Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (809.27 KB, 97 trang )
dáng kiến trúc, thiết kế, hành vi, trang phục, biểu tượng, lễ nghi, ngôn ngữ.
Những biểu trưng trực quan này thể hiện những giá trị thầm kín hơn nằm sâu
bên trong hệ thống tổ chức mà mỗi thành viên và những người hữu quan có
thể cảm nhận được. Các biểu trưng phi trực quan bao gồm lý tưởng, niềm tin,
bản chất mối quan hệ con người, thái độ và phương pháp tư duy, ảnh hưởng
của truyền thống và lịch sử phát triển của tổ chức đối với các thành viên.
Theo Edgar H.Schein, ông đã chia văn hoá doanh nghiệp thành các lớp
khác nhau, sắp xếp theo thứ tự phức tạp và sâu sắc khi cảm nhận các giá trị
văn hoá của doanh nghiệp. Thuật ngữ “lớp” dùng để chỉ mức độ có thể cảm
nhận được của các giá trị văn hoá trong doanh nghiệp. Lý do của việc phân
chia này là do văn hoá doanh nghiệp phục vụ hai chủ thể chính là chủ thể bên
ngoài và chủ thể bên trong. Chủ thể bên ngoài là khách hàng, nhà cung cấp,
người lao động. Chủ thể bên trong là nhà quản trị và nhân viên công ty. Việc
phân loại như vậy sẽ giúp chúng ta hiểu rõ bản chất của văn hoá doanh nghiệp
cũng như các biện pháp xây dựng văn hoá doanh nghiệp.
Mô hình các lớp văn hoá doanh nghiệp:
- Những quá trình và cấu trúc hữu hình của doanh nghiệp
- Những giá trị được chấp nhận
- Những quan niệm chung
2.1. Những quá trình và cấu trúc hữu hình của doanh nghiệp
Đây là nội dung rõ ràng, là tầng bề mặt dễ quan sát nhất của văn hoá
doanh nghiệp. Lớp này bao gồm tất cả những hiện tượng và sự vật mà một
người có thể nhìn thấy, nghe thấy và cảm thấy khi tiếp xúc với một tổ chức có
nền văn hoá xa lạ. Những quá trình và cấu trúc hữu hình của doanh nghiệp
8
bao gồm 5 nhóm yếu tố.
2.1.1. Kiến trúc của doanh nghiệp
Bao gồm kiến trúc ngoại thất và thiết kế nội thất công sở. Từ sự tiêu
chuẩn hóa về màu sắc, kiểu dáng đặc trưng, thiết kế nội thất như mặt bằng,
quầy, bàn ghế, phòng, giá để hàng, lối đi, loại dịch vụ, trang phục đến những
chi tiết nhỏ nhặt như đồ ăn, vị trí công tắc điện, thiết bị. Tất cả đều được sử
dụng để tạo ấn tượng thiện trí với khách hàng cũng như cảm giác thân quen,
được quan tâm cho nhân viên. Sở dĩ như vậy là vì kiến trúc ngoại thất có thể
có ảnh hưởng quan trọng đến hành vi con người về phương diện cách thức
giao tiếp, phản ứng và thực hiện công việc. Hơn nữa, công trình kiến trúc có
thể được coi là một “linh vật” biểu thị một ý nghĩa, giá trị nào đó của một tổ
chức, chẳng hạn: giá trị lịch sử gắn liền với sự ra đời và trưởng thành của tổ
chức, các thế hệ nhân viên, xã hội, còn các kiểu dáng kết cấu có thể được coi
là biểu tượng cho phương châm chiến lược của tổ chức. Trong xã hội ngày
nay, các doanh nghiệp càng chú ý hơn tới kiến trúc, diện mạo của mình để
khẳng định năng lực tài chính của doanh nghiệp cũng như uy thế trước các
đối thủ, đối tác và khách hàng.
