòi tiền nhưng LC đã hết hiệu lực. Và sau đó, Eximbank đã nhận được điện từ chối thanh tốn của Korea Exchange với lý do: “xuất trình không đúng yêu cầu của
LC” và trả bộ chứng từ. Công ty TNHH Tân Minh Long đã chở hàng đi nên việc trả lại bộ chứng từ đưa công ty xuất khẩu vào một tình thế hết sức khó khăn, công ty xuất
khẩu kiện người mua nhưng người mua trả lời hợp đồng chưa được ký kết rõ ràng. Nhận định một số rủi ro các bên tham gia:
Đối với ngân hàng xuất trình là Eximbank: Eximbank đã khơng có sự quyết đoán và cẩn trọng cần thiết khi quá tin vào nhà xuất khẩu và ngân hàng nước ngoài.
Trong tình huống này Eximbank tuy được miễn trách nhưng đã sai lầm khi không kiên quyết yêu cầu nhà xuất khẩu tu chỉnh LC và tư vấn nhà xuất khẩu ký kết đầy đủ hợp
đồng trước khi mở LC để có cơ sở pháp lý khiếu kiện khi có tranh chấp xảy ra. Nhân viên TTQT của Eximbank khơng có nghiệp vụ chun mơn, kỹ năng xử lý tình huống
tốt làm cũng mất đi phần nào uy tín của Eximbank. Mặc dù, Eximbank có thể kiện Hana bank về lý do từ chối bộ chứng từ là không xác đáng. Eximbank đã gặp rủi ro về
tác nghiệp và rủi ro về quan hệ đại lý.
Đối với công ty xuất khẩu trong nước: Tốn kém vì chuẩn bị chứng từ và vận chuyển hàng hóa đi và vận chuyển về nước. Thua kiện trong việc tranh chấp với nhà
nhập khẩu nước ngoài.
Đối với ngân hàng phát hành là ngân hàng Hana bank: Vì lợi ích của khách hàng đã mở một LC với điều kiện vơ lý, làm mất uy tín của ngân hàng và mối quan hệ
giữa các ngân hàng. Tình huống 7:
Cơng ty Tân Phúc Lộc yêu cầu Eximbank phát hành thư tín dụng trả ngay trị giá USD450,000 mặt hàng gỗ tròn, điều kiện giao hàng CFR HoChiMinh city port,
Incoterms 2000. Theo đề nghị của Eximbank trước khi phát hành thư tín dụng, cơng ty Tân Phúc Lộc đã mua bảo hiểm cho lô hàng theo điều kiện ICC clause C 1982. Khi
nhận được thơng báo thư tín dụng từ ngân hàng Citi Bank, Singapore, người bán tiến hành giao hàng. Tuy nhiên, do cơn bão Durian làm tàu chở hàng chìm trên đường đi từ
Indonesia về Việt Nam. Khi nhận được tin này, Công ty Tân Phúc Lộc đã liên hệ với
44
công ty bảo hiểm Nhà Rồng để xúc tiến việc bồi thường thiệt hại của lô hàng. Tuy nhiên, công ty bảo hiểm Nhà Rồng thông báo Công ty Tân Phúc Lộc khi người bán
giao hàng đã khơng đóng gói hàng trong kiện do đó tổn thất này thuộc điều khoản loại trừ nên không được bồi thường. Công ty Tân Phúc Lộc đã thông báo với Eximbank về
việc này và đề nghị Eximbank tìm cách từ chối thanh tốn bộ chứng từ. Vì vậy, sau khi nhận được bộ chứng từ, Eximbank kiểm tra và xác định bộ chứng từ hoàn toàn phù
hợp với quy định thư tín dụng. Theo điều 5, 15 UCP600, Eximbank có trách nhiệm thanh tốn USD 450,000 cho Citi Bank Singapore, ngay cả khi Công ty Tân Phúc Lộc
khơng nhận được hàng. Trước tình hình đó, Eximbank đề nghị Cơng ty Tân Phúc Lộc
nộp tiền để thanh tốn thư tín dụng này. Nhận định một số rủi ro các bên tham gia:
Trong kinh doanh có những rủi ro mà cả người mua và người bán đều không thể dự đốn được. Mặc dù Cơng ty Tân Phúc Lộc không nhận được hàng nhưng vẫn
phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán theo đúng cam kết. Khi rủi ro này xảy ra, Eximbank là người phải có trách nhiệm thanh tốn cho Citi Bank, Singapore ngay khi
hàng hóa khơng về được Việt Nam. Bởi vì theo UCP600, ngân hàng giao dịch dựa trên chứng từ chứ không phải hàng hóa. Do đó, đối với các công ty xuất nhập khẩu để
tránh những rủi ro do thiên tai bất khả khán thì nên nghiên cứu kỹ các điều khoản bảo
hiểm của hợp đồng ngoại thương.
