1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Khoa học xã hội >

Phép nối

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.71 MB, 264 trang )


1.2.2.4. Ý nghĩa


Chính liên kết gồm cả liên kết hình thức và liên kết nội dung là tiêu chí phân biệt văn bản với những sản phẩm phi văn bản - những chuỗi phát
ngôn hỗn độn, rời rạc. Xét về nguồn gốc, thuật ngữ “văn bản” trong các ngôn ngữ Ấn Âu bắt nguồn từ chữ Latin “textum” – nghĩa là “sự liên kết”. Phép liên
kết chủ yếu xác lập mối quan hệ ý nghĩa giữa các yếu tố bên trong văn bản. Giống như những mối quan hệ ngữ nghĩa khác, liên kết thể hiện cấu
trúc tầng bậc của ngơn ngữ nói chung. Ngơn ngữ có thể được xem như công cụ chung để tạo nên ba cấp độ cơ bản của việc “lập mã” hay ba tầng bậc, đó
chính là ngữ nghĩa, từ vựng hình thức và ngữ âm bao gồm cả chính tả. Hình thức biểu hiện ngữ nghĩa và ngược lại, ngữ nghĩa có được là thơng qua
sự biểu đạt từ những hình thức ngơn ngữ mà từ vựng là trung tâm của những hình thức biểu hiện đó. Tóm lại, nghĩa được đặt vào từ và từ được cấu tạo từ
những âm thanh ngữ âm. Ngồi ra, liên kết còn tạo tính mạch lạc cho văn bản. Chính phép liên
kết tạo nên tính liên tục cho văn bản, mặc dù nó khơng phải là yếu tố duy nhất để tạo nên tính liên tục của một diễn ngôn. Tuy thế, liên kết không kém phần
quan trọng hơn những yếu tố khác trong một diễn ngôn. Ngược lại, liên kết bắt buộc phải hiện diện trong văn bản để văn bản được “hiện thực hóa” –
“come to life as text” và thực hiện đúng chức năng của nó. Như vậy, phép liên kết hay tính mạch lạc khơng là điều kiện đủ nhưng nó là điều kiện cần để cấu
thành văn bản.

1.3. Phép nối


1.3.1. Khái niệm


Phép nối là một phương thức liên kết nằm trong hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt. Diệp Quang Ban [6] đã định nghĩa phép nối như sau:
“Phép nối là việc sử dụng tại vị trí đầu câu hoặc trước vị ngữ trước động từ ở vị ngữ những từ có khả năng chỉ quan hệ để làm bộc lộ kiểu quan
hệ của hai câu có quan hệ với nhau, và bằng cách đó, liên kết hai câu này với nhau”.
Trong khi định nghĩa về phép nối lỏng và phép nối chặt, tác giả này cũng đã khẳng định: phép nối chính là việc sử dụng liên từ nối chặt hay những từ
ngữ chuyển tiếp nối lỏng để liên kết câu kết với câu chủ. Hệ thống phân loại phép liên kết của Nguyễn Đức Dân khơng có phép
nối nhưng ơng có đề cập đến mảng này thông qua mục “Phép liên kết nhờ những tín hiệu ngữ pháp” [21;200] và tác giả xếp loại này vào liên kết hình
thức.
David Nunan cũng đưa ra cách hiểu chung về phép nối: “nó phép nối là phương thức liên kết bởi vì nó báo hiệu các mối quan hệ, mà những mối quan
hệ này chỉ có thể được hiểu một cách khá đầy đủ qua tham khảo các phần khác của văn bản.” [64;46].
Còn Trần Ngọc Thêm lại đưa ra khái niệm phép nối thông qua khái niệm của phép tuyến tính: “Cơ sở cho việc liên kết hai phát ngôn là sự tồn tại của
các quan hệ trong đó có những quan hệ ngữ nghĩa giữa chúng. Ở phép tuyến tính, những mối quan hệ đó nằm ở dạng tiềm ẩn. Nếu những quan hệ đó được
thể hiện ra bằng phương tiện từ vựng thì thì ta có hiện tượng nối liên kết hay
các phép nối nói chung.” [76;169].
Và Trần Ngọc Thêm cũng đưa ra khái niệm phép nối bằng cách đưa ra mô hình hay cấu trúc của nó: “hiện tượng nối liên kết có dạng của một quan
hệ hai ngơi aRb, trong đó a,b là cặp phần tử được sắp thứ tự …. Ở đây, r
là phương tiện nối.” [76;169]. Và quan hệ hai ngôi ở đây là quan hệ ngữ nghĩa.
Đặc biệt, rất nhiều ý kiến cho rằng phép nối là phương thức liên kết hình thức. Nếu theo quan điểm này, chúng ta đã bỏ đi một tiểu loại quan trọng của
phép nối là phép nối khơng có liên từ. Theo chúng tơi, liên từ là phương tiện hình thức của phép nối còn mối quan hệ ý nghĩa thực sự giữa hai cú thì phải
là nội dung, logic ngữ nghĩa. Việc xếp phép nối vào phương thức liên kết hình thức chỉ là vấn đề mang tính chất tương đối và vì mục đích tiện lợi.
Như vậy, phép nối là sự nối kết quan hệ ý nghĩa hai hay nhiều cú, được đánh dấu bằng những phương tiện nối từ chỉ quan hệ, từ ngữ chuyển tiếp…
phép nối có liên từ hay thậm chí khơng có những yếu tố liên kết hình thức này phép nối khơng có liên từ. Ở đây, chúng tôi theo cách định nghĩa của
Trần Ngọc Thêm.