2.1.2. Các nghi lễ
Đó là những hoạt động đã được dự kiến từ trước và chuẩn bị kỹ lưỡng
dưới hệ thống các sự kiện văn hoá - xã hội chính thức, được thực hiện định kỳ
hay bất thường nhằm thắt chặt mối quan hệ và thường được tổ chức vì lợi ích
của những người tham dự. Những người quản lý có thể sử dụng nghi lễ như
một cơ hội quan trọng để giới thiệu về những giá trị được tổ chức coi trọng,
để nhấn mạnh những giá trị riêng của tổ chức, tạo cơ hội cho mọi thành viên
cùng chia sẻ cách nhận thức về những sự kiện trọng đại, để nêu gương và
khen tặng những tấm gương điển hình đại biểu cho những niềm tin và cách
9
thức hành động cần được tôn trọng. Có bốn loại nghi lễ cơ bản: chuyển giao
(khai mạc, giới thiệu thành viên mới, chức vụ mới, lễ ra mắt), củng cố (lễ phát
phần thưởng), nhắc nhở (sinh hoạt văn hoá, chuyên môn, khoa học), liên kết
(lễ hội, liên hoan, tết). Trong các thành phần thì các sự kiện, lễ kỷ niệm là
hoạt động sống động và dễ nhớ nhất đối với thành viên doanh nghiệp. Các
nghi lễ thường được xem như sự tôn vinh văn hoá doanh nghiệp, giúp gợi nhớ
và củng cố các giá trị văn hoá.
2.1.3. Biểu tượng, logo, bản tuyên bố sứ mệnh
Biểu tượng là từ ngữ, vật thể, trạng thái, hành động hay các đặc điểm
tạo nên sự khác biệt có ý nghĩa đối với cá nhân và nhóm. Bên cạnh biểu tượng,
logo và bản tuyên bố sứ mệnh cũng là hai thứ dễ thấy và cho ta cái nhìn cơ
bản về văn hoá doanh nghiệp.
Logo là một tác phẩm sáng tạo được thiết kế để thể hiện hình tượng về
một tổ chức, một doanh nghiệp bằng ngôn ngữ nghệ thuật phổ thông. Hình
ảnh này thường có sức mạnh rất lớn vì chúng hướng sự chú ý của người quan
sát vào một chi tiết hay điểm nhấn cụ thể, có thể diễn đạt được giá trị chủ đạo
mà tổ chức, doanh nghiệp muốn tạo ấn tượng, lưu lại hay truyền đạt cho
người thấy nó. Đây là loại biểu trưng đơn giản nhưng lại có ý nghĩa rất lớn
nên được các tổ chức, doanh nghiệp rất coi trọng. Nếu như logo thể hiện hình
ảnh trừu tượng nhưng có ý nghĩa cô đọng và bao quát nhất về doanh nghiệp
thì bản tuyên bố sứ mệnh xác định tầm nhìn dài hạn của doanh nghiệp, doanh
nghiệp sẽ làm gì và phục vụ cho ai.
2.1.4. Ngôn ngữ, khẩu hiệu
Trong thực tế, để làm việc được cùng với nhau chúng ta cần phải có sự
hiểu biết lẫn nhau thông qua việc dùng chung một ngôn ngữ. Phong cách giao
10
tiếp ngôn ngữ của nhân viên với nhau, với khách hàng hay cấp trên đều thể
hiện nét văn hoá doanh nghiệp. Tuy vậy, mỗi cá nhân có phong cách giao tiếp
khác nhau, chính vì thế sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hình ảnh và cách nhìn nhận
của khách hàng, nhà cung cấp đối với công ty. Xây dựng một phong cách giao
tiếp chuẩn cho toàn thể công nhân viên là một tiêu chí vô cùng quan trọng
trong việc xây dựng văn hoá và thương hiệu cho doanh nghiệp.
