1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Kinh tế - Thương mại >

Tình hình phát hành thẻ tại Việt Nam trong những năm qua Tình hình chung của dịch vụ thẻ tại VCB

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (367.83 KB, 82 trang )


Việt Nam, làm cho thị trờng thẻ đi vào cuộc cạnh tranh lành mạnh. Đây là một hành động đợc các tổ chức thẻ quốc tế đánh giá cao.
Năm 1999, Ngân hàng Nhà nớc đã ban hành Quy chế cho việc phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ ngân hàng. Mặc dù Quy chế còn cha đề cập
đến nhiều điểm, song đó là một khung pháp lý và điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng trong định hớng phát triển thẻ.

1.3.2. Tình hình phát hành thẻ tại Việt Nam trong những năm qua


Năm 1996, hai ngân hàng VCB và ACB đã khai trơng việc phát hành thẻ tín dụng quốc tế Mastercard đầu tiên ở Việt Nam. Năm 1997, ACB phát
hành thêm thẻ tín dụng quốc tế Visa, và đối với VCB là năm 1998. Cuối năm 2000, ACB bắt đầu phát hành thẻ tín dụng nội địa và đã thu đợc nhiều kết quả
khả quan. Đến nay ACB là ngân hàng chiếm thị phần phát hành thẻ cao nhất nớc ta. Đầu năm 2001, ngân hàng Eximbank đã phát hành thẻ tín dụng quốc tế
Mastercard. Và đầu năm 2002, Ngân hàng Công thơng cũng tham gia vào thị trờng phát hành thẻ với việc phát hành thẻ Master.
Bảng: Báo cáo phát hành thẻ tín dụng tại các NHTM Việt Nam
Năm Số lợng thẻ phát hành chiếc
Doanh số sư dơng thỴ tû VND 1996
721 27,31
1997 1890
58,84 1998
4120 119,72
1999 3930
170,18 2000
8683 259,50
2001 22910
438,56
Mặc dù số lợng thẻ phát hành doanh số sử dụng thẻ hàng năm tăng nhanh nhng vẫn còn rất khiêm tốn so với các nớc trong khu vực và cũng chỉ
chiếm tỷ trọng không đáng kể trong tổng doanh số thanh toán không dùng tiền mặt. Tỷ trọng doanh số sử dụng thẻ ở nớc ngoài đang có xu hớng giảm dần nh-
ng vẫn còn ở møc cao, chiÕm kho¶ng 70 tỉng doanh sè sư dơng thẻ. Các ngân hàng mặc dù có nhiều cố gắng trong viƯc më réng m¹ng líi CSCNT nh-
ng m¹ng líi này vẫn cha đa dạng và phát triển để phục vụ cho chủ thẻ là ngời
38
Việt Nam nên cũng ảnh hởng đến việc mở rộng sử dụng thanh toán thẻ tại Việt Nam.
Hiện nay, ngoài ACB có Trung tâm Thẻ hoạt động độc lập, hoạt động kinh doanh thẻ của các ngân hàng khác vẫn còn nằm trong sự quản lý của
phòng thẻ và hạch toán hoạt động thẻ vẫn còn phụ thuộc. Đây là một trong những khó khăn của các ngân hàng trong việc mở rộng và tăng tính cạnh tranh
của hoạt động thẻ.

1.3.3. Tình hình chung của dịch vụ thẻ tại VCB


Từ năm 1990, NHNT Việt Nam với t cách là một ngân hàng đại lí đã bắt đầu triển khai nghiệp vụ thanh toán thẻ ở Việt Nam. Đến năm 1995, ngân
hàng mới thực sự trở thành thành viên chính thức của hai tổ chức thẻ Visa và Mastercard. Sau một năm thực hiện thanh toán trực tiếp với các tổ chức thẻ
quốc tế, Ngân hàng Ngoại thơng đã triển khai nghiệp vụ phát hành thẻ tín dụng quốc tế VCB-Mastercard 1996 và tiếp đó là VCB-Visa 1998. Đối với
hai tổ chức thẻ Amex và JCB, Ngân hàng Ngoại thơng vẫn giữ vai trò là ngân hàng đại lí thanh toán. Tuy nhiên, với thẻ JCB, ngân hàng có thể triển khai
việc phát hành thẻ khi có đủ điều kiện.
Qua một thời gian, nghiệp vụ thẻ phát triển rất nhanh đòi hỏi phải có bộ phận chuyên trách quản lí và làm đầu mối triển khai các công việc về thẻ.
Tháng 51998, Phòng Thanh toán Thẻ thuộc Sở giao dịch Trung ơng đợc tách ra thành hai phòng với các chức năng khác nhau: Phòng quản lí Thẻ Trung ơng
và Phòng Thanh toán Thẻ tại Sở giao dịch. Phòng Quản lý Thẻ Trung ơng thực hiện nhiệm vụ thông tin, hớng dẫn chủ trơng chính sách, quản lý nghiệp vụ và
là trung tâm xử lý các giao dịch phát hành và thanh toán thẻ trong toàn hệ thống. Phòng Thanh toán Thẻ của Sở giao dịch, cũng nh các bộ phận thanh
toán thẻ tại các chi nhánh, trực tiếp giao dịch với khách hàng để thực hiện các thủ tục phát hành, thanh toán, tiếp thị, mở rộng thị trờng tại các khu vực địa
bàn Hà Nội.

2. Thực trạng hoạt động phát hành thẻ tại NHNT


Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

×