1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Khoa học xã hội >

Phạm vi của đề tài Phương pháp nghiên cứu Kết cấu của đề tài Sơ lược lịch sử của chế định hợp đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (330.72 KB, 51 trang )


Chừng nào pháp luật nói chung và những quy định về hợp đồng dân sự nói riêng chưa trở thành công cụ cơ bản để điều chỉnh quan hệ xã hội thì chừng đó Việt
Nam vẫn còn đứng ngoài sự phát triển chung của thế giới. Các tranh chấp về hợp đồng dân sự cũng ngày một gia tăng và mức độ phức tạp ngày càng cao đòi
hỏi pháp luật về hợp đồng dân sự phải hoàn thiện hơn để giải quyết một cách triệt để. Khó khăn trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến hợp đồng
dân sự là do các bên khơng tn thủ các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Để giải quyết được các tranh chấp đó một câu hỏi đặt ra: “Liệu có tồn tại hợp đồng
hay khơng?” và “Hợp đồng có hiệu lực hay khơng?” để từ đó xác định các bên có quyền và nghĩa vụ gì. Vì vậy, những quy định về điều kiện có hiệu lực của
hợp đồng có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh những quan hệ giao lưu dân sự của nền kinh tế thị trường. Các quy định này khơng tồn tại độc lập mà có
sự liên hệ chặt chẽ với các quy định khác trong Bộ luật dân sự 2005. Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng góp phần nâng cao ý thức cuả các chủ thể tham
gia vào quan hệ hợp đồng, giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp phát sinh trong quá trình giao kết, thực hiện hợp đồng cũng như bảo vệ quyền lợi của các chủ
thể tham gia vào quan hệ hợp đồng và tạo nên sự bình đẳng trong giao lưu dân sự. Vì những lí do trên mà em đã lựa chọn đề tài:
“Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự” nhằm góp phần làm sáng tỏ những quy định của Bộ luật dân sự 2005 về những điều kiện có hiệu lực
của hợp đồng và đưa ra một số phân tích, bình luận về vấn đề này.

2. Phạm vi của đề tài


Đề tài tập trung đưa ra những khái niệm chung và những vấn đề lí luận liên quan đến điều kiện có hiệu lực của hợp đồng theo khoa học pháp lí, pháp
luật của Việt Nam và một số nước. Bên cạnh đó đề tài phân tích những quy định của pháp luật dân sự Việt Nam, Bộ luật dân sự 2005 về điều kiện có hiệu lực của
hợp đồng và mối quan hệ giữa chúng với tổng thể nội dung của Bộ luật dân sự.

3. Phương pháp nghiên cứu


Đề tài lấy quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử làm cơ sở và phương pháp luận để nghiên cứu đề tài. Ngoài ra, phương
2
pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, phương pháp phân tích quy phạm được sử dụng nhằm giải quyết vấn đề một cách hợp lí và rõ ràng nhất.

4. Kết cấu của đề tài


Khố luận gồm có: phần mở đầu, ba chương với nội dung như sau: Chương I. Khái quát chung về hợp đồng
Chương II. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng
3
CHƯƠNG I KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG

