1. Trang chủ >
  2. Kinh tế - Quản lý >
  3. Quản trị kinh doanh >

Thực trạng du lịch sinh thái của các khu bảo tồn thiên nhiên Việt nam.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (283.74 KB, 51 trang )


Anh
các hang động trong khu vực di sản thiên nhiên Hạ long là những điểm tham quan nổi tiếng trong và ngồi nước.
Theo sự phân tích của Ngơ Đức Thịnh, từ đa dạng về tự nhiên dẫn đến sự đa dạng về văn hố. Chính vì vậy mà mà người Việt nam không thuần nhất
mà gồm 54 dân tộc khác nhau. Đáng chú ý hơn là các dân tộc thiểu số thường sống kề gần hoặc trong các khu bảo tồn thiên nhiên. Họ hiện vẫn đang lưu giữ
được phong cách sống, bản sắc văn hoá riêng và tập tục độc đáo. Điều này khiến Việt nam càng trở nên hấp dẫn trên phương diện du lịch sinh thái. Hiện
tại đời sống của những người dân ở đây có nhiều khó khăn thiếu thốn. Đây cũng là cơ hội để du lịch sinh thái thể hiện mình, đóng góp vào phát triển
cộng đồng tại các điểm du lịch .

2.3.2 Thực trạng du lịch sinh thái của các khu bảo tồn thiên nhiên Việt nam.


Tuy có tiềm năng to lớn, nhưng du lịch sinh thái trong phạm vi cả nước nói chung và trong các khu bảo tồn nói riêng còn đang trong giai đoạn đầu
của sự phát triển. Các hoạt động đa số mang tính tự phát, chưa có sản phẩm và đối tượng phục vụ rõ ràng, chưa có sự đầu tư quảng bá, nghiên cứu thị
trường và công nghệ phuc vụ cho du lịch sinh thái, chưa có sự quan tâm, quản lý chặt chẽ của các cấp các ngành do vậy mà thực tế là sự đa dạng sinh học
đang bị de doạ.
Theo ước tính ở Việt nam có hơn 12000 lồi cây, 275 lồi động vật có vú, 800 lồi chim, 180 lồi bò sát, 80 loài động vật lưỡng cư, 2470 loài cá và
hơn 5500 lồi cơn trùng, với ước tính hơn 10 đang mắc các bệnh đặc trưng ở các lồi động vật có vú, chim và cá. Điều đáng buồn là hơn 28 thuộc động
vật có vú, 10 lồi chim và 21 lồi động vật lưỡng cư và lồi bò sát được liệt kê là đang ở tình trạng hết sức nguy hiểm. Một nguyên nhân to lớn là môi
trường sống bị mất đi do nạn phá rừng.
Các dấu hiệu của việc khai thác các sản phẩm của rừng ngày một nhiều và khơng phải là khơng khó nhận ra ở Việt nam. Một ví dụ cho thấy việc bn
bán thịt thú rừng phát triển mạnh. Con chim, bán được 550.000 đkg, lợn rừng 40.000 đkg . Ở Đắc lắc, có một quán ăn đặc biệt với món thịt hổ. Những thú
24
Anh
vật nhồi bơng cũng có sẵn để bán ở các cửa hàng ở Hà nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Một con hổ nhồi bông giá khoảng 15 triệu đồng, một con gấu trúc
khoảng 10 triệu đồng, gấu mặt trời 8,5 triệu …Với những giá đó những người dân nghèo sẵn sàng tham dự cuộc buôn bán mà không cần biết hậu quả sẽ ra
sao.
Trên đây là thực trạng đáng buồn của sinh thái Việt nam, vậy còn về lĩnh vực văn hố thì sao ?
Tất cả mọi người ai cũng biết rằng giữa văn hố và du lịch ln có mối quan hệ biện chứng và trực tiếp . Mối quan hệ này càng thể hiện rõ hơn trong
sự liên hệ bảo vệ và phát huy các di sản văn hoá và thiên nhiên – một bộ phận quan yếu của tài sản văn hoá và đồng thời là bộ phận quan yếu nhất trong tài
nguyên du lịch.
Sự phát triển của du lịch tác động trực tiếp và dán tiếp đến việc trấn hưng và bảo tồn các di sản văn hoá. Doanh thu từ hoạt động du lịch được sử
dụng cho việc tu bổ di tích, chỉnh lý các bảo tàng, đồng thời khôi phục và phát huy các di sản văn hoá phi vật thể, đặc biệt là các ngành thủ công mỹ nghệ, ca
múa nhạc truyền thống phục vụ du lịch .