1.3.2. Phương tiện thể hiện


Để nối kết hai hay nhiều cú, các tác giả đưa ra những phương tiện sau - Liên từ từ nốiliên từ kết từ
- Phó từphụ từ - Các cấu trúc đặc biệt, quán ngữ
Nguyễn Văn Tu 1978 đã đề cập đến khái niệm quán ngữ trong quyển “Từ và vốn từ tiếng Việt hiện đại” như sau:
“Trong tiếng Việt, có một số cụm từ rất gần với cụm từ tự do nhưng tương đối ổn định về tổ chức, được quen dùng mà các từ tạo ra chúng còn giữ được tính chất đọc lập, có khi
một từ mà trong đó có thể thay thế bằng những từ khác.” [83;184] Như vậy quan hệ của những từ trong quán ngữ tương đối cố định – cả về quan hệ
ngữ pháp lẫn ngữ nghĩa, nên nó có thể xem như “một đơn vị có sẵn trong ngơn ngữ”.

1.3.2.1. Phân biệt: Liên từtừ nối kết từquan hệ từ


Cách dùng thuật ngữ định danh phương tiện thể hiện phép nối của các tác giả không thống nhất.
Nguyễn Hữu Quỳnh [70] đã đề cập đến khái niệm liên từ. Theo tác giả: “Liên từ là những từ chỉ các quan hệ ngữ pháp chuyên dùng đê nối các thành
phần trong câu hay các thành tố trong cụm từ còn gọi là từ nối, kết từ hoặc giới từ và liên từ.”[70;172]
Đinh Văn Đức [27] cũng đã đề cập đến khái niệm liên từ, và tác giả cũng có quan điểm tương tự như Nguyễn Hữu Quỳnh. Theo tác giả này, hư
từ, trong sự khác biệt với thực từ và tình thái từ, chia thành hai nhóm cơ bản: hư từ từ pháp và hư từ cú pháp. Trái với hư từ từ pháp - diễn đạt các ý nghĩa
ngữ pháp kèm theo thực từ, chuyên làm thành tố phụ trong các đoản ngữ, hư từ cú pháp dùng để diễn đạt mối quan hệ ra khỏi phạm vi một thực từ, tức
giữa các thực từ trong các phát ngôn. Tức là, biểu đạt mối quan hệ giữa các khái niệm trong tư duy, là cơng cụ biểu đạt các quan hệ logíc, các quan hệ
trong cách thức phản ánh hiện thực khách quan. Chúng chính là phương tiện liên kết “xúc tác” chữ dùng của Đinh Văn Đức thành tố phụ với trung tâm
đoản ngữ, các mệnh đề với nhau trong cấu trúc của phát ngôn. Và “Ngữ pháp truyền thống gọi các hư từ cú pháp là liên từ và giới từ.
Trong tiếng Việt còn có những thuật ngữ khác để gọi chúng, chẳng hạn là các từ nối hoặc liên từ.” [27;207].
Lê Biên [8] trong quyển “Từ loại tiếng Việt hiện đại” cũng đưa ra khái niệm liên từ: “Liên từ là những hư từ, khơng có nghĩa sở chỉ, sở biểu mà là
những từ có chức năng diễn đạt các mối quan hệ giữa các khái niệm trong tư duy.” [8;161].
Nguyễn Tài Cẩn [12] trong quyển “Ngữ pháp tiếng Việt”, ở trang 341 cũng khẳng định tương tự. Tác giả này cho rằng liên từ khơng có khả năng
làm thành tố trung tâm trong cấu trúc một ngữ mà chỉ có thể kết hợp với ngữ để dạng thức hoá một tổ hợp cú pháp, bổ sung cho cấu trúc ngữ “một đặc
điểm phân bố”. Trịnh Mạnh, Nguyễn Hữu Đàn [60] trong quyển “Giáo trình tiếng Việt,
tập 1” đã đưa ra khái niệm từ nối: “Tiếng Việt có những loại hư từ đứng giữa
hai từ, hai thành phần câu, hai vế câu hay hai câu dùng để biểu thị mối quan hệ ngữ pháp giữa hai bộ phận ấy, ta gọi chúng đó là từ nối”.
Từ nối có ba tiểu loại: giới từ, liên từ và trợ từ. Giới từ biểu thị quan hệ chính phụ, liên từ biểu thị quan hệ liên hợp song song hoặc quan hệ qua lại
với nhau…” [60;59]. Diệp Quang Ban trong quyển “Ngữ pháp tiếng Việt” [5] tập 1 đưa ra
khái niệm “kết từ”: “Về ý nghĩa khái quát, kết từ biểu thị ý nghĩa về quan hệ giữa các khái niệm và đối tượng được phản ánh. Kết từ là dấu hiệu biểu thị
các quan hệ cú pháp giữa các thực từ và hư từ một cách tường minh.” [5;132].
Ngồi ra, Diệp Quang Ban còn nêu lên những đặc điểm về khả năng kết hợp và chức năng cú pháp của kết từ: dùng để nối kết các từ, các cụm từ, các
câu và đoạn văn có quan hệ cú pháp. Căn cứ vào những khái niệm trên, ta thấy rằng đa số các tác giả gọi
thành phần nối kết giữa các từ, cụm câu, câu, đoạn văn là liên từ; một số tác giả thay bằng khái niệm kết từ hay từ nối.