1. Khái niệm hợp đồng và đặc điểm của hợp đồng


Thật khó có thể biết chính xác thuật ngữ” “hợp đồng” xuất hiện từ khi nào. Chỉ biết rằng thuật ngữ “hợp đồng”contractus phát sinh từ động từ
“ contrahere” trong tiếng Latinh có nghĩa là “ràng buộc” và xuất hiện đầu tiên ở La Mã vào thế kỉ V-IV trước Công nguyên. Sau khi đế quốc La Mã tan rã
khoảng thế kỉ V-VI sau Công nguyên, các nước Châu Âu chấp nhận nhận dùng thuật ngữ “hợp đồng” khởi nguồn từ luật La Mã.
Ở Việt Nam, thuật ngữ “khế ước” chỉ mới xuất hiện khi các bộ dân luật Nam Kì, Bắc Kì, Trung Kì lần luợt được ban hành. Khái niệm hợp đồng cũng có
một quá trình phát triển theo thời gian. Bắt đầu từ khái niệm khế ước được quy định tại Điều 644 đoạn 2 Bộ dân luật Bắc kì 1931: “khế ước là hợp ước của
một người hay nhiều người cam đoan với một hay nhiều người khác để chuyển hữu, tác động hay bất tác động”. Như vậy, Bộ dân luật Bắc Kì nhìn nhận hợp
đồng là một hợp ước giữa cá nhân với cá nhân hoặc giữa một nhóm người với nhau nhằm mục đích chuyển giao quyền sở hữu, thực hiện một công việc hay
không được thực hiện một công việc nào đó. Cho đến khái niệm pháp lí tổng quát về khế ước quy định ở Điều 680 Bộ dân luật Trung Kì 1936: “khế ước là
hiệp ước của một người hay nhiều người cam đoan với một hay nhiều người khác để cam đoan với một hay nhiều người khác để chuyển giao, để làm hay
không làm cái gì” thì khái niệm về hợp đồng cũng chỉ là sự thay thế về ngôn từ sử dụng sao cho mang tính chất thuần việt hơn. Tiếp đến là khái niệm “hợp đồng
kinh tế là sự thoả thuận bằng văn bản, tài liệu giao dịch giữa các bên kinh tế về việc thực hiện công việc sản xuất, trao đổi hàng hoá, dịch vụ, nghiên cứu, ứng
dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật và các thoả thuận khác có mục đích kinh doanh với sự quy định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của mỗi bên để xây dựng và thực
hiện kế hoạch” Pháp lệnh hợp đồng kinh tế 1989 thì khái niệm hợp đồng được xem xét dưới góc độ là hợp đồng kinh tế. Theo đó, hợp đồng là sự thoả thuận
4
nhưng phải được thể hiện dưới hình thức nhất định bằng văn bản hay tài liệu giao dịch. Nội dung thoả thuận của hợp đồng về các lĩnh vực đã được liệt kê một
cách cụ thể trong điều luật và mục đích của hợp đồng là mục đích kinh doanh. Sau đó là sự thay đổi bằng khái niệm “Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa
các bên về việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên trong mua, bán, thuê, vay mượn, tặng cho tài sản, làm hay không làm một việc, dịch
vụ hoặc các thoả thuận khác mà trong đó một hoặc các bên nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng” Điều 1- Pháp lệnh hợp đồng dân sự 1991. Đây là một
khái niệm về hợp đồng rộng hơn so với khái niệm về hợp đồng kinh tế được quy định trong Pháp lệnh hợp đồng kinh tế 1989. Hợp đồng dân sự theo đó được
hiểu là sự thoả thuận giữa các bên và từ sự thoả thuận đó sẽ làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quyền, nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán, hợp
đồng thuê tài sản, hợp đồng vay mượn tài sản, hợp đồng tặng cho,… đã được điều luật liệt kê. Mục đích của hợp đồng nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu
dùng. Tiếp đến khái niệm hợp đồng một lần nữa khẳng định lại tại Điều 394- Bộ luật dân sự 1995 và Điều 388- Bộ luật dân sự 2005: “hợp đồng là sự thoả thuận
giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Khái niệm hợp đồng được đưa ra một cách khái quát hơn theo đó hợp đồng
chính là sự thoả thuận giữa các bên, từ sự thoả thuận ấy làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt các quyền, nghĩa vụ dân sự và đối tượng của hợp đồng là việc
thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự. Để hiểu rõ hơn về khái niệm hợp đồng chúng ta sẽ lần lượt xem xét các đặc điểm của hợp đồng đó là:

1.1. Hợp đồng là hành vi pháp lí song phương


Điều 121- Bộ luật dân sự 2005 quy định: “Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lí đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền,
nghĩa vụ dân sự”. Hợp đồng là một loại giao dịch dân sự phổ biến nhất trong đời sống hàng ngày. Theo Điều 388- Bộ luật dân sự 2005 cũng quy định: “hợp đồng
là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Hợp đồng là sự thoả thuận giữa các bên – như vậy, hợp đồng
là hành vi pháp lí song phương. Hành vi pháp lí này đòi hỏi sự thể hiện và thống 5
nhất ý chí của hai hay nhiều bên làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.
Hành vi pháp lí này cũng khác so với hành vi pháp lí đơn phương – giao dịch trong đó thể hiện ý chí của một bên làm phát sinh hệ quả pháp lí. Hành vi
pháp lí đơn phương chỉ được xác lập theo ý chí của một chủ thể duy nhất như hành vi lập di chúc hay hành vi từ chối hưởng di chúc… Tính chất của hợp đồng
là sự thống nhất ý chí giữa hai hay nhiều người. Mục đích của hợp đồng chính là việc mỗi bên theo đuổi những lợi ích riêng của mình và hợp đồng là kết quả của
sự dung hồ các lợi ích đối lập nhau. Thơng thường hợp đồng có hai bên tham gia trong đó thể hiện sự thống
nhất ý chí của các chủ thể trong một quan hệ cụ thể mua, bán, cho thuê…, nhưng bên cạnh đó cũng tồn tại hợp đồng có nhiều bên tham gia và mỗi bên
trong hợp đồng có thể có một hoặc nhiều chủ thể tham gia. Trong hợp đồng ý chí của mỗi bên đòi hỏi phải có sự thống nhất ý chí để hình thành nên hợp đồng.
Hành vi pháp lí là hành vi có mục đích của các chủ thể nhằm phát sinh hệ quả pháp lí. Đó là phương tiện để thực hiện ý chí của các chủ thể tạo ra các quan hệ
xã hội nói chung và các quan hệ pháp luật dân sự nói riêng. Hành vi pháp lí chính là những sự kiện xuất hiện theo ý chí của con người và sự hiện diện của
chúng đưa đến những hệ quả pháp lí nhất định mà pháp luật đã quy định. Nhưng để một hành vi pháp lí làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt một
quan hệ pháp luật dân sự thì hành vi đó phải là hành vi mà chủ thể thực hiện phải phản ánh đúng ý chí của chủ thể đó. Sự phản ánh đúng ý chí của chủ thể
được biểu hiện trên hai mặt là chủ quan và khách quan. Mặt chủ quan của sự thể hiện ý chí biểu hiện khả năng của chủ thể tự xác định cho mình mục đích hành
động và định hướng cho hành động đạt được mục đích đã xác định trước. Để được như vậy ý chí đó phải có tính độc lập, phản ánh thái độ tự nguyện, tự giác
của chủ thể và ý chí đó được biểu hiện ra bên ngồi dưới một hình thức nhất định. Mặt khách quan của sự thể hiện ý chí là ý chí đó phải được thể hiện ra bên
ngồi cho mọi người biết dưới một hành vi nhất định. Chủ thể tham gia vào hợp đồng phải có sự thống nhất ý chí và thể hiện ý chí đó ra bên ngồi. Hợp đồng
6
được tạo lập là do sự hợp tác của hai hay nhiều bên, giữa các bên đã có sự thoả thuận, sự thoả thuận này đủ để tạo lập nên hợp đồng. Nguyên tắc thoả thuận ý
chí là một tiến bộ quan trọng của kĩ thuật pháp lí hiện đại vì nguyên tắc ấy đã nới rộng phạm vi của hợp đồng. Sự thoả thuận đó khơng cần phải theo một cơng
thức nào cả do đó người ta có thể lập hợp đồng bằng cách trao đổi thư tay, thư điện tử hay qua điện thoại. Ý chí của các chủ thể sẽ không làm phát sinh bất cứ
một hệ quả pháp lí nào nếu nó khơng được biểu hiện ra bên ngoài cho mọi người biết dưới một hình thức nhất định.
Ngun tắc này được mặc nhiên cơng nhận tại Điều 401- Bộ luật dân sự 2005 theo đó hợp đồng có thể giao kết bằng lời nói, văn bản hoặc bằng hành vi
cụ thể… khi đó mới làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt một hợp đồng dân sự. Nhưng sự thoả thuận ý chí về cùng một đối tượng chưa đủ tạo lập nên hợp đồng
mà hành vi thể hiện ý chí đó phải đáp ứng các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Hợp đồng là một loại giao dịch dân sự nên hợp đồng cũng chỉ có giá trị
pháp lí khi thoả mãn các điều kiện có hiệu lực của giao dich dân sự theo Điều 122- Bộ luật dân sự 2005 đó là:
Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự; Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp
luật, không trái đạo đức xã hội; Nguời tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện;
Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định.
Các điều kiện này sẽ đảm bảo cho các giao dịch được xác lập hợp pháp, được bảo đảm thực hiện bằng pháp luật, là công cụ quan trọng thoả mãn nhu cầu
trao đổi, giao lưu dân sự của các chủ thể.