Tình huống 8:
Ngày 10052008 Eximbank có mở LC trả ngay trị giá EUR 50,000 cho công ty Hoa Mai Sơn để nhập mặt hàng máy móc thiết bị, điều kiện giao hàng CIF
HoChiMinh city port, Incoterms 2000. Khi nhận bộ chứng từ, Eximbank kiểm tra và xác định bộ chứng từ hợp lệ nên thông báo công ty Hoa Mai Sơn nộp tiền để nhận
chứng từ. Tuy nhiên, khi công ty Hoa Mai Sơn làm thủ tục nhận hàng thì Hải Quan từ chối khơng cho cơng ty Hoa Mai Sơn nhận hàng và phạt 10 triệu đồng vì lý do giấy
chứng nhận xuất xứ viết tay chứ không in sẵn hay đánh máy. Công ty Hoa Mai Sơn đã đề nghị Eximbank giải thích “Eximbank thơng báo chứng từ hợp lệ nhưng công ty
khơng được nhận hàng?”. Eximbank cũng giải thích trong UCP600 và ISBP681 khơng
45
có điều khoản quy định giấy chứng nhận xuất xứ không được viết tay nên không chịu trách nhiệm về việc công ty không nhận được hàng. Tuy nhiên, để cơng ty Hoa Mai
Sơn có thể nhận hàng, Eximbank đã gởi điện cho ngân hàng người bán ở Trung Quốc đề nghị gởi lại bộ giấy chứng nhận xuất xứ khác và Eximbank sẽ gởi trả lại bộ giấy
chứng nhận xuất xứ cũ vì khơng thể làm thủ tục Hải Quan. Mười ngày sau Eximbank mới nhận được bộ giấy chứng nhận xuất xứ khác để công ty Hoa Mai Sơn đi nhận
hàng. Nhận định một số rủi ro các bên tham gia:
UCP 600 vẫn chỉ là tập quán quốc tế và không thể vượt lên trên luật quốc gia. Bởi vì theo cơng văn 1690 hướng dẫn của Tổng cục Hải Quan không chấpnhận giấy
chứng nhận xuất xứ viết tay. Eximbank không có thơng tin Tổng cục Hải Quan có
cơng văn quy định giấy chứng nhận xuất xứ không được viết tay.
Khi phát hành thư tín dụng, Eximbank chỉ căn cứ vào hợp đồng của khách hàng ở phần chứng từ xuất trình quy định “Giấy chứng nhận xuất xứ 3 bản”. Kế đó,
khi nhận được bộ chứng từ xuất trình, Eximbank đã xác nhận tình trạng chứng từ hợp lệ căn cứ theo quy định của UCP600 và ISBP681. Hơn nữa, đối với việc Hải Quan
không chấp nhận giấy chứng nhận xuất xứ viết tay, Eximbank hoàn toàn ở thế bị động vì Eximbank khơng thể nào biết được Tổng cục Hải Quan ban hành văn bản như vậy.
Vì vậy, khi rủi ro xảy ra, khách hàng đánh giá khơng tốt về trình độ nghiệp vụ của Eximbank. Do đó, nếu ngay từ khi phát hành thư tín dụng Eximbank thể hiện điều
khoản “giấy chứng nhận xuất xứ xuất trình 3 bản được đánh máy và do cơ quan xxx
phát hành” thì rủi ro này đã khơng xảy ra.
Cơng ty Hoa Mai Sơn nhận hàng chậm 15 ngày so với kế hoạch sản xuất. Eximbank tốn chi phí gởi trả lại giấy chứng nhận xuất xứ cho ngân hàng xuất trình và
có thêm bài học kinh nghiệm bộ chứng từ được lập phù hợp với thư tín dụng nhưng
chưa chắn đã phù hợp với luật trong nước.
Tình huống 9:
Trong hợp đồng nhập khẩu “Xe gắn máy nhãn hiệu Honda SH 150cc” từ Italy của Cty Minh Long với cty “Mega Bike SRL” có điều khoản thanh tốn như sau:
46
ứng trước 20 trị giá hợp đồng EUR 40,000, LC at sight có xác nhận 80 trị giá
hợp đồng EUR 160,000
Eximbank đã phát hành LC xác nhận cho người hưởng lợi “Mega Bike SRL” qua ngân hàng thông báo và xác nhận là “Banca Monte Dei Paschi Di Siena
Roma Italia” với điều khoản “Ngân hàng xác nhận được phép đòi tiền bằng điện từ ngân hàng hoàn trả “Deutsche Bank Frankfurt Germany” với điều kiện bộ chứng từ
phải phù hợp với LC”. Ngày 120907, ngân hàng xác nhận LC đã điện thông báo cho Eximbank về việc “Chiết khấu bộ chứng từ phù hợp với LC và điện đòi tiền ngân
hàng hoàn trả với ngày giá trị 160907” theo như chỉ định trong LC. Tuy nhiên, ngày 140907, Eximbank đã nhận được bộ chứng từ, kiểm tra nó và tìm thấy quá nhiều
điểm sai biệt quan trọng, đồng thời thông báo ngay cho người yêu cầu mở LC về tình trạng bộ chứng từ và được xác nhận “Từ chối chứng từ, không thanh tốn do hàng hóa
chưa về”.Nhằm ngăn chặn tổn thất, ngay lập tức Eximbank, một mặt, đã điện báo cho ngân hàng hoàn trả về việc khơng thanh tốn và mặt khác, gửi thông báo từ chối
chứng từ bất hợp lệ cho ngân hàng xác nhận. Khi đó, phản ứng của ngân hàng này là yêu cầu Eximbank phải thanh toán ngay hoặc gởi trả lại ngay bộ chứng từ cho họ Ghi
chú: họ sẵn lòng thanh tốn các khoản bưu phí và điện phí liên quan. Tuy nhiên,vấn đề đáng nói là người yêu cầu mở LC không muốn gửi trả lại bộ chứng từ vì họ e ngại
rằng nếu gửi trả lại chứng từ, một mặt, họ sẽ không lấy được hàng khi hàng về đến, mặt khác, mất luôn cả khoản tiền đặt cọc 40.000EUR mà họ đã chuyển TTR trước đó.
Do đó, khơng còn cách nào khác, vào ngày 260907, người yêu cầu mở LC buộc phải
chấp nhận chứng từ và chỉ thị thanh toán. Nhận định một số rủi ro các bên tham gia:
Kết quả là mặc dù Cty Minh Long chưa xảy ra thiệt hại không bị mất 40,000EUR, nhờ có sự ứng phó kịp thời của Eximbank. Tuy nhiên đây là bài học lớn
cho Eximbank về cách hành xử của các ngân hàng có liên quan trong giao dịch, ngân hàng xác nhận cố tình xác nhận sai tình trạng chứng từ để đòi tiền bằng điện theo “LC
confirmed cho phép đòi tiền bằng điện từ ngân hàng hồn trả”.
