1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Kinh tế - Thương mại >

1: Sự cần thiết phải xố đói giảm nghèo.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (411.32 KB, 75 trang )


Phần 1: Sự cần thiết phải xố đói giảm nghèo.


1. Khái niệm. 1.1. Khái niệm nghèo, đói:
1.1.1. Theo quan niệm của Quốc tế. Theo Uỷ ban kinh tế xã hội khu vực Châu Á - Thái Bình Dương ESCAP:
Nghèo đói là trạng thái mơt bộ phận dân cư khơng được hưởng và thão mãn những nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa
nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập quán của địa phương.
Khái niệm nghèo đói có thể chia theo hai cách khác nhau: Nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối.
- Nghèo tương đối là sự thõa mãn chưa đầy đủ nhu cầu cuộc sống của con người như: cơm ăn chưa ngon, quần áo chưa mặc đẹp, nhà ở chưa k hang trang...
hay nói cách khác là có sự so sánh về thoã mãn các nhu cầu cuộc sống giữa người này với người khác, vùng này với vùng khác.
Hộ nghèo tương đối không phải là đối tượng chủ yếu của chương trình. Để giải quyết nghèo tương đối có chương trình, giải pháp khác tác động đến như:
Chương trình cho vay vốn giải quyết việc làm, phát triển kinh tế trang trại, cho vay của ngân hàng chính sách, ngân hàng Nông nghiệp.
Trong những xã hội được gọi là thịnh vượng, nghèo được định nghĩa dựa vào hoàn cảnh xã hội của cá nhân. Nghèo tương đối có thể được xem như là việc
cung cấp không đầy đủ các tiềm lực vật chất và phi vật chất cho những người thuộc về một số tầng lớp xã hội nhất định so với sự sung túc của xã hội đó.
4
Nghèo tương đối có thể là khách quan, tức là sự hiện hữu không phụ thuộc vào cảm nhận của những người trong cuộc. Người ta gọi là nghèo tương đối chủ
quan khi những người trong cuộc cảm thấy nghèo không phụ thuộc vào sự xác định khách quan. Bên cạnh việc thiếu sự cung cấp vật chất tương đối, việc
thiếu thốn tài nguyên phi vật chất ngày càng có tầm quan trọng hơn. Việc nghèo đi về văn hóa-xã hội, thiếu tham gia vào cuộc sống xã hội do thiếu hụt tài chính
một phần được các nhà xã hội học xem như là một thách thức xã hội nghiêm trọng.
- Nghèo tuyệt đối là sự khơng thỗ mãn những nhu cầu tối thiểu của con người để duy trì cuộc sống như: Cơm ăn không đủ no, áo không đủ mặc, nhà cửa
không bảo đảm chống được mưa nắng, thiên tai bão lũ...không so sánh với ai khác nhưng bản thân họ không đủ lượng calo cần thiết để duy trì cuộc sống.
Hộ nghèo tuyệt đối là đối tượng chủ yếu của chương trình, mục tiêu xố đói giảm nghèo phải tác động. Để xem xét mức độ nghèo đói chúng ta cần thước đo
gọi là chuẩn nghèo. Để có một cái nhìn tổng quan về các vấn đề của các nước đang phát triển,
Ngân hàng thế giới, đã đưa ra khái niệm nghèo tuyệt đối. Định nghĩa khái niệm nghèo tuyệt đối như sau: Nghèo ở mức độ tuyệt đối...là sống ở ranh giới ngoài
cùng của tồn tại. Những người nghèo tuyệt đối là những người phải đấu tranh để sinh tồn trong các thiếu thốn tồi tệ và trong tình trạng bỏ bê và mất phẩm cách
vượt quá sức tưởng tượng mang dấu ấn của cảnh ngộ may mắn của giới trí thức chúng ta.
Ranh giới cho nạn nghèo tương đối dựa vào nhiều số liệu thống kê khác nhau cho một xã hội. Một con số cho ranh giới của nạn nghèo được dùng trong
5
chính trị và công chúng là 50 hay 60 của thu nhập trung bình. Vì thế từ năm 2001 trong các nước thành viên của Liên minh Châu Âu những người được coi
là nghèo khi có ít hơn 60 trị trung bình của thu nhập ròng tương đương. Lý luận của những người phê bình cho rằng con số này trên thực tế cho biết rất ít về
chuẩn mực cuộc sống của con người. Những ai hiện tại có ít hơn 50 của thu nhập trung bình thì cũng vẫn có ít hơn 50 của trung bình khi tất cả các thu
nhập đều tăng gấp 10 lần. Vì thế những người đó vẫn còn là nghèo tương đối. Và khi những người giàu bỏ đi hay mất tiền của thì sẽ giảm trung bình của thu nhập
đi và vì thế làm giảm thiểu nghèo tương đối trong một nước. Ngược lại nghèo tương đối sẽ tăng lên khi một người không nghèo có thể tăng được thu nhập
ngay cả khi những người có thu nhập khác vẫn khơng có thay đổi. Người ta còn phê bình là ranh giới nghèo trộn lẫn vấn đề nghèo với vấn đề phân bố thu nhập.
Vì một sự phân chia rõ ràng giữa nghèo và giàu trên thực tế khơng có nên khái niệm ranh giới nguy cơ nghèo cũng hay được dùng cho ranh giới nghèo tương
đối. Ngược với ranh giới nghèo tương đối, các phương án tính tốn ranh giới
nghèo tuyệt đối đã đứng vững. Các ranh giới nghèo tuyệt đối được tính tốn một cách phức tạp bằng cách lập ra những giỏ hàng cần phải có để có thể tham gia
vào cuộc sống xã hội. Các ranh giới nghèo tương đối và nghèo tuyệt đối đều khơng có thể xác
định được nếu như khơng có trị số tiêu chuẩn cho trước. Việc chọn lựa một con số phần trăm nhất định từ thu nhập trung bình và ngay cả việc xác định một giỏ
hàng đều khơng thể nào có thể được giải thích bằng các giá trị tự do. Vì thế mà chúng được quyết định qua những q trình chính trị.
6
1.1.2. Quan niệm đói nghèo của Việt Nam. - Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có khả năng thõa mãn một
phần các nhu cầu cơ bản của con người và có mức sống ngang bằng với mức sống tối thiểu của cộng động xét trên mọi phương diện.
- Đói là tình trạng một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức tối thiểu, khơng đảm bảo nhu cầu vật chất để duy trì cuộc sống.
- Xóa đói giảm nghèo là một chiến lược của Chính Phủ Việt Nam nhằm giải quyết vấn đề đói nghèo và phát triển kinh tế tại Việt Nam. Đói nghèo là vấn
đề ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững, đồng thời là vấn đề xã hội nhạy cảm nhất. Khơng thể lãng qn nhóm cộng đồng