1.2. Hợp đồng- nguồn chủ yếu làm phát sinh nghĩa vụ


Các quốc gia trên thế giới có những định nghĩa khác nhau về hợp đồng như Điều 1101 Bộ luật dân sự Pháp 1804 quy định: “hợp đồng là sự thoả thuận
giữa hai hay nhiều bên về việc chuyển giao vật, làm hay không làm một việc việc”. Hợp đồng là sự thoả thuận mà sự thoả thuận này là về việc chuyển giao
7
vật, làm hay khơng làm một việc. Đó cũng chính là đối tượng của nghĩa vụ dân sự được quy định ở Điều 282- Bộ luật dân sự 2005. Như vậy, theo Bộ luật dân
sự Pháp ta hiểu hợp đồng là sự thoả thuận giữa các bên về các đối tượng của nghĩa vụ dân sự. Hay như Điều 420- Bộ luật dân sự Nga 1994 quy định: “ hợp
đồng là sự thoả thuận giữa hai hay nhiều bên vê việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự” thì khái niệm về hợp đồng được đưa ra hoàn toàn giống
Bộ luật dân sự của Việt Nam. Còn trong Điều 1-201 Bộ luật thương mại chuẩn thống nhất Hoa Kì hợp đồng lại được định nghĩa là “khối nghĩa vụ pháp lí phát
sinh từ sự thoả thuận giữa các bên theo quy định của luật này và những luật có liên quan” thì hợp đồng được nhìn nhận là một khối nghĩa vụ pháp lí đạt được
dựa trên sự thoả thuận nhưng phải căn cứ trên những quy định của pháp luật quốc gia.
Như vậy có thể khẳng định được rằng, dù nhìn nhận hợp đồng với các góc độ khác nhau nhưng nhìn chung hợp đồng chính là căn cứ chủ yếu làm phát
sinh nghĩa vụ. Theo Điều 13-khoản 1 Bộ luật dân sự 2005, giao dịch dân sự là một trong những căn cứ xác lập quyền và nghĩa vụ dân sự. Cũng theo Điều 281-
khoản 1 Bộ luật dân sự 2005 căn cứ phát sinh nghĩa vụ dân sự là hợp đồng dân sự. Hợp đồng là kết quả của sự thống nhất ý chí tự nguyện, trở thành nguồn chủ
yếu làm phát sinh nghĩa vụ. Nghĩa vụ dân sự theo định nghĩa tại Điều 280- Bộ luật dân sự 2005 “là việc mà theo đó một hoặc nhiều chủ thể sau đây gọi chung
là bên có nghĩa vụ phải chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện cơng việc hoặc khơng thực hiện cơng việc nhất định vì lợi ích của một hoặc
nhiều chủ thể khác sau đây gọi chung là bên có quyền. Theo như cách định nghiã trên nghĩa vụ được hiểu là mối quan hệ về mặt pháp lí. Như vậy có lẽ
chưa được chính xác và cách định nghiã này cũng khác so với cách định nghĩa ở các bộ dân luật ở Việt Nam trước đó như Điều 644-Bộ dân luật Bắc Kì
1931“nghĩa vụ là mối liên lạc về luật thực tại hay luật thiên nhiên, bó buộc một hay nhiều người phải làm hay đừng làm sự gì đối với một hay nhiều người đó.
Người bị bó buộc vào nghĩa vụ gọi là người mắc nợ, người được hưởng nghĩa vụ gọi là chủ nợ”. Có thể thấy rằng tuy có khác nhau về ngôn từ nhưng nghĩa vụ
8
trong các quy định nói trên đều được hiểu thống nhất là một quan hệ pháp luật khi xem xét nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng.
Như vậy, hợp đồng là một loại giao dịch dân sự, là hành vi pháp lí song phương, là căn cứ phát sinh nghĩa vụ. Nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng trở thành
hình thức pháp lí chủ yếu mà nhờ đó các quan hệ dân sự phong phú, đa dạng của nền kinh tế được xác lập, củng cố.