47
Tình huống 10:
Ngày 25 tháng 06 năm 2008, Eximbank có nhận được bộ chứng từ xuất trình theo phương thức tín dụng chứng từ của Công Ty TNHH xuất nhập khẩu Tân
Thạnh An xuất khẩu gạo trị giá USD150,000. Khi Eximbank kiểm tra chứng từ phát hiện bộ chứng từ bất hợp lệ do thư tín dụng có điều khoản khơng thể thực hiện được
“Vận đơn đường biển lập theo lệnh của ngân hàng phát hành và ghi cước phí trả trước freight prepaid”. Trong khi đó điều kiện giao hàng là FOB HoChiMinh city port,
Incoterms 2000 nên hãng tàu phát hành vận đơn thể hiện “freight collect”. Do đó, Eximbank đã đề nghị Cơng Ty TNHH xuất nhập khẩu Tân Thạnh An thông báo người
nhập khẩu sửa đổi thư tín dụng trước khi giao hàng để ngân hàng phát hành khơng thể từ chối thanh tốn. Tuy nhiên, 4 ngày sau Công Ty TNHH xuất nhập khẩu Tân Thạnh
An thông báo người nhập khẩu từ chối sửa đổi thư tín dụng, yêu cầu gởi chứng từ gấp nếu không sẽ từ chối nhận hàng và Công Ty TNHH xuất nhập khẩu Tân Thạnh An
phải bồi thường việc vi phạm hợp đồng do giao hàng trễ. Vì vậy, Cơng Ty TNHH xuất nhập khẩu Tân Thạnh An đã yêu cầu Eximbank gởi chứng từ đòi tiền nhưng phải lập
văn bản gởi Eximbank với điều khoản “bộ chứng từ có bất hợp lệ, đề nghị Eximbank gởi chứng từ. Cơng ty chúng tơi sẽ chịu hồn tồn trách nhiệm nếu bộ chứng xuất trình
bị ngân hàng phát hành từ chối thanh toán”. Nguyên nhân: Khi ký kết hợp đồng, người mua soạn sẵn hợp đồng với điều
khoản chứng từ vận tải ghi cước phí trả trước “freight prepaid” còn điều kiện giao hàng là FOB HoChiMinh city port, Incoterms 2000. Khi Thu Hoạch ký kết hợp đồng
đã không kiểm tra điều khoản này bất lợi cho mình vì khơng thể lập được bộ chứng từ
hợp lệ để thanh toán theo phương thức thư tín dụng. Nhận định một số rủi ro các bên tham gia:
Mặc dù người nhập khẩu đồng ý thanh toán nhưng ngân hàng phát hành
khấu trừ phí bất hợp lệ USD80
Eximbank hồn tồn ở thế bị động khi khơng thể xuất trình được bộ chứng từ theo đúng yêu cầu của thư tín dụng. Đối với trường hợp như vậy, quyền chủ động
thanh toán nằm trong tay của ngân hàng phát hành chứ không phải Eximbank. Nếu
48
ngân hàng phát hành có thiện chí thanh tốn thì Eximbank cũng bị khấu trừ phí bất
hợp lệ.
Ngược lại khi ngân hàng phát hành từ chối thanh toán, rủi ro phát sinh cho là Eximbank không thu được tiền hàng, khách hàng đánh giá không tốt về trình độ
nghiệp vụ của Eximbank. Tuy nhiên, rủi ro như vậy có thể loại trừ nếu trước khi thư tín dụng được phát hành, Eximbank tư vấn cho khách hàng những điều khoản này gây
bất lợi khi xuất trình bộ chứng từ.
Ngồi ra, Eximbank nói riêng và các ngân hàng thương mại tại Việt Nam nói chung luôn phải đối đầu với rất nhiều rủi ro khác trong các phương thức TTQT
như rủi ro tác nghiệp, rủi ro chiến lược, rủi ro từ hệ thống hỗ trợ công nghệ thông tin, đường truyền… Trong nhập khẩu, các nhà nhập khẩu Việt Nam thường bị ép thanh
toán ứng trước trị giá hợp đồng, hoặc trong việc mở LC bất lợi cho mình, khiến việc nhận hàng chậm trễ, chứng từ xuất trình sơ sài…; chấp nhận thanh tốn bộ chứng từ
khơng có chứng từ gốc dễ dẫn đến việc đòi tiền trên bộ chứng từ khác có chứng từ gốc; nhà nhập khẩu nhận hàng dưới bảo lãnh nhận hàng do Eximbank phát hành.
Trong xuất khẩu, thời hạn xuất trình q ngắn, khơng đảm bảo việc xuất trình dễ bị viện cớ để trả chứng từ khơng thanh tốn; chọn phương thức thanh tốn khơng phù
hợp gây nhiều rủi ro; khơng có đầy đủ phương tiện và thơng tin để điều tra kỹ về đối tác; kỹ năng đàm phán yếu kém, kiến thức mập mờ nên ký những hợp đồng khơng rõ
ràng và bất lợi…
Bên cạnh đó, một trong những rủi ro được quan tâm hiện nay liên quan đến thanh toán quốc tế là rủi ro trong kiện tụng thực hiện vi phạm hợp đồng: Biện pháp
khởi kiện bên vi phạm hợp đồng thực hiện rất khó khăn và tốn kém vì những vấn đề nan giải như: Khi khởi kiện bên mua hàng takes a legal action against the buyer để
thu hồi nợ chưa được thanh tốn thì sẽ áp dụng luật pháp của nước người mua, luật của nước người bán hay luật của một nước thứ ba? Vụ kiện legal proceedings sẽ
được xử ở đâu. Ngay cả khi vụ kiện được xử ở một nước khác không phải tại nước người mua và người mua bị xử thua kiện thì cũng có khả năng bản án Judgement
cũng không được người mua thi hành. Ngoài ra, việc khởi kiện tại một tòa án ở nước
49
ngồi là một vấn đề tốn thời gian time consuming và tốn kém costly cho bên bán. Vấn đề đặt ra là cần có một giải pháp để giảm thiểu rủi ro trong kiện tụng thực hiện vi
phạm hợp đồng. 2.3.2
Các nguyên nhân gây ra rủi ro trong TTQT tại Eximbank

2.3.2.1 Các nguyên nhân khách quan a.Nguyên nhân từ phía khách hàng của Eximbank


Nhà nhập khẩu cũng như nhà xuất khẩu Việt Nam thường có vị thế không cao trong quan hệ mua bán nên thường gặp một số khó khăn nhất định trong việc
thanh tốn hay đòi tiền. Khi nhập khẩu thì bị các nhà xuất khẩu nước ép thanh tốn ứng trước, còn khi xuất khẩu thì ngược lại là bị đối tác nước ngồi trì hỗn việc thanh
tốn.