Và Thái Kim Thành cũng đã khẳng định: từ nối, liên từ, kết từ đều được gọi là hư từ cú pháp: “Đó là nhóm hư từ dùng để diễn đạt các mối quan hệ
ngữ pháp giữa thực từ và hư từ trên trục ngữ đoạn, là phương tiện liên kết giữa các tiểu cú và các vị từ…Hư từ cú pháp không chỉ là công cụ, dấu hiệu
để thể hiện các quan hệ ngữ pháp mà còn góp phần biểu hiện ý nghĩa của câu, lời trong hoạt động giao tiếp…” [75;49].
Như vậy: kết từ= từ nối = liên từ = liên từ + giới từ.
Để tiện cho việc khảo sát, chúng tôi chọn một thuật ngữ thống nhất để gọi chung cho tất cả những phương tiện từ, ngữ có chức năng liên kết thể
hiện phép nối là liên từ. Cần chú ý rằng, liên từ có thể là gồm một từ Vd:
nếu, nhưng, mà… hay một ngữ - cụm từ như: bên cạnh những vấn đề vừa đề
cập, bởi vậy, …
Vì đề cập đến vấn đề liên kết, mà cụ thể là phép nối, do đó, chúng tơi chỉ chú ý chủ yếu đến những phương tiện có khả năng đảm nhận chức năng
liên kết giữa các cú. Ngược lại, chúng tôi sẽ không chú ý đến loại phương tiện thể hiện quan hệ chính phụ giữa các thành phần trong một cú phát ngôn.
Vd: Hộp thuốc này bằng nhôm. Tôi với anh hai người xa lạ.
Tự phương trời chẳng hẹn nhau quen “Đồng Chí” – Chính Hữu.
Hoặc cụm giới từ thường đảm nhiệm chức năng trạng ngữ thành phần phụ trong một cú phát ngôn.
Vd: Với tài năng của mình, anh nhanh chóng được u mến và tín nhiệm. +
Đặc điểm của liên từ nhìn chung các tác giả đều thống nhất: - Là hư từ: Khơng có ý nghĩa từ vựng - nghĩa thực, chỉ có ý nghĩa ngữ
pháp. - Không thể đảm nhiệm chức năng làm thành phần chính của câu.
- Liên từ chỉ là dấu hiệu hình thức để cụ thể hóa mối quan hệ ý nghĩa giữa hai cú. Nên liên từ phải được đặt trước cú mà nó thể hiện quan hệ ý
nghĩa:
+ Nó chết, người ta phải bỏ ngay ngót trăm đồng bạc tậu con khác về thay nó bởi vậy,
người ta cần chăm chút nó. - + Nó chết, người ta phải bỏ ngay ngót trăm đồng bạc tậu con khác về thay nó, người ta
cần chăm chút nó, bởi vậy. - + Nó chết, người ta phải bỏ ngay ngót trăm đồng bạc tậu con khác về thay nó. Bởi vậy,
người ta cần chăm chút nó. [NC,ĐV;271]
“Bởi vậy” = “nên” thể hiện kết quả nhưng liên từ “bởi” lại chỉ nguyên nhân, sẽ giải thích ở mục 2.3. Ngữ dụng. Do vậy, liên từ “bởi vậy” phải được
đặt trước cú chỉ kết quả “người ta cần chăm chút nó”.
1.3.2.2. Phân loại
- Căn cứ vào cấu tạo, ta có: + Liên từ đơn: chỉ gồm một tiếng, vd: và, tuy, nhưng..
+ Liên từ phức: gồm hai hay nhiều tiếng trở lên, vd: bởi thế bởi vậy, do vậy do thế do đó; những vấn đề đã đề cập, những khía cạnh vừa xét…
- Căn cứ vào tính chất cố định hay khơng, ta có: + Tổ hợp cố định: bởi vì, cho nên, thành thử, vì thế, do vậy…
+ Tổ hợp tương đối hay khơng cố định qn ngữ: bên cạnh vấn đề khía cạnh vừa đề cập đã nêu là, một trong những cách thứcphương
pháp…để tiến hànhkhắc phụcđiều chỉnh…là; một vấn đềkhía cạnh cần đề cập nữa là,…
- Căn cứ theo ý nghĩa ngữ pháp, chúng ta có 2 nhóm liên từ sau: + Liên từ chính phụ: thể hiện quan hệ chính phụ khi nối các cú: vì, bởi,
tuy,nhưng, mặc dù dầu, nếu, hễ… + Liên từ đẳng lập hay liên hợp: và, rồi, hay, hoặc, mà, nhưng…
- Căn cứ vào tính chất “đồng thời” xuất hiện của liên từ, ta có: + Liên từ xuất hiện độc lập, như: và, nhưng, hay, hoặc, mà…
+ Liên từ thường đi thành từng cặp, ví dụ: nếu…thì, tuy…nhưng, mặc dù..nhưng, càng…càng; nào…ấy, bao niêu…bấy nhiêu…
Trần Ngọc Thêm [76], khi đề cập đến thành phần chuyển tiếp, tác giả đã đề cập đến các yếu tố từ vựng làm thành phần chuyển tiếp:
+ Các từ: thoạt tiên, cuối cùng, đồng thời, bỗng nhiên, chẳng hạn, vả lại, thậm chí, song le, sự thật, đặc biệt…
+ Các kết hợp cố định hoá thường là song tiết – loại điển hình của phép nối lỏng - như: tiếp theo, thứ hai, ngoài ra, hơn nữa, mặt khác, trái lại, ngược
lại, tóm lại, nhìn chung