Một trong những ví dụ cụ thể là sự phát triển du lịch tại Huế trong những năm gần đây đã và đang làm sống lại những nghành nghề đã một thời
bị lãng quên như may, thêu, đúc đồng, chạm khắc và đặc biệt là nghệ thuật ca Huế truyền thống, ca múa cung đình…
Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực khơng thể phủ nhận của du lịch đối với đời sống kinh tế văn hoá, những hoạt động du lịch cũng đem lại những tác
động tiêu cực đến công cuộc bảo tồn các di sản văn hố nói riêng và nếp sống văn hố nói chung .
Cụ thể như: - Đối với các di sản vật thể, đặc biệt là các di sản có giá trị tồn cầu nổi
bật thì sự bùng nổ số lượng khách thăm quan đã và đang trở thành mối nguy cơ đe doạ việc bảo vệ các di sản này. Sự có mặt q đơng du khách trong một
thời điểm ở một di sản đã tạo nên những tác động cơ học, hoá học đã cùng với
25
Anh
các yếu tố khí hệu nhiệt đới gây nên những sự huỷ hoại đối với các di sản và các động sản phụ thuộc như các vật dụng trang trí, vật dụng thờ tự …
- Sự phát triển các dịch vụ du lịch thiếu sự kiểm soát và sự bùng nổ số lượng du khách còn tác động mạnh mẽ đến cảnh quan văn hố và mơi trường
sinh thái tại các khu du lịch như: khắc tên lên các vách đá, các bộ phận di tích, xả rác bừa bãi…
- Du lịch tạo nên sự tiếp xúc giữa các bộ phận dân cư xuất thân từ các nền văn hố khác nhau, tín ngưỡng khác nhau. Do không được thông tin đầy
đủ và thiếu những quy định chặt chẽ, cụ thể nên nhiều du khách đã ăn mặc, xử tuỳ tiện ở những nơi dược coi là trang nghiêm – đặc biệt là những di tích
có ý nghĩa tơn giáo, tín ngưỡng của nhân dân sở tại, gây nên sự bất hoà thậm chí là sự xung đột về mặt tâm lý và tinh thần.
Trên đây là thực trạng chung của sinh thái và văn hố Việt nam trong thời kì đầu phát triển du lịch sinh thái. Vậy thực trạng du lịch sinh thái trong
các khu bảo tồn ra sao?
Trong số 11 vườn quốc gia thì Cúc Phương, Bạch Mã, Cát Tiên đã tổ chức hoạt động du lịch sinh thái khá hơn. Cụ thể 3 vườn này đã xây dựng
được một số tuyến du lịch sinh thái, một số tuyến đường mòn thiên nhiên, một số hướng dẫn viên là kiểm lâm được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về du
lịch sinh thái. Các vườn còn lại cũng tổ chức hoạt động thăm quan du lịch nhưng chưa có bài bản và định hướng rõ ràng .
Căn cứ vào các tiêu chí của du lịch sinh thái ta có thể nhận thấy rằng: - Mặc dù đã có những tuyến du lịch mang tính chất du lịch sinh thái
nhưng trên thực tế chỉ là du lịch thiên nhiên hay du lịch liên quan đến thiên nhiên.
- Hoạt động giáo dục, diễn giải môi trường – một yếu tố rất cơ bản để phân biệt du lịch sinh thái với các loại hình du lịch khác chưa được triển khai
nhiều vẫn chưa quan tâm đúng mức và thiếu cán bộ am hiểu về lĩnh vực mới mẻ này. Cụ thể là trên các tuyến thăm quan, đường mòn thiên nhiên còn thiếu
nhiều biển chỉ dẫn, chỉ báo. Một số vườn đã có một số tờ gấp và biển chỉ dẫn nhưng nội dung thông tin, thông tin quá nghèo nàn, sơ sài. Một số biển chỉ
26
Anh
dẫn làm bằng sắt tây, giấy ép plastic nên dễ bị thiên nhiên phá huỷ. Hầu hết các hướng dẫn viên mới chỉ làm nhiệm vụ dẫn đường mà họ chưa có đủ kiến
thức để thực hiện nhiệm vụ quan trọng, chủ yếu nhất của mình là giáo dục và diễn giải mơi trường.
- Lợi ích từ hoạt động du lịch còn ít, chưa hỗ trợ được nhiều cho công tác bảo tồn và phát triển cộng đồng địa phương . Nhân dân địa phương chưa
được thu hút nhiều vào hoạt dộng du lịch của vườn.

2.3.3 Nguyên nhân của thực trạng.


Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.docx) (51 trang)

×