Khách hàng trong nước khó khăn, khơng có khả năng thực hiện cam kết với Eximbank hoặc lợi dụng những sơ hở, bng lỏng trong hoạt động thanh tốn quốc tế
của Ngân hàng để ràng buộc ngân hàng vào những hoạt động sai mục đích, trái pháp
luật.
Nhà xuất khẩu là khách hàng của Eximbank cũng có một số hạn chế về hiểu biết nghiệp vụ và kinh nghiệm thực tiễn khi: đề nghị chuyển sang hình thức nhờ thu
khi thấy bộ chứng từ có sai sót; chấp nhận LC với những điều khoản khó thực hiện như thời hạn xuất trình q ngắn khơng đảm bảo việc xuất trình dễ bị viện cớ để trả
chứng từ khơng thanh tốn…
Các ngân hàng đại lý cố tình khơng thực hiện các cam kết, nghĩa vụ của mình hoặc với các lý do chính trị, kinh tế,… mà không thực hiện được, gây tổn thất
cho khách hàng và Eximbank. b.Nguyên nhân từ thực trạng nền kinh tế Việt Nam
Mơi trường pháp lý: hiện nay chưa có văn bản nào điều chỉnh mối quan hệ giữa các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế, các bên tham gia vận dụng
UCP làm căn cứ quy định trách nhiệm và quyền hạn, nhưng đây chỉ là thông lệ quốc
tế.
50
Trong khi đó các nước trên thế giới đều có những luật và văn bản dưới luật quy định về giao dịch tín dụng chứng từ trên cơ sở thơng lệ quốc tế có tính đến đặc thù
quốc gia
Chính sách thương mại: Quy định hoạt động xuất nhập khẩu, thuế quan, hải quan chưa ổn định, chính sách tỷ giá biến động mạnh ảnh hưởng đến nhà xuất nhập
khẩu, làm tăng rủi ro hối đoái. Các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ chưa phát triển lắm chủ yếu là mua bán giao ngay spot; forward, swap còn rất hạn chế. Điều này gây
khó khăn cho việc tính tốn hiệu quả và tránh rủi ro do biến động tỷ giá. Đặc biệt là sự biến động bất thường của giá USD như hiện nay là điều khó khăn cho các doanh
nghiệp xuất nhập khẩu, gây ảnh hưởng lớn đến lợi nhuận của họ. Ngân hàng Nhà nước đã không quản lý và không điều khiển được sự ổn định giá mua bán USD cho các
doanh nghiệp, điều này đã khiến các doanh nghiệp nhập khẩu không mua được nguồn USD theo giá niêm yết để thanh tốn tiền hàng nhập khẩu, ngược lại đó lại là nguồn
thu thêm cho các nhà đầu cơ USD.
Công tác cung cấp thơng tin tín dụng: chủ yếu lấy thông tin từ CIC. Tuy nhiên, công tác xây dựng và cung cấp thông tin cho các Ngân hàng đôi khi chưa được
quan tâm đúng mức dẫn đến tình trạng thơng tin khơng được cập nhật, số liệu thiếu chính xác. Ngược lại, các Ngân hàng không chủ động cung cấp thông tin thường
xuyên, dẫn đến tăng nguy cơ rủi ro.
Mức độ hội nhập thế giới ngày càng tăng cao kéo theo môi trường kinh doanh phức hợp, hệ thống pháp lý có nhiều thay đổi so với trước, tốc độ thanh toán và
khối lượng thanh toán ngày càng cao, các hành vi trái phép từ bên ngồi chưa có kinh
nghiệm nhận biết và khó phòng ngừa. 2.3.2.2 Các ngun nhân chủ quan
Đội ngũ cán bộ làm công tác kinh doanh đối ngoại ở cả trụ sở chính và các chi nhánh đều trong tình trạng thiếu về số lượng và yếu về trình độ chun mơn, chưa
thực sự chun sâu trong lĩnh vực chuyên môn, nghiệp vụ; thiếu cán bộ đã qua thực tế, có kinh nghiệm và được đào tạo bài bản. Tại nhiều chi nhánh, do thiếu cán bộ, một
người phải làm kiêm nhiệm nhiều phần việc, có khi cán bộ thanh tốn quốc tế làm cả
51
phần việc kế toán, dịch vụ khách hàng. Nhiều trường hợp sau khi được đào tạo làm TTQT lại bị chuyển đi làm nghiệp vụ khác; thiếu kiến thức về các luật pháp, thông lệ
quốc tế UCP, URR,…; khả năng ngoại ngữ hạn chế, chưa có khả năng tư vấn cho khách hàng trong các khâu xây dựng dự án, lựa chọn điều kiện thanh toán, đề xuất các
công cụ bảo hiểm tỷ giá, lãi suất,… Cho đến nay, Eximbank vẫn thiếu một đội ngũ chuyên gia đầu ngành đủ mạnh làm nồng cốt cho phát triển nghiệp vụ cũng như triển
khai công tác đào tạo lại. Đặc biệt là cho đến nay Eximbank vẫn chưa mở những lớp đào tạo những kiến thức nghiệp vụ chuyên môn cơ bản về TTQT cho những nhân viên
TTQT mới, cũng như chưa có tổ chức tập huấn phổ biến những kiến thức TTQT nâng
cao và những tình huống rủi ro thường gặp cho những cán bộ chủ chốt.