+ Các kết hợp có xu hướng cố định hoá  Động từ + trạng từ chỉ cách thức: nói cách khác, nói khác đi, nói
đúng ra, nói một cách tóm tắt, nói một cách chính xác hơn…dạng này có nguồn gốc từ sự rút gọn: nếu nói một cách tóm
tắt thì…Và hiện nay, nó có xu hướng lược bỏ động từ, thành: đúng ra, một cách tóm tắt, chính xác hơn…
 Từ nối + đại từ: trên đây, trước đây, sau đó, từ đó, do vậy từ nối là giới từ; vì vậy, bởi vậy, như thế, tuy thế…
 Đại từdanh từ + là: thế là, vậy là; nghĩa là, kết quả là…
Nhìn chung, liên từ chỉ là phương tiện hình thức thể hiện mối quan hệ ý nghĩa, sự liên kết giữa hai cú trong đoạn văn hay văn bản. Thế nhưng, rất
nhiều học sinh, sinh viên và ngay cả giáo viên phổ thơng đều dựa vào dấu hiệu hình thức này để nhận diện phép nối. Vấn đề này cần được xem xét kỹ
hơn.

1.3.3. Phân loại


Căn cứ vào những tiêu chí khác nhau, chúng ta có những loại phép nối khác nhau.
- Nối đẳng lậpchính phụ
Căn cứ vào mối quan hệ ngữ nghĩa giữa hai cú, phép nối được chia thành:
+ Nối đẳng lập: Hai cúphát ngơn có mối quan hệ bình đẳng, hay phép nối thực hiện sự liên kết giữa những cú phát ngôn - là những luận cứluận
chứng có mối quan hệ ngang nhau trong việc biểu đạt một ýchủ đề nò đó. Quan hệ không gian - thời gian, logic diễn đạt; hay quan hệ mở rộng gồm:
quan hệ bổ sung, tương phản, lựa chọn và quan hệ so sánh thường thực hiện phép nối giữa hai cú đẳng lập.
vd:
Anh đứng tần ngần một lúc. Rồi anh rón rén đi lại giường…[NC,CM;119] – qh thời
gian.
+ Nối chính phụ: Hai cú có mối quan hệ khác bậc – khơng ngang hàng nhau, trong đó có một cú phát ngơn thể hiện nội dung chính, còn cú kia chỉ
bổ sung thêm những ý nghĩa phụ nêu điều kiện, nguyên nhân; đưa ví dụ, dẫn chứng, lời giải thích… cho cú chính. Điển hình cho phép nối chính phụ là
những quan hệ như: quan hệ làm rõ bao gồm: giải thích, minh họa, đính chính, dẫn dắt, đặc biệt hóa, miễn trừ, tóm tắt lại, suy luận, xác nhận, quan
hệ nguyên nhân – kết quả bao gồm: quan hệ nhân – quả, điều kiện – kết quả, quan hệ nhượng bộ.
Vd: Thúc thì hắn chửi, căm vườn thì hắn chém, sinh chuyện với hắn thì chính lý trưởng
làng có lỗi bởi cố ý ẩn lậu hắn là một tên can phạm. [NC,CP;31] – quan hệ điều kiện – hệ quả.
- Nối đơnphức
Căn cứ vào số lượng cú tham gia liên kết, ta có: - Phép nối phức: Phép nối thực hiện sự liên kết phức tạp giữa nhiều cú
từ hai cú trở lên với nhau. Quan hệ thời gian, không gian và logíc diễn đạt có thể là phép nối phức.
Vd:
Cái lịch sử vong gia thất khổ bắt đầu như vậy. Tiếp đến những ngày vợ chồng nghiến ngấu nhau. Rồi thì chị vợ bỗng lẵn mẵn nghỉ rằng, cho cái thằng chồng bạt mạng mày ăn
thật phí cơm. [NC,LT;182]
- Phép nối đơn: Là sự liên kết chỉ thực hiện giữa hai cú phát ngôn. Đa số các quan hệ ngữ nghĩa còn lại là phép nối đơn.
+
Hắn lập tức bê cổ về sân, dạt lên phản; ung dung ngồi. Nói thật ra, thì hắn cũng khơng
được ung dung lắm. [NC,TCM;202]
Dạng phép nối có liên từ đi thành cặp cũng là phép nối đơn: +
Giá mày ở nhà mày thì mặc mày. [NC,NĐ;81]
Ngay cả những quan hệ thời gian, không gian và logíc diễn đạt, nếu chỉ
nối hai cú với nhau, cũng là phép nối đơn. Vd:
Đêm hơm ấy, bà lăn lóc rất lâu không ngủ được. bà dần cái bụng, bà quay vào lại quay ra…Vào khoảng nửa đêm, bà thấy hơi đau bụng. [NC,MBN;166]
Nhìn trên tổng thể, phép nối đơn chiếm số lượng nhiều hơn.
- Nối liên tụcgián đoạn còn gọi là nối trực tiếp và nối gián tiếp
Dựa vào tính chất hai cú liên kết đứng cạnh nhau hay gián cách, ta có:
- Nối liên tục: là phép nối được thể hiện giữa hai cú hay phát ngôn đơn – tức phát ngôn chỉ bao gồm một cú nằm cạnh nhau:
+ Tuy trong số bốn ông to nhất chẳng có ơng nào khoẻ răng để có thể gặm nổi cái móng giò, nhưng cũng chẳng ơng nào chịu mất. [NC,ĐMG;103]