Nhiều tổ chức, doanh nghiệp đã sử dụng những câu chữ đặc biệt, khẩu
hiệu, ví von, ẩn dụ hay một sắc thái ngôn ngữ để truyền tải một ý nghĩa cụ thể
đến nhân viên của mình và những người hữu quan. Khẩu hiệu là hình thức dễ
nhập tâm và được không chỉ nhân viên mà cả khách hàng và nhiều người khác
luôn nhắc đến. Với nhiệm vụ phải đi vào tiềm thức của khách hàng, khẩu hiệu
cần nêu bật được những gì mà doanh nghiệp muốn nhắn nhủ hay nói cách
khác là phải mang trong mình thông điệp ấn tượng. Khẩu hiệu thường rất
ngắn gọn, hay sử dụng các ngôn từ đơn giản, dễ nhớ và nhấn mạnh vào lợi ích
sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp. Khẩu hiệu là cách diễn đạt cô đọng nhất
của triết lý hoạt động, kinh doanh của một tổ chức, một công ty. Vì vậy,
chúng cần được liên hệ với bản tuyên bố sứ mệnh của tổ chức, công ty để
hiểu được ý nghĩa tiềm ẩn của chúng.
2.1.5. Giai thoại
Giai thoại là những câu chuyện về quá trình hình thành và phát triển
của doanh nghiệp, về những năm tháng gian khổ và vinh quang của doanh
nghiệp hay về một nhân vật anh hùng của doanh nghiệp (nhất là hình tượng
người sáng lập, thủ lĩnh). Các câu chuyện này thường được thêu dệt từ những
sự kiện có thực được mọi thành viên trong tổ chức cùng chia sẻ và nhắc lại
với những thành viên mới. Nhiều mẩu chuyện kể về những nhân vật có công
trong quá trình xây dựng và phát triển doanh nghiệp như những mẫu hình lý
11
tưởng về chuẩn mực đạo đức và giá trị VHDN. Một số khác có thể trở thành
biểu tượng chứa đựng những giá trị và niềm tin trong tổ chức và đôi khi
không được chứng minh bằng các bằng chứng thực tế. Các mẩu chuyện có tác
dụng duy trì sức sống cho các giá trị ban đầu của doanh nghiệp, truyền đạt,
nuôi dưỡng những giá trị tốt đẹp, các nguyên tắc chung và giúp đoàn kết,
thống nhất về nhận thức của tất cả mọi thành viên.
2.2. Những giá trị được chấp nhận
Các giá trị được chấp nhận bao gồm những chiến lược, mục tiêu và các
triết lý kinh doanh của doanh nghiệp trong quá trình giải quyết các vấn đề để
thích ứng với bên ngoài và hội nhập vào bên trong tổ chức. Những người khởi
xướng, sáng lập ra doanh nghiệp và nhà lãnh đạo kế cận khi đề ra các quy
định, nguyên tắc, triết lý, tư tưởng đều yêu cầu mọi thành viên phải tuần theo.
Trải qua thời gian áp dụng, các nguyên tắc, triết lý, tư tưởng đó sẽ trở thành
niềm tin, thông lệ và quy tắc ứng xử chung mà mọi thành viên đều thấm
nhuần, tức là trở thành “những giá trị được chấp nhận”.
Những giá trị được chấp nhận cũng có tính hữu hình vì người ta có thể
nhận biết và diễn đạt chúng một cách rõ ràng và chính xác. Chúng thực hiện
chức năng hướng dẫn cho các thành viên trong doanh nghiệp cách thức đối
phó với một tình huống cơ bản và rèn luyện cách ứng xử cho các thành viên
mới trong môi trường doanh nghiệp. Hệ thống các giá trị này trở thành hiện
thân của triết lý kinh doanh và là kim chỉ nam cho doanh nghiệp khi phải đối
phó với những vấn đề khó khăn.
Hình thức thể hiện điển hình nhất của những giá trị được chấp nhận là
triết lý kinh doanh. Triết lý kinh doanh là những giá trị, nguyên tắc mang tính
định hướng cho hoạt động, hành vi của các thành viên trong doanh nghiệp,
nhằm thúc đẩy doanh nghiệp đạt hiệu quả cao trong sản xuất - kinh doanh.