2. Sơ lược lịch sử của chế định hợp đồng


Hợp đồng được coi là một trong những chế định pháp lí cổ xưa nhất, trước nó có lẽ là chế định nghĩa vụ ngoài hợp đồng. Đối với giới luật gia, hợp
đồng là một trong những khái niệm trung tâm của Luật dân sự, một trong những đối tượng điều chỉnh của khoa học pháp lí. Ở những nước Châu Âu bộ mơn lí
thuyết về hợp đồng đã có bề dày lịch sử hàng ngàn năm nhưng ở Việt Nam cho đến những năm cuối của thế kỉ XIX và những năm đầu của thế kỉ XX thuật ngữ
“ khế ước” hay “ hợp đồng” mới bắt đầu được ghi nhận trong các văn bản chính thức của nhà nước. Trước tiên phải kể đến Bộ dân luật giản yếu Nam Kì 1883,
Bộ dân luật Bắc Kì 1931 và Bộ dân luật Trung Kì 1936. Vậy Hợp đồng trong Bộ luật dân sự được hình thành từ đâu? Chúng ta hãy xem xét sự hình thành và
phát triển của hợp đồng trên thế giới và tại Việt Nam. Trong lịch sử văn minh thế giới, sự hình thành chế định hợp đồng gần như
xuất hiện cùng các nhu cầu giao lưu mang tính tài sản trong xã hội. Trước hết và quan trọng nhất là nhu cầu giao lưu giữa mọi người với nhau nhằm hướng tới
một kết quả vật chất nhất định phù hợp với lợi ích của tất cả các bên. Theo thời gian do sự phát triển mạnh mẽ và đa dạng của các hình thức giao lưu đó, một
nhu cầu mới nảy sinh đó là nhu cầu cần thiết phải có các mơ hình xử sự chung do nhà nước quy định để các bên tuỳ ý lựa chọn hoặc có thể do chính các bên tự
mình thiết lập. Các mơ hình xử sự đó được pháp luật định danh với tên gọi “khế ước” hay “ hợp đồng”.
Ở Châu Âu, sự khởi đầu của chế định hợp đồng gắn liền với Luật La Mã cổ đại. Ngay từ thế kỉ V-IV trước công nguyên người La Mã đã biết đến và xây
dựng hệ thống những thuật ngữ, những khái niệm, những phạm trù pháp lí có 9
giá trị phổ biến tồn nhân loại về các vấn đề cơ bản nhất của chế định hợp đồng như: hợp đồng contractus và mục đích, căn cứ hợp đồng causa, hợp đồng
miệng và hợp đồng viết, hợp đồng thực tế và hợp đồng ưng thuận res và consensus, ý chí và thể hiện ý chí id quod actum est và id quod dictum est…..
Nó đã thật sự là khn mẫu để điều chỉnh tồn diện những quan hệ hợp đồng theo quan điểm hiện nay và nhờ vào những giá trị phổ biến mang tính thời
đại ấy mà chế định hợp đồng khởi nguồn từ Luật La Mã đã được du nhập một cách tự giác vào Tây Âu cùng với phong trào Phục Hưng diễn ra vào thế kỉ XII-
XIII và sau đó phát triển mạnh mẽ tại lãnh thổ nhiều nước như: Pháp, Đức, Hà Lan. Đến thế kỉ XVIII, XIX và XX, với sự toả sáng của ngành khoa học pháp lí
có hàng ngàn năm bề dày lịch sử và do tác động của sự phát triển các quan hệ kinh tế- xã hội, chế định hợp đồng đã lần lượt được các nước Châu Âu pháp
điển hoá khi xây dựng những Bộ luật dân sự đầu tiên của mình. Từ đó vị trí, vai trò của chế định hợp đồng trong hệ thống pháp luật dân sự ngày càng được