+ Không lẽ tôi lại vui khi được một cái tin như thế. Nhưng thật tôi cũng không biết có nên
buồn khơng đấy. [NC,ĐV;269]
+ Nối gián đoạn: Là phép nối được thể hiện giữa hai cú hay hai phát ngôn không nằm cạnh nhau hay gián cách. Thông thường, chúng ta thường gặp loại
phép nối loại này khi phép nối biểu hiện quan hệ thời gian, không gian, logic diễn đạt.
+ Thoạt tiên hắn gắt gỏng bằng nét mặt: Nét mặt hắn luôn luôn gây sự; cái môi dưới cố
hất lên, đơi lơng mày xít lại với nhau thì lại cố mà lăn xuống; những con mắt lúc thì khoằm
khoặm, lúc thì lại cong lên như muốn nhảy tót ra vì tức quá. […]. Sau cùng đến chân tay:
tội nghiệp cho cái rổ, cái rá, cái mi hay cái cuốc Tội nghiệp nhất cho bà quản Thích. [NC,NĐ;83]
+ Chị giận anh chồng quá. Cái anh chồng động cãi nhau là lại ăn thật khoẻ, làm như cãi
nhau được thì lòng hả hê. Đích là nó cố ý trêu tức chị. Chị uất người. Cổ chị có cái gì lấp hẳn. Thật ra thì nó chẳng động chạm gì đến chị. [NC,CM;118]
Ở ví dụ này, liên từ “đích là” thể hiện phép nối liên tục với phát ngôn đi trước nó. Còn liên từ “thật ra” lại thể hiện sự phép nối gián đoạn, vì nó liên
kết với phát ngơn nằm cách nó đến ba phát ngơn: “Cái anh chồng động cãi nhau là lại ăn thật khoẻ, làm như cãi nhau được thì lòng hả hê”.
- Nối lỏngnối chặt
Tương tự, chúng ta cũng phân chia phép nối thành phép nối lòng và phép nối chặt dựa trên mức độ gắn kết về nội dung và hình thức ngữ pháp giữa
chúng.
+ Phép nối lỏng: Là phương thức liên kết mà các phương tiện nối chỉ làm cho
kết cú chứa nó chỉ quan hệ bình đẳng hay phụ thuộc với chủ cú về mặt nội dung mà không chi phối, tác động đến cấu trúc hay hình thức của kết cú: “Nối
lỏng là việc sử dụng trong câu kết các từ ngữ chuyển tiếp để tạo liên kết với câu chủ” [6;132]. Hay “Phép nối lỏng là phương thức liên kết thể hiện ở sự
có mặt trong kết ngôn những phương tiện từ vựng từcụm từ khơng làm biến đổi cấu trúc của nó và điễn đạt một quan hệ ngữ nghĩa hai ngôi mà “ngơi”
còn lại là chủ ngơn.”[76;170]. Khi đó, hai cú có liên kết với nhau nhưng chúng vẫn còn tính độc lập tương đối. Nếu tách riêng, chúng ta vẫn có thể
hiểu được chúng. Những cú có quan hệ đẳng lập thường thể hiện phép nối lỏng.
Vd:
Có ai ngờ một thằng ngớ ngẩn lại có thể là một thằng biết cảm xúc như một người
lành vậy. Không những thế, cảm xúc lại đánh thức dậy những cái gì tê liệt. [NC,NĐ;77]
+ Phép nối chặt:
Theo Diệp Quang Ban: “Nối chặt là việc sử dụng liên từ ở đầu hoặc cuối câu kết ở đây là ngữ trực thuộc để tạo liên kết giữa câu kết với câu
chủ.” [6;133] Trần Ngọc Thêm cũng đưa ra khái niệm về tiểu loại phép nối này: “Phép
nối chặt là phương thức liên kết của ngữ trực thuộc thể hiện bằng sự có mặt của các từ nối liên từ, giới từ ở chỗ bắt đầu liên kết hồi quy hoặc chỗ kết
thúc liên kết khứ chỉ của nó, tạo thành một quan hệ ngữ nghĩa hai ngôi giữa ngữ trực thuộc với chủ ngôn” [76;205].
Như vậy, khi một trong hai cú tham gia liên kết không có khả năng tồn tại độc lập, tức chúng khơng độc lập về ý nghĩa và hình thức ngữ pháp thì
chúng ta sẽ có phép nối chặt. Như vậy, phép nối chặt là phép nối thực hiện liên kết những cú chính phụ hay những cú bị tỉnh lược, cú có chứa yếu tố thay
thế với nhau. Vd:
Nếu em sửa được tính nết em. Em lại trở về với cậu. [NC,NĐ;94]
Thực chất của phép nối chặt là sự kết hợp của một phương thức liên kết khác -thường là phép tỉnh lược, phép thế với phương thức nối. Chính sự kết
hợp của nhiều phương thức liên kết mà sự liên kết giữa các cú trở nên chặt chẽ hơn.
- Nối bên trongbên ngồi
Nói đến phép nối bên trong hay bên ngồi, chúng ta có thể hiểu theo nhiều cấp độ và phạm vi khác nhau. Ứng với mỗi phạm vi là một cách hiểu
hay một sự phân loại.