Eximbank với hoạt động thanh toán XNK khá lớn, việc xử lý chứng từ mỗi ngày khá nhiều, đa dạng và phức tạp, đòi hỏi nhân viên xử lý giao dịch phải có kinh
nghiệm và chun mơn khá vững, nắm rõ quy trình nghiệp vụ cũng như các biện pháp phối hợp phòng ngừa rủi ro trong thanh tốn xuất nhập khẩu. Nếu sơ suất sẽ khơng thể
phòng ngừa và ngăn chặn một số thanh tốn khống hay xuất trình chứng từ giả mạo
hay khơng có chứng từ gốc mà LC u cầu.
Quy chế tài trợ thương mại có định nghĩa các dịch vụ “Bao thanh toán Factoring”, “Biên lai tín thác Trust Receipt”, “phương thức giao chứng từ trả
tiền”Cash Against Document … nhưng Eximbank chưa ban hành quy trình nghiệp vụ cho các sản phẩm trên cũng như chưa cho cài đặt chương trình quản lý các sản
phẩm dịch vụ kể trên trên Module Trade Finance. Cho nên các nghiệp vụ này nếu có
phát sinh sẽ gây lúng túng trong việc thực hiện, kéo theo sẽ có một số rủi ro nhất định.
Trình độ cơng nghệ Ngân hàng còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu, có thể gây ra rủi ro cho nghiệp vụ thanh toán quốc tế. Cụ thể là trong hệ thống phần mềm
Korebank chưa có phần theo dõi tự động các món LC, DA đến hạn phải trả cho nước ngoài, mà nhân viên TTQT phải theo dõi bằng sổ tay, đây là việc làm rất mất thời gian
và khơng đảm bảo an tồn thanh tốn đúng hạn cho nước ngồi, ảnh hưởng đến uy tín
của Eximbank. 2.4 Đánh giá cơng tác phòng chống rủi ro trong thanh tốn quốc tế tại Eximbank
52
Để đảm bảo an tồn trong hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu, Eximbank đã và đang thực hiện một số giải pháp quản lý rủi ro trong thanh toán quốc tế như sau:
Khi Eximbank tiếp nhận hồ sơ thanh toán ứng trước lần đầu của khách hàng
nhập khẩu thì Eximbank sẽ kiểm tra uy tín của khách hàng, hỏi xem khách hàng nhập khẩu này đã từng nhập hàng với người xuất khẩu này hay chưa, người nhập khẩu này
có được hợp đồng nhập khẩu này thông qua môi giới hay đã biết nhau từ trước. Nếu cần thiết thì bộ phận TTQT nhờ bộ phận tín dụng thẩm định thêm thơng tin cũng như
uy tín của khách hàng nhằm tránh trường hợp nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu có thể thơng đồng để “rửa tiền”. Ngoài ra, nhân viên TTQT cũng phải kiểm tra mặt hàng
nhập khẩu có thuộc diện cấm xuất hoặc nước người mua cấm nhập hay không, quốc gia của nhà nhập khẩu có thuộc diện Mỹ cấm vận hay không. Theo quy định của
Eximbank là 45 ngày sau khi chuyển tiền thanh toán ứng trước cho đối tác nước ngoài, nhà nhập khẩu phải bổ sung các chứng liên quan tờ khai hải quan, hoá đơn thương
mại, vận tải đơn,… cho Eximbank. Tuy nhiên, chương trình phần mềm để theo dõi việc bổ sung chứng từ cũng như để nhắc nhở khách hàng chưa thật sự chặt chẽ để
tránh trường hợp nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu có thể thơng đồng để “rửa tiền”, hàng hố thật khơng được giao cho nhà nhập khẩu.
Kiểm tra ngay khi nhận được bộ chứng từ nhờ thu xem có phải do người bán trực tiếp gửi hay không. Nếu khơng có thỏa thuận trước thì Eximbank khơng nhận
chứng từ do người bán gửi trực tiếp đến. Đồng thời kiểm tra ngay số lượng chúng từ được liệt kê trên thư ngân hàng với chứng từ thực nhận và có đủ bản gốc chứng từ vận
tải không để thông báo ngay cho nhà nhập khẩu chọn phương án xử lý là trả ngay hay tra soát ngân hàng chuyển chứng từ. Khi giao bộ chứng từ nhờ thu cho nhà nhập khẩu
đi nhận hàng, Exmbank yêu cầu nhân viên ngân hàng xem xét kỹ chữ ký và mẫu dấu đã đăng ký tại Eximbank, đồng thời có những biện pháp đảm bảo đủ tài sản để thanh
tốn cho nước ngồi nếu là thanh toán DP hoặc thực hiện ngay việc ký quỹ hay đảm bảo thanh toán bằng tiền vay dựa trên Giấy nhận nợ của khách hàng. Nếu là thanh
tốn DA thì tại thời điểm nhà nhập khẩu chấpnhận hối phiếu để lấy bộ chứng từ đi nhận hàng cũng phải kiểm tra kỹ mẫu dấu và chữ ký và xuất trình hợp đồng ngoại
53
thương bản sao y cho Eximbank. Ngày đáo hạn thanh toán, nếu bộ chứng từ nhờ thu nhận được thiếu chứng từ vận tải gốc thì nhà NK phải xuất trình tờ khai hải quan
chứng minh hàng hóa đã được thông quan liên quan tới các thông tin của bộ chứng từ nhờ thu mà Eximbank đã nhận.