khẳng định và khi bàn đến xu hướng phát triển của luật dân sự một nhà triết học và xã hội học nổi tiếng người Pháp đã dự đoán rằng: “ hợp đồng chiếm 910
dung luợng các bộ luật dân sự hiện hành và đến một lúc nào đó tất cả các điều khoản của bộ luật, từ điều khoản thứ nhất đến điều khoản cuối cùng đều quy
định về hợp đồng”
1
Khác với những gì diễn ra ở Châu Âu, sự hình thành và phát triển của pháp luật hợp đồng ở Việt Nam cho đến thế kỉ XIX chưa thực sự tồn tại theo
đúng nghĩa khoa học của thuật ngữ này. Chúng ta hãy cùng xem xét lịch sử pháp luật hợp đồng tại Việt Nam để thấy được sự khác biệt đó.
Trong suốt q trình lịch sử của mình, xã hội phong kiến Việt Nam trên nhiều phương diện được xây dựng rập khn theo mơ hình của xã hội phong
kiến Trung Quốc. Các triều đại phong kiến Việt Nam luôn dựa vào Nho giáo như một hệ tư tưởng chính thống để xây dựng và quản lí xã hội. Ý muốn đặt
mình vào hệ thống và đạo lí Nho giáo được biểu hiện rõ nét trong những cố gắng của các triều đại phong kiến nhằm duy trì một xã hội ổn định với 4 tầng
1
M.I. Bragins kij i, V.V. Vitrijanskiji, luật hợp đồng, Nxb Statut, Mátxcơva, 1998,Tr.6
10
lớp tứ dân từ cao đến thấp: sĩ, nông, công, thương. Các hoạt động kinh tế ln bị kìm hãm bởi chính sách “ức thương” chủ yếu mang tính tự cung, tự cấp.Tình
trạng đó tồn tại trong suốt một thời kì dài cho đến những năm cuối của triều đình nhà Nguyễn - triều đại phong kiến cuối cùng ở Việt Nam. Chính vì lẽ đó
mà quan hệ hợp đồng ở thời kì đầu của xã hội phong kiến khơng có cơ hội phát triển, một sự cách tân hay cải cách thực sự.Về phía người dân là thái độ thờ ơ
với pháp luật, không coi trọng pháp luật. Khác với những nước phương Tây và những nước ở Châu Á khác pháp
luật thành văn ở Việt Nam xa lạ với nhận thức của người dân và chủ yếu là luật hành chính, luật hình sự, phần luật tư thành văn tuy có nhưng chỉ đóng vai trò
khơng đáng kể. Ngay cả đến bộ luật nổi tiếng dưới thời vua Lê Thánh Tơng là Quốc Triều
Hình Luật các quan hệ liên quan đến sinh hoạt, đến cuộc sống hàng ngày của người dân đều được bảo vệ bằng các chế định nặng nề vẫn được gọi là Ngũ
Hình. Mặt khác đơng đảo dân cư chỉ sống theo phong tục, tập quán của mình với tư tưởng” phép vua thua lệ làng”. Chính thái độ thiếu quan tâm đến pháp luật
cùng với sự hạn chế về điều kiện kinh tế- chính trị- xã hội lúc bấy giờ đã giúp ta lí giải được tại sao chúng ta khơng tìm thấy thuật ngữ “hợp đồng” hay một thuật
ngữ nào tương đương trong bất kì một văn bản chính thức nào của nhà nước phong kiến.
Ngay trong các bộ cổ luật được đánh giá như là đỉnh cao của thành tựu lập pháp phong kiến như Bộ luật Hồng Đức, Bộ Luật Gia Long, khái niệm hợp
đồng hay khế ước với tư cách là một thuật ngữ pháp lí độc lập và hồn chỉnh hầu như khơng được biết đến. Chế định hợp đồng chỉ được biểu hiện khơng thật