+ Phạm vi phát ngôn Nối bên trong: Liên kết những cú bên trong một phát ngôn, tứ nối cú với
cú.
Vd: Đúc muốn trả lời mà chả biết trả lời sao được. [NC,NĐ;78]
Nối bên ngoài: Liên kết những cú vượt ra khỏi phạm vi một phát ngôn, tức nối giữa các phát ngôn với nhau.
Vd: Không táo bạo mà dám gây sự với cha con Bá Kiến, bốn đời làm tổng lý. Và nghĩ thế,
hắn thấy hắn cũng oai. [NC,CP;27]
+ Phạm vi đoạn văn Nối bên trong: Nối các phát ngôn trong một đoạn văn với nhau.
Nối bên ngoài: Nối đoạn văn này với một đoạn văn khác.
Vd: Như vậy, các BTQH biến thể quan hệ là danh từ này có ý nghĩa trực tiếp và thuộc trường nghĩa chỉ các sự vật, hiện tượng thường xuất hiện vào mùa xuân ở nước ta. Điều đó
cũng có nghĩa, trong thơ Xuân Diệu, mùa xuân thường được ông miêu tả cùng với cỏ cây, hoa lá trong không gian và thời gian khác nhau.
Ngồi ra, trong thơ Xn Diệu còn xuất hiện nhóm BTQH gồm các tín hiệu mang
nghĩa bóng, nghĩa biểu trưng, đó là những tín hiệu đã có sự chuyển nghĩa. [MTXD;5]
+ Phạm vi văn bản Nối bên trong: Phép nối thực hiện liên kết bên trong văn bản.
Nối bên Ngoài: Phép nối thực hiện liên kết bên ngoài văn bản: giữa văn bản này với văn bản khác hay giữa văn bản với hiện thực.
Tuy nhiên, trong các cấp độ trên, phạm vi nối ở cấp độ phát ngôn là phổ biến nhất. Nên khi đề cập khái niệm “nối bên trong” hay “nối bên ngồi”
mà khơng chú thích gì thêm, chúng ta mặc định là phép nối thực hiện trong phạm vi trong một phát ngôn hay giữa các phát ngôn.
- Phép nối chỉ có một liên từ phép nối có nhiều liên từ
Căn cứ vào số lượng liên từ tham gia phép nối, ta có: + Phép nối liên từ
Là phép nối thường do một liên từ đảm nhiệm. Cả quan hệ đẳng lập và quan hệ chính phụ đều có thể thuộc phép nối này. Chẳng hạn như quan hệ làm
rõ giải thích, minh họa, đính chính, dẫn dắt, đặc biệt hóa… – thuộc quan hệ chính phụ; và quan hệ mở rộng bổ sung, tương phản, lựa chọn, quan hệ so
sánh – thuộc quan hệ đẳng lập đều có thể là phép nối chỉ có một liên từ.
Vd: + Người ta đang cần thợ gặt. Chỉ sợ lại được chôn vệ đường. [NC,QD;151]- quan hệ
chính phụ quan hệ làm rõ.
+ Không táo bạo mà dám gây sự với cha con Bá Kiến, bốn đời làm tổng lý. Và nghĩ thế,
hắn thấy hắn cũng oai. [NC,CP;27] - quan hệ đẳng lập – quan hệ bổ sung.
+ Phép nối tổ hợp liên từ Đây là dạng phép nối thường do nhiều liên từ đảm trách. Tương tự như
phép nối chỉ có một liên từ, phép nối có nhiều liên từ cũng có thể bao gồm cả quan hệ đẳng lập và quan hệ chính phụ: quan hệ thời gian, khơng gian, logic
diễn đạt quan hệ đẳng lập và quan hệ nguyên nhân – hệ quả bao gồm quan hệ nhân – quả, quan hệ điều kiện – kết quả, quan hệ nhượng bộ – quan hệ
chính phụ.
Vd: Cho thì lấy vậy. Dẫu chẳng lợi lộc thì cũng khơng phải thiệt. [NC,LT;180] – quan hệ
nhượng bộ.
Tuy nhiên, chỉ có phép nối đẳng lập bao gồm quan hệ thời gian, không gian, logic diễn đạt, quan hệ bổ sung mới có thể xuất hiện nhiều hơn hai liên
từ.
Vd: Thoạt tiên, cơm nuôi tháng một đồng. Rồi cơm nuôi tháng năm hào. Rồi cơm nuôi một năm bốn đồng. Rồi hai đồng. Rồi chẳng có đồng nào. [NC,MBN;159] – quan hệ thời gian.
- Nối hồi chỉ và phép nối khứ chỉ
- Dựa vào chức năng liên kết của phép nối với phần văn bản đi trước và sau nó, người ta phân chia thành hai loại: phép nối hồi chỉ và phép nối khứ
chỉ. + Nối hồi chỉ
Phép nối hồi chỉ là phép nối mà liên từ thực hiện liên kết hồi chỉ – tức liên kết cúphát ngơn chứa nó với cú phát ngơn trước đó. Hướng liên kết là
hướng giật lùi – lùi lại phần văn bản phía trước. Trong hai cú có quan hệ kết nối, khi liên từ nằm ở cú thứ hai, chúng ta
sẽ có liên kết hồi chỉ. Những quan hệ ngữ nghĩa như: giải thích, bổ sung, suy luận, dẫn dắt, tương phản… thường thực hiện liên kết hồi chỉ.
+ Nhưng chết cái gạo năm nay kém q. Thêm một nỗi, ít lâu nay tơm tép hiếm.