Khi Eximbank tiếp nhận đơn xin mở LC lần đầu tiên của khách hàng, Eximbank sẽ yêu cầu khách hàng xuất trình các chứng từ sau:
Giấy đề nghị bán ngoại tệ dùng để mua ngoại tệ ký quỹ Giấy đề nghị phát hành thư tín dụng
Hợp đồng mua bán Báo cáo tài chính trong 3 năm gần nhất
Phương án kinh doanh lô hàng nhập khẩu Tài sản đảm bảo đối với thư tín dụng trả chậm
Đề nghị vay trả nợ nước ngồi nếu thư tín dụng có thời hạn hiệu lực trên 1 nămthư tín dụng trả chậm
Hợp đồng tín dụng nếu khách hàng vay vốn để thanh tốn hàng nhập khẩu hoặc cầm cố lơ hàng nhập khẩu để thanh toán
Khi nhận được các chứng từ trên, Eximbank sẽ tiến hành thẩm định khách hàng:
Phân tích tình hình tài chính của khách hàng: dựa trên báo cáo tài chính để xác định lãi lỗ, cơ cấu vốn nhất là tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu, vòng quay hàng tồn kho,
lưu chuyển dòng tiền… Phương án kinh doanh lô hàng nhập khẩu: giấy phép nhập khẩu nếu mặt hàng
yêu cầu có giấy phép, lợi nhuận, giá cả so với giá thị trường, ảnh hưởng đối với môi trường, thị trường tiêu thụ, mục đích sử dụng…
Tài sản đảm bảo tối đa 70 trị giá thư tín dụng: đảm bảo vốn gốc và lãi cùng những chi phí phát sinh nếu phải xử l. tài sản để thu hồi nợ.
Thông tin nợ của khách hàng tại trung tâm thơng tin tín dụng của Ngân hàng nhà nước CIC.Đây là cơ sở để phát hành thư tín dụng. Mặt khác, việc thẩm định
những doanh nghiệp mới thành lập sẽ gặp khó khăn rất nhiều. Bởi vì doanh nghiệp
54
mới thành lập khơng có báo cáo tài chính và thơng tin tại CIC. Do đó, việc thẩm định doanh nghiệp mới hoàn toàn phụ thuộc vào kinh nghiệm của cán bộ tín dụng đối với
lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp đó. Còn trường hợp Eximbank tiếp nhận đơn xin mở LC của khách hàng đã
từng giao dịch mở LC với Exmbank thì nhân viên Eximbank phải xem xét kỹ tất cả các điều kiện và điều khoản của LC có bất lợi và rủi ro gì cho Eximbank và cho khách
hàng hay khơng? nếu có, u cầu khách hàng thương lượng với người bán sửa đổi, bổ sung đơn và hợp đồng ngoại thương nếu có cho phù hợp, nếu LC mở hoàn toàn
bằng vốn tự có của khách hàng, sau khi đã tư vấn cho khách hàng một cách đầy đủ về các rủi ro có thể xảy ra mà khách hàng vẫn chấp nhận thì Eximbank yêu cầu khách
hàng cam kết mọi rủi ro về sau hoàn toàn do khách hàng gánh chịu.
 Khi nhận được bộ chứng từ hàng nhập khẩu:
Kiểm tra chứng từ qua 3 tay: nhân viên, kiểm sốt viên và lãnh đạo phòng để xác định tình trạng của bộ chứng từ theo UCP600 trước khi thông báo cho khách
hàng. Nếu bộ chứng từ hợp lệ, thông báo cho khách hàng và yêu cầu khách hàng
nộp tiền thanh tốn trong vòng 5 ngày làm việc kể từ khi nhận được thông báo. Nếu bộ chứng từ bất hợp lệ, thông báo cho khách hàng và đề nghị khách
hàng cho ý kiến về tình trạng bộ chứng từ. Nếu khách hàng đồng ý bất hợp lệ bằng văn bản, yêu cầu khách hàng nộp tiền để thanh toán. Nếu khách hàng từ chối bất hợp lệ
bằng văn bản thì tiến hành thông báo từ chối thanh toán cho ngân hàng xuất trình trong vòng 5 ngày làm việc sau ngày nhận chứng từ. Trong thơng báo từ chối thanh
tốn nêu rõ những bất hợp lệ và chờ ý kiến của ngân hàng xuất trình. Trong trường hợp ngân hàng xuất trình bác bỏ các điểm bất hợp lệ của Eximbank phù hợp với
UCP600, ISBP681 và khách hàng từ chối thanh toán, Eximbank phải chịu trách nhiệm thanh tốn cho ngân hàng xuất trình.