rõ nét qua các tình huống mua bán cụ thể như: việc mua bán, thuê mướn, vay nợ, cầm cố, bảo lãnh…. khơng có tính khái qt cao và không thể áp dụng
chung cho mọi trường hợp. Các bộ cổ luật lúc đó còn chứa đựng nhiều các quy định mang tính chất bất bình đẳng trong giao lưu dân sự, các chế tài vi phạm khế
ước còn mang nặng tính chất pháp luật hình sự, khơng phù hợp với bản chất của quan hệ dân sự.
11
Tình hình trên đã có sự thay đổi khi người Pháp đặt chân vào Việt Nam vào cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Dưới sự bảo hộ của thực dân Pháp cùng với
chính sách khai thác thuộc địa đã làm cho cơ cấu xã hội ở Việt Nam biến đổi mạnh mẽ trong đó hệ thống pháp luật dân sự là một trong những lĩnh vực có sự
thay đổi mạnh mẽ và toàn diện nhất. Dựa trên thành quả của hệ thống luật tư La Mã, người Pháp đã ban hành ra Bộ luật nổi tiếng là Bộ luật dân sự Pháp năm
1804 và sau khi đặt ách thống trị của mình tại Việt nam người Pháp đã áp dụng ngay thành quả của mình vào thực tế Việt Nam rồi từ đó cho ra đời ba bộ luật
riêng biệt áp dụng cho ba xứ với ba chế độ cai trị khác nhau là Bộ luật giản yếu Nam Kì áp dụng cho Nam Kì năm 1883, Bộ dân luật Bắc Kì 1931 áp dụng cho
Bắc Kì và Bộ dân luật Trung Kì năm 1936 áp dụng cho Trung Kì. Đặc biệt bộ dân luật Trung Kì 1936 với 1709 điều lần đầu tiên trong lịch sử pháp luật Việt
Nam đã có những vấn đề cơ bản nhất về chế định hợp đồng được hình thành tương đối hồn chỉnh và có hệ thống từ khái niệm pháp lí tổng quát về khế ước
cho đến những quy định cụ thể về giao kết khế ước, thực hiện khế ước và một số khế ước thông dụng.
Ngay sau khi nước VN dân chủ cộng hòa được thành lập, chủ tịch Hồ Chí Minh đã kí sắc lệnh 90SL cho phép tạm sử dụng một số luật lệ hiện hành ở Bắc,
Trung, Nam cho đến khi ban hành bộ luật duy nhất cho tồn quốc. Với tinh thần đó, các bộ luật dân sự Nam kì giản yếu 1883, bộ luật dân sự Bắc kì 1931 và bộ
luật Trung kì năm 1936 tiếp tục được thi hành. Chính vì thế mà ba bộ luật này vẫn được áp dụng tại Việt Nam kể cả sau Cách Mạng tháng Tám 1945 với
việc thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà và cho tới năm 1972 ở miền Nam dưới chính thể Việt Nam cộng hoà mới bị bãi bỏ. Đến năm 1986 với cơng
cuộc đổi mới tồn diện đất nước đòi hỏi phải xây dựng khung pháp luật điều chỉnh nền kinh tế thị trường có điều tiết nên ngay từ những năm đầu của thời kì
đổi mới một loạt những văn bản điều chỉnh quan hệ hợp đồng kinh tế và quan hệ hợp đồng đã được ban hành trong đó quan trong nhất là: Pháp lệnh Hợp đồng
kinh tế 1986; Pháp lệnh Hợp đồng dân sự 1991. Đây chính là những bước đầu tiên về mặt lập pháp khẳng định vai trò quan trọng của chế định hợp đồng
12
trong đời sống xã hội cũng như quyết tâm của đất nước ta trên con đường đổi mới toàn diện.
Đến năm 1995 Bộ luật dân sự lần đầu tiên được Quốc hội khố IX, kì họp thứ 8 thơng qua ngày 28101995 có hiệu lực thi hành ngày 01071996 về