[NC,MD;205] + Có lúc bà tiếc rằng bố thằng bé vơ tội ấy khơng còn sống để bắt những người khác phải
nhận ra rằng thằng bé kia vơ tội. Thì ra những người rất hiền lành cũng có thể là những
người rất ác. [NC,NĐ;73]
Đặc biệt những liên từ có chứa yếu tố thay thế như: như thế, như vậy, do đó, do vậy, vì thế, vì vậy, cũng chính vì thế… hay những cú bị tỉnh lược
thường thực hiện phép nối hồi chỉ. Vd:
Con người trong tác phẩm Nam Cao không bị đẩy lên một kích cỡ khác thường, khơng bị lên gân mà là con người như nó vốn có, con người trong cuộc sống quan thuộc
hằng ngày. Cũng vì thế, những tâm trạng nhân vật được miêu tả càng trở nên gần gũi.
[NC;9]
+ Nối khứ chỉ Liên từ có tác dụng liên kết cú chứa nó với cú sau nó sẽ thể hiện phép nối
khứ chỉ. Ngược với liên kết hồi chỉ, liên kết khứ chỉ lại thực hiện chức năng
liên kết giữa cú hay phát ngôn chứa nó với cú phát ngơn sau đó. Hướng liên kết là hướng đi tới – hướng tới liên kết với phần văn bản đi sau.
Trong hai cú có quan hệ liên kết, nếu liên từ nằm ở cú thứ nhất, chúng ta sẽ có liên kết khứ chỉ. Thường quan hệ thời gian, không gian, logic diễn đạt
mà liên từ chỉ xuất hiện ở cú thứ nhất cú thứ hai vắng mặt hay liên từ thứ nhất trong cặp liên thuộc phép nối chính phụ quan hệ nhân – quả, điều kiện –
kết quả, nhượng bộ thì có khả năng thể hiện liên kết khứ chỉ. Nghĩa là, chúng ta có thể dự đốn được những ý nghĩa kế tiếp sẽ được trình bày, cũng như
những liên từ thể hiện những ý nghĩa bổ sung sẽ xuất hiện sau đó.
+ Sau khi đã hỏi qua ý kiến khách, chủ nhà định bê cả nồi lên để lúc nào ăn cơm hãy múc
ra. [NC,TCKĐATC;144]
+ Giá mày ở nhà mày [thì mặc mày]. [NC,NĐ;81]
+
Có phải con muốn lấy vợ [thì để bà liệu cho]. [NC,NĐ;86]
Ví dụ thứ nhất là phép nối khứ chỉ mà liên từ trong quan hệ thời gian quan hệ đẳng lập đi riêng lẻ và chỉ xuất hiện ở cú thứ nhất. Hai ví dụ còn lại,
phép nối khứ chỉ được thực hiện bởi liên từ thứ nhất trong cặp liên từ thể hiện phép nối chính phụ - chỉ quan hệ điều kiện – kết quả.
+ Cả hồi chỉ và khứ chỉ. Đây là một trong những đặc điểm riêng biệt của phép nối. Có hai trường hợp xảy ra.
Thứ nhất, phép nối thực hiện liên kết cả hồi chỉ và khứ chỉ nếu ta xét từng vị trí của cặp liên từ trong phép nối đẳng lập.
Nếu quan hệ giữa hai cú tham gia phép nối thể hiện mối quan hệ đẳng lập và xuất hiện cặp quan hệ từ sóng đơi, ta sẽ có cả liên kết khứ chỉ và hồi
chỉ, nếu xét từng vị trí của chúng trong mối quan hệ đẳng lập. Thường những quan hệ thời gian, không gian, logic diễn đạt, xuất hiện hai liên từ thì có khả
năng thực hiện phép nối này.
+ Đằng trước có mấy món tóc dài để chải lật lên. [Đằng sau cạo nhẵn thính như quả
bưởi]. [NC,ĐMG;99]
+ Mới thoạt trơng thấy bà lão, bà tưởng là một con mẹ ăn mày. Bà hơi cao mặt:…bà Phó
Thụ mở to đơi mắt đỏ ngầu, [ nhìn kỹ hơn một chút. Bà nhận ra bà cái đĩ ở]. [NC,MBN;161]
Ở ví dụ một, nếu xét liên từ “đằng trước”, thì phép nối sẽ là khứ chỉ, nhưng nếu chúng ta căn cứ vào liên từ thứ hai “đằng sau”, thì phép nối lại là
hồi chỉ. Phân tích tương tự với ví dụ thứ hai.
Thứ hai, một liên từ lại có khả năng thể hiện cả phép nối hồi chỉ lẫn phép nối khứ chỉ khi có nhiều hơn hai liên từ xuất hiện trong phép nối đẳng
lập. Thường những quan hệ thời gian, khơng gian, logic diễn đạt có thể xuất
hiện liên từ nhiều hơn hai thì có thể đảm đương chức năng này. Chẳng hạn:
Hơn ba tháng, bà lão chỉ ăn tồn bánh đúc. Mới đầu còn được ngày ba tấm. Sau cùng thì
một tấm cũng khơng còn có nữa. [NC,MBN;159]
Trong ngữ liệu này, liên từ “mới đầu” vừa thực hiện phép nối hồi chỉ với cú trước nó, tức với liên từ “hơn ba tháng”; nhưng cũng vừa đảm nhiệm
chức năng liên kết hồi chỉ với cú đi sau nó, mà cụ thể là với liên từ “sau cùng”.