12
Triết lý kinh doanh vạch ra mục tiêu, phương thức thực hiện và các giá trị đạo
đức cho mọi thành viên, từ đó tạo nên một phong thái văn hoá đặc thù của
doanh nghiệp. Triết lý kinh doanh thể hiện quan điểm riêng biệt của từng
doanh nghiệp, được xây dựng nên bởi những người sáng lập doanh nghiệp,
đồng thời được bổ sung, đúc kết trong quá trình phát triển và trưởng thành
của doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp khi xây dựng triết lý kinh doanh đều có
một mục đích: nó sẽ là thông điệp giúp đỡ các nhân viên trong toàn doanh
nghiệp, nhắc nhở họ về những thái độ cần có và những hành động cần làm.
2.2.1. Vai trò của triết lý kinh doanh
Triết lý kinh doanh là cốt lõi của văn hoá doanh nghiệp, tạo ra phương
thức phát triển bền vững. VHDN được cấu thành bởi nhiều yếu tố trong đó
hạt nhân là các triết lý và các giá trị. Triết lý kinh doanh là cơ sở để bảo tồn
phong thái và bản sắc văn hoá của doanh nghiệp. Một khi đã phát huy được
tác dụng thì triết lý rất ít thay đổi, nó trở thành ý thức lý luận và hệ tư tưởng
chung của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, triết lý kinh doanh còn là công cụ định
hướng và quản lý chiến lược của doanh nghiệp. Môi trường kinh doanh của
các doanh nghiệp vốn phức tạp và biến đổi không ngừng, để tồn tại được,
doanh nghiệp cần có tính mềm dẻo, linh hoạt và hơn thế nữa, muốn phát triển
được lâu dài nó cần thêm năng lực chủ động kinh doanh với sự khôn ngoan,
sáng suốt. Đối với cán bộ quản trị, triết lý doanh nghiệp là một văn bản pháp
lý và là cơ sở văn hoá để họ có thể đưa ra các quyết định quản lý quan trọng,
có tính chiến lược và phù hợp với văn hoá doanh nghiệp.
Triết lý kinh doanh còn là một phương tiện để giáo dục và phát triển
nguồn nhân lực của doanh nghiệp, đó là bài học đầu tiên cho mọi thành viên
mới của công ty. Nếu được tổ chức một cách trang trọng và thích hợp, triết lý
kinh doanh sẽ truyền được lý tưởng và giá trị của cả một cộng đồng tới từng
13
thành viên, tạo ra không chỉ sự di truyền văn hoá trong doanh nghiệp mà con
đem lại sứ mệnh và các chuẩn mực chung cho nhân viên. Vai trò của triết lý
kinh doanh có thể so sánh với bất kì một nguồn lực nào khác của doanh
nghiệp như vốn, tài sản hoặc công nghệ. Nếu thiếu một triết lý kinh doanh có
giá trị thì chẳng những tương lai lâu dài của doanh nghiệp có độ bất định cao
mà ngay trong việc lập kế hoạch chiến lược và dự án kinh doanh cũng rất khó
khăn vì thiếu một quan điểm chung về phát triển giữa các tầng lớp, bộ phận
của tổ chức doanh nghiệp để định hướng cho các thành viên.
2.2.2. Những quan niệm chung
Trong bất cứ cấp độ văn hoá nào cũng đều có các quan niệm chung,
được hình thành và tồn tại trong một thời gian dài, chúng ăn sâu vào tâm lý
của hầu hết các thành viên trong nền văn hoá đó. Những quan niệm chung là
những lý tưởng, niềm tin và nhận thức, phần nhiều bắt nguồn từ văn hoá dân
tộc và mặc nhiên được công nhận trong doanh nghiệp.
Để hình thành được các quan niệm chung, một cộng đồng văn hoá, ở
bất kỳ cấp độ nào, đều phải trải qua quá trình hoạt động, va chạm và xử lý
nhiều tình huống thực tiễn. Chính vì vậy, một khi đã hình thành, các quan
niệm chung sẽ rất khó bị thay đổi bởi đó là một phần trong tính cách, lối làm
việc của cả một tập thể. Khi trong tổ chức đã hình thành được quan niệm
chung, tức là các thành viên cùng nhau chia sẻ và hành động theo đúng quan
niệm chung đó, họ sẽ rất khó chấp nhận những hành vi đi ngược lại.