cơ bản chúng ta đã có chế định về hợp đồng theo đúng như tên gọi của nó. Tuy nhiên trong qúa trình thực thi cũng đã bộc lộ những hạn chế và chỉ đến khi Bộ
luật dân sự 2005 ra đời đã khẳng định rõ hơn đây là bộ luật chung điều chỉnh các quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản giữa các chủ thể bình đẳng về địa vị pháp
lí và chế định hợp đồng trong Bộ luật dân sự mới thực sự có chỗ đứng thoả đáng trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Bộ luật dân sự 2005 đặt ra một dấu ấn trong
lịch sử trên con đường pháp điển hoá pháp luật về hợp đồng.
13
CHƯƠNG II ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG
Hợp đồng như đã phân tích ở trên là một loại giao dịch dân sự nên chịu sự điều chỉnh của quy định chung về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự.
Mặt khác hợp đồng là hành vi pháp lí song phương nên đòi hỏi sự thể hiện thống nhất ý chí của các bên để có thể làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quyền,
nghĩa vụ dân sự. Do vậy, để có thể làm phát sinh một hậu quả pháp lí nhất định khơng chỉ đòi hỏi phải có sự thể hiện ý chí và sự thống nhất ý chí của các bên
tham gia hợp đồng mà còn đòi hỏi sự thống nhất của các bên. Ngồi ra, sự thống nhất ý chí của các bên còn phải đáp ứng các điều kiện của pháp luật mới có thể
phát sinh hiệu lực. Đó là các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự. Bộ luật dân sự Việt Nam quy định điều kiện để hợp đồng có hiệu lực bao gồm:
- Người tham gia hợp đồng có năng lực hành vi dân sự; - Mục đích và nội dung của hợp đồng khơng vi phạm điều cấm của pháp
luật, không trái đạo đức xã hội; - Người tham gia hợp đồng hoàn toàn tự nguyện;
- Hình thức của hợp đồng là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong trường hợp pháp luật có quy định.
Như vậy, theo Bộ luật dân sự Việt Nam điều kiện có hiệu lực của hợp đồng bao gồm các điều kiện về chủ thể tham gia hợp đồng; mục đích, nội dung
của hợp đồng; điều kiện về sự tự nguyện và điều kiện về hình thức của hợp đồng. Nhưng Cộng hồ Pháp là điển hình của hệ thống pháp luật Châu âu lục
địa lại quy định “hợp đồng chỉ có hiệu lực khi thoả mãn 4 điều kiện sau đây: - Các bên giao kết hồn tồn tự nguyện;
- Các bên giao kết có năng lực giao kết hợp đồng; - Đối tượng của hợp đồng phải xác định;
- Căn cứ của hợp đồng phải hợp pháp”
2
2
Điều 1108- Bộ luật dân sự Pháp 1804
14
Thì điều kiện có hiệu lực của hợp đồng lại bao gồm điều kiện về sự tự nguyện; chủ thể tham gia hợp đồng; đối tượng của hợp đồng và căn cứ của hợp
đồng. Như vậy, có sự khác biệt về điều kiện để hợp đồng có hiệu lực của Việt
Nam và Pháp. Chúng ta sẽ lần luợt phân tích từng điều kiện này theo quy định của Bộ luật dân sự Việt Nam.

1. Điều kiện về chủ thể tham gia hợp đồng


Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

×