1.3.4. Ý nghĩa


Bởi vì phương thức nối cũng là một phương thức liên kết, nên bản thân phép nối mang đầy đủ những ý nghĩa của một phép liên kết nói chung đã
được trình bày ở phần phân loại phép nối 1.3.1.3. Ngoài những chức năng chung đó, phép nối còn mang ý nghĩa đặc biệt.
Phép nối có thể tạo ra liên kết hồi chỉ và khứ chỉ với phần văn bản trước và sau nó được trình bày ở mục 1.2.2.2. Phân loại phép nối và 2.1. Cấu
trúc. Chính vì thế, phép nối làm tăng tính mạch lạc cho văn bản.
Việc lấy cú làm đơn vị liên kết cơ bản của phép nối, chúng ta sẽ tránh đi sự nhập nhằn cũng như sự trùng lấp giữa phép nối và câu ghép theo quan
điểm truyền thống. Chẳng hạn, cả câu ghép và phép nối đều thể hiện những quan hệ như: nhân- quả, điều kiện –kết quả, nhượng bộ…
+
Nàng tin lòng chàng. Bởi lòng chàng còn nguyên vẹn. [NC,NĐ;71] + Nàng tin lòng chàng, bởi lòng chàng còn ngun vẹn. +
Hai ví dụ trên không khác nhau về nội dung, ý nghĩa; chúng chỉ khác nhau về dấu ngắt. Mà theo quan điểm truyền thống, ví dụ thứ nhất thuộc phép
nối, còn ví dụ thứ hai lại là câu ghép. Với tiếng Việt, việc dùng dấu ngắt giữa hai cú như trên khá tự do và
phần nào mang tính chủ quan. Thiết nghĩ, nếu căn cứ trên dấu ngắt phát ngôn để phân biệt giữa phép nối và câu ghép, dễ rơi vào chủ nghĩa hình thức. Do
vậy, theo chúng tơi, ngữ nghĩa cũng như quan hệ logic ngữ nghĩa mới là căn cứ quan trọng làm cơ sở cho sự phân định này.

1.4. Tiểu kết


Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (264 trang)

×