Lý tƣởng là những động lực, ý nghĩa, giá trị cao cả, căn bản, sâu sắc
giúp con người cảm thông chia sẻ, và dẫn dắt con người trong nhận thức, cảm
nhận và xúc động trước sự vật, hiện tượng. Lý tưởng cho phép các thành viên
trong doanh nghiệp thống nhất với nhau trong cách lý giải các sự vật, hiện
tượng xung quanh họ, giúp họ xác định được cái gì là đúng, cái gì là sai, định
14
hình trong đầu họ rằng cái gì được cho là quan trọng, cái gì được khuyến
khích cần phát huy, tạo ra một đích đến chung cho toàn doanh nghiệp. Tóm
lại, lý tưởng thể hiện định hướng căn bản, thống nhất hoá các phản ứng của
mọi thành viên trong doanh nghiệp trước các sự vật, hiện tượng. Cụ thể hơn,
lý tưởng của một doanh nghiệp được ẩn chứa trong triết lý kinh doanh, mục
đích kinh doanh và phương châm hành động của doanh nghiệp đó
Niềm tin là khái niệm đề cập đến việc mọi người cho rằng thế nào là
đúng, thế nào là sai. Nó khác lý tưởng ở chỗ được hình thành một cách có ý
thức, được xét đoán và rõ ràng. Xây dựng niềm tin trong doanh nghiệp đòi hỏi
các cấp quản lý phải có trình độ kiến thức và kinh nghiệm, từ đó, niềm tin của
người lãnh đạo sẽ dần dần được chuyển hoá thành niềm tin của tập thể thông
qua những giá trị. Một khi hoạt động nào đó trở thành thói quen và tỏ ra hữu
hiệu, chúng sẽ chuyển hoá dần thành niềm tin, dần dần chúng có thể trở thành
một phần lý tưởng của những người trong tổ chức này.
Giá trị, về bản chất, là khái niệm liên quan đến chuẩn mực đạo đức và
cho biết con người cho rằng họ cần phải làm gì. Đó là quan niệm về nhân, lễ,
nghĩa, trí, tín, về sự bình đẳng, sự thương yêu đùm bọc lẫn nhau. Đây là các
yếu tố thuộc về văn hoá dân tộc, trong hành vi ứng xử, chúng được coi như
điều đương nhiên trong các mối quan hệ của doanh nghiệp. Xã hội cũng như
doanh nghiệp luôn tồn tại các hành động tốt - xấu, vấn đề là các doanh nghiệp
làm thế nào để thể chế hoá, hình thành và xây dựng được một hệ thống các
chuẩn mực đạo đức chính thức cho mình.
Thái độ là chất kết dính niềm tin và giá trị thông qua tình cảm. Thái độ
chính là thói quen tư duy theo kinh nghiệm, là lối phản ứng theo một cách
thức nhất quán, mong muốn hoặc không mong muốn đối với sự vật, hiện
tượng xảy ra xung quanh.