Quy trình nghiệp vụ Thư Tín dụng của Eximbank khuyến cáo tuyệt đối khơng được thanh tốn chứng từ nếu thanh tốn LC đổi lấy chứng từ giao hàng mà
chứng từ xuất trình thiếu bản gốc vận đơn bản chính hoặc khơng có biên lai đã giao
55
nhận hàng hố được ký giữa hai bên mua bán. Trong trường hợp nhà xuất khẩu là khách hàng của Eximbank khi biết bộ chứng từ có sai sót gì thì thường yêu cầu
Eximbank chuyển chứng từ đi để thanh toán theo phương thức nhờ thu, Eximbank nên tư vấn về các rủi ro sẽ gặp phải và khi đã tư vấn một cách rõ ràng rồi nhưng khách
hàng vẫn đề nghị thì cần cân nhắc khi chấp nhận để khách hàng chuyển việc thanh tốn bộ chứng từ sang hình thức nhờ thu. Việc cân nhắc này dựa trên các điều kiện:
người mua và người bán có sự thơng hiểu lẫn nhau, có thiện chí hoặc người mua là người thuê tàu. Đối với những bộ chứng từ đòi tiền có số lượng chứng từ nhiều và lắt
nhắt, Eximbank quy định phải kiểm tra kỹ về số tiền trên các invoice với số tiền đòi thanh tốn; kiểm tra có đòi tiền những hàng mẫu hay hàng giao bằng DHL ngồi LC
hay đòi phí bưu điện khơng. Kiểm tra bộ chứng từ phát hiện ra phải đánh điện báo ngay cho ngân hàng nước ngồi biết là Eximbank khơng chấp nhận thanh toán các
trường hợp này cho dù người mua chấp nhận và thanh toán bằng tiền của người mua. Còn trong trường hợp bộ chứng từ khơng có chứng từ vận tải gốc, Eximbank thông
báo ngay cho người mua biết và đánh điện cho ngân hàng nước ngoài trong vòng 5 ngày làm việc thơng báo là Eximbank chỉ thanh tốn bộ chứng từ khi người mua xuất
trình tờ khai hải quan thể hiện hàng hóa, số lượng, số và ngày chứng từ vận tải, phương tiện vận tải, số và ngày hợp đồng ngoại thương, số hóa đơn thương mại đúng
như bộ chứng từ đã xuất trình và tuyệt đối giữ nguyên tình trạng bộ chứng từ. Eximbank đặc biệt chú trọng và nâng cao cơng tác phòng ngừa rủi ro:
Thường xun bổ sung hồn chỉnh cơng tác phòng ngừa rủi ro. Chủ động nắm bắt thông tin thị trường, giá cả, biến động của từng ngành hàng, đặc biệt là diễn
biến tăng giảm giá của một số mặt hàng xuất nhập khẩu có liên quan đến lĩnh vực tín dụng tại Eximbank như tôm cá, dệt may, sắt thép, phân bón, hạt điều,… kịp thời cảnh
báo đến các phòng nghiệp vụ để thận trọng hơn trong công tác tài trợ mở LC nhập khẩu hay chiết khấu hàng xuất khẩu.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình hoạt động của các doanh nghiệp, bộ phận Phòng ngừa rủi ro đã phân loại, sàng lọc khách hàng và đưa ra các đề xuất
56
định hướng phòng ngừa rủi ro đối với từng loại khách hàng như điều chỉnh tỷ lệ ký quỹ, quy mô tài sản thế chấp, hạn mức mở LC, hạn mức chiết khấu…
Từng bước mở rộng công tác phòng ngừa rủi ro sang các lĩnh vực khác như ngoại tệ rủi ro tỷ giá, thông tin rủi ro chính trị…
Tăng cường lực lượng cán bộ làm cơng tác phòng ngừa rủi ro. Tuyển dụng những lao động có kinh nghiệm làm việc thực tế lâu năm tại các doanh nghiệp, nhạy
bén trong cơng việc để có thể dự báo phòng ngừa những rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động thanh toán quốc tế một cách hiệu quả.
Từng bước bổ sung hoàn chỉnh và nâng cao Quy chế phòng ngừa rủi ro tồn diện trong nghiệp vụ thanh toán quốc tế tại Eximbank.
Củng cố, phân công và giao nhiệm vụ cụ thể cho từng lãnh đạo phòng trực tiếp phụ trách nhằm đảm bảo thực hiện đúng quy định về thông tin 2 chiều theo đúng
tinh thần của Ban lãnh đạo để phát huy hết vai trò của cơng tác thơng tin phòng ngừa rủi ro trong hoạt động nghiệp vụ thanh toán quốc tế.
Tăng cường phương tiện kết nối mạng thông tin để khai thác và chủ động thu thập mọi thông tin từ mọi nguồn: Trung tâm thơng tin tín dụng CIC credit
information centre của NHNN, Internet, các phương tiện thông tin đại chúng như báo, đài…
Xây dựng cho toàn thể cán bộ nhân viên nhận thức được tầm quan trọng của cơng tác thơng tin phòng ngừa rủi ro là công việc thường xuyên liên tục về hoạt
động TTQT cũng như bất kỳ nghiệp vụ nào liên quan đến hoạt động ngân hàng. Đầu tư có trọng điểm trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nhân viên
thanh tốn quốc tế. Tăng trưởng và trẻ hóa đội ngũ cán bộ, nhân viên thanh tốn quốc tế, có kế hoạch quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có tâm huyết với nghề; sàng lọc
và kiểm soát cán bộ, nhân viên để giảm rủi ro về đạo đức; thu hút, đãi ngộ cán bộ, nhân viên giỏi; học tập, bồi dưỡng nghiệp vụ, quy trình xuất nhập khẩu của Eximbank
và các ngân hàng hàng đầu trên địa bàn; nghiên cứu thị trường, chính sách, hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu của các ngân hàng thương mại là đối thủ cạnh tranh,… để
hoàn thiện đề xuất, đóng góp, hồn thiện, giảm rủi ro trong quy trình nghiệp vụ, nâng
57
cao kỹ năng tư vấn, xử lý nghiệp vụ thanh toán xuất nhập khẩu nhanh chóng, khắc phục rủi ro chuyên môn và phục vụ thỏa mãn mọi nhu cầu ngày một cao và đa dạng
của khách hàng xuất nhập khẩu. Không ngừng cải tiến công tác quản lý điều hành và phát triển cơng nghệ
tin học. Eximbank trên lộ trình “Hiện đại hóa” ngân hàng, khơng ngừng cải tiến khơng những con người mà cả máy móc. Cơng nghệ thơng tin phát triển sẽ hỗ trợ giảm thiểu,
phát hiện rủi ro do sai sót con người gây ra. Cơng nghệ thơng tin còn là cơng cụ quản lý hiệu quả và là phương tiện để thực hiện việc thanh tốn xuất nhập được nhanh
chóng và an toàn. Ngoài việc quản lý trực tiếp các rủi ro liên quan đến hoạt động thanh toán
xuất nhập khẩu như trên, Eximbank không ngừng cải thiện và đề ra các biện pháp góp phần đi đơi giữa công tác phát triển doanh số thanh toán xuất nhập khẩu và phòng
ngừa rủi ro. Cụ thể là các biện pháp:
Eximbank tiếp tục đẩy mạnh cho vay xuất nhập khẩu kết hợp chặt chẽ với phòng ngừa rủi ro: Đặc biệt là đẩy mạnh cho vay xuất đang còn nhiều tiềm năng,
kết hợp thường xuyên rà sốt tình hình hoạt động của các doanh nghiệp đang có quan hệ, đặc biệt là các doanh nghiệp có quan hệ tín dụng để thiết lập quan hệ tồn diện với
các doanh nghiệp có quy mơ lớn, làm ăn có hiệu quả, có khả năng cạnh tranh trong xu thế hội nhập; đồng thời phát hiện kịp thời, theo dõi chặt chẽ đối với những doanh
nghiệp làm ăn kém hiệu quả, ngưng cho vay xuất nhập khẩu và tập trung thu hồi nợ. Đối với những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả chưa có quan hệ với Eximbank, thì áp
dụng các chính sách khách hàng phù hợp để lơi kéo về quan hệ với Eximbank. Thường xuyên rà soát lại quy trình cho vay xuất khẩu cũng như nhập khẩu để có những điều
chỉnh phù hợp, kịp thời theo diễn biến kinh tế, xã hội và pháp luật nhằm vừa tạo một cơ chế thơng thống để nâng cao hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu hỗ trợ thanh toán
xuất nhập khẩu, vừa kiểm soát chặt chẽ các rủi ro tiềm ẩn.