15
II. Vai trò của văn hoá doanh nghiệp
Văn hoá được tạo ra như một cơ chế khẳng định mục tiêu của doanh
nghiệp, hướng dẫn và uốn nắn những hành vi và ứng xử của các thành viên
trong doanh nghiệp. Bất cứ một tổ chức nào cũng có một số hiểu biết ngầm,
những nguyên tắc vô hình tác động tới cách ứng xử hàng ngày tại nơi làm
việc. Điều đó được biểu hiện rõ nét khi những thành viên mới gia nhập tổ
chức, ngay từ đầu họ không được chấp nhận như những thành viên cũ, họ
phải học những nguyên tắc của tổ chức đó. Sự vi phạm những nguyên tắc vô
hình này sẽ dẫn đến kết quả khó được mọi người chấp nhận và thậm chí còn
bị loại bỏ ra khỏi tổ chức. Sự tuân thủ những nguyên tắc đó đóng vai trò là
những căn cứ đầu tiên để được khen thưởng, thăng tiến. Những người được
tuyển vào làm việc hay được thăng tiến phải là những người có một ảnh
hưởng mạnh với tổ chức cũng như các thành viên khác, có nghĩa họ phải là
những người có hành vi và cách ứng xử phù hợp với văn hoá đó. Không phải
một sự trùng lặp mà tất cả các nhân viên của Công viên Disney trông rất hấp
dẫn, sạch sẽ, luôn nở một nụ cười tươi tắn. Đó chính là hình ảnh mà Disney
muốn mang lại cho mọi người. Văn hoá đó được thể hiện bằng những luật lệ
và nguyên tắc chính thống để đảm bảo rằng tất cả các nhân viên của Disney sẽ
hành động thống nhất và tuân thủ theo những hình ảnh đó.
Mặc dù tác động của văn hoá doanh nghiệp đối với hoạt động của
doanh nghiệp có cả yếu tố tích cực và yếu tố cản trở, rất nhiều chức năng của
nó là có giá trị đối với doanh nghiệp cũng như các thành viên trong doanh
nghiệp. Văn hoá khuyến khích tính cam kết trong một doanh nghiệp, sự kiên
định trong cách ứng xử của các thành viên. Điều này rõ ràng là có lợi cho một
doanh nghiệp. Văn hoá cũng rất có giá trị đối với các thành viên trong doanh
nghiệp, bởi vì nó giảm sự mơ hồ của họ, nó nói với họ mọi việc nên được làm
như thế nào và điều gì là quan trọng.
16
1. Đối với hoạt động quản lý doanh nghiệp
Quản trị là tổng hợp các hoạt động được thực hiện nhằm đảm bảo hoàn
thành công việc thông qua sự nỗ lực thực hiện của người khác. Hay nói cách
khác, quản trị chính là việc làm thế nào để những người dưới quyền mình
thực hiện công việc một cách hiệu quả nhất nhằm đạt được mục tiêu chung.
Mà muốn điều hành được nhân viên thì nhà quản trị nhất thiết phải nắm vững
hệ thống ý nghĩa, giá trị, niềm tin chủ đạo, nhận thức và phương pháp tư duy
được họ đồng thuận, ảnh hưởng đến cách thức hành động của họ, đó chính là
văn hoá doanh nghiệp. Vậy, VHDN chính là công cụ, phương tiện mà qua đó
nhà quản trị thực hiện công việc quản lý của mình. Song, VHDN cũng có
những ảnh hưởng nhất định đến quyết định của người quản lý cũng như định
hình phong cách lãnh đạo của họ. Với những công ty có đặc trưng văn hoá
không chú trọng đến việc xây dựng niềm tin vào người lao động, người quản
lý thường sử dụng các biện pháp tập quyền, độc đoán, thay cho các biện pháp
phân quyền và dân chủ. Khi đã có được VHDN thì sức ép về quản lý của ban
lãnh đạo sẽ được giảm đi nhờ sự chia sẻ của cấp dưới. Các nhân viên sẽ được
quyền tự biết điều hành và cần phải làm gì trong những tình huống khó khăn.
Trong một môi trường tổ chức mà mọi người đều tham gia chia sẻ thực sự thì
vai trò của các giám đốc trong quản lý sẽ giảm nhẹ đi rất nhiều. Đó là phương
diện quan trọng của quản lý theo văn hoá và quản lý bằng văn hoá .
Văn hoá doanh nghiệp ảnh hưởng tới hoạt động quản trị doanh nghiệp
nói chung và do đó ảnh hưởng tới tất cả các hoạt động thuộc chức năng quản
trị: quản trị chiến lược, quản trị nhân lực, quản trị sản xuất, quản trị tài chính
và Marketing.
1.1. Quản trị chiến lược
Mỗi tổ chức đều phải lập kế hoạch chiến lược để xây dựng lộ trình và
17