Tăng cường huy động vốn ngoại tệ phát triển nghiệp vụ t ài trợ xuất
nhập khẩu tạo tiền đề kiểm soát rủi ro tỷ giá bằng những sản phẩm cụ thể như sản phẩm cho vay USD xuất nhập khẩu có bảo hiểm rủi ro tỷ giá: Giải pháp được
58
đề ra trên cơ sở đánh giá khả năng có thể khai thác được nguồn vốn ngoại tệ dồi dào trên địa bàn TP.HCM của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu khơng chỉ bằng đòn bẩy
tín dụng mà còn là sự kết hợp đồng bộ các chính sách khách hàng, chính sách lãi suất, phí dịch vụ cạnh tranh của Eximbank. Kiểm soát hiệu quả những rủi ro liên quan đến
tỷ giá làm ảnh hưởng đến hoạt động thanh tốn quốc tế thơng qua các công cụ phái sinh hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng hoán đổi,..
Phân tán rủi ro bằng việc tính tốn, đánh giá lại thu nhập cho cả gói dịch vụ đối với các khách hàng xuất nhập khẩu lớn của Eximbank, phân loại
khách hàng khách hàng kim cương, vàng, bạc, đồng h àng: Giải pháp được đề ra
nhằm giảm rủi ro của một nghiệp vụ vào một khách hàng; đồng thời giữ và thu hút khách hàng xuất nhập khẩu lớn sử dụng toàn diện chuỗi dịch vụ ngân hàng do
Eximbank cung ứng gồm dịch vụ thanh toán quốc tế, tài trợ xuất nhập khẩu, dịch vụ thẩm định – cho vay, dịch vụ bảo lãnh thanh toán xuất nhập khẩu, dịch vụ chuyển tiền
và dịch vụ ngoại hối trên cơ sở lấy hiệu quả kinh tế tổng hợp Eximbank thu được từ khách hàng làm tiêu chuẩn đánh giá chất lượng dịch vụ cung ứng và phân loại khách
hàng được chính xác, hiệu quả hơn.
Đa dạng hóa nghiệp vụ v à dịch vụ ngân hàng trong thanh toán xuất
nhập khẩu để hoạt động hỗ trợ công tác quản lý rủi ro được hiệu quả: Giải pháp
được đề ra trên cơ sở nhận thức nhu cầu cần được cung ứng nhiều loại hình dịch vụ thanh tốn của khách hàng xuất nhập khẩu chiết khấu chứng từ xuất khấu, phát hành
LC đối ứng, LC chuyển hượng, LC tuần hoàn; cho vay thanh toán dưới mọi phương thức LC, Nhờ thu DP-DA, TTR theo phương án kinh doanh khả thi và cơ cấu thanh
toán hợp lý của từng khách hàng có xem xét đến từng mặt hàng xuất nhập khẩu và thị trường xuất nhập khẩu; phát hành LC miễn ký quỹ hoặc ký quỹ với tỷ lệ thấp hơn
trước đi kèm với quản lý chặt chẽ hoạt động của doanh nghiệp; thực hiện chính sách mua bán ngoại tệ ưu tiên với khách hàng thanh toán LC xuất nhập khẩu qua
Eximbank. Qua nhiều dịch vụ thanh toán xuất nhập khẩu được cung ứng mà công tác quản lý rủi ro đối với khách hàng đó hiệu quả hơn do biết được vị thế kinh doanh xuất
59
nhập khẩu của khách hàng, tiềm năng khách hàng và kinh nghiệm của khách hàng trong thanh toán xuất nhập khẩu…
60
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
  

Phần II đi từ tổng quan về Eximbank, thực trạng hoạt động thanh tốn quốc tế đến phân tích rủi ro thanh toán quốc tế và thực trạng quản lý rủi ro thanh toán quốc tế tại
Eximbank trong thời gian qua. Để kiểm soát và giảm thiểu các rủi ro này, các ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung và Eximbank nói riêng phải nghiên cứu thêm và
ứng dụng một số giải pháp phù hợp với điều kiện hoạt động kinh doanh của từng ngân hàng. Các giải pháp này sẽ được trình bày một cách cụ thể trong chương III.
61

CHƯƠNG 3 : GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ RỦI RO TRONG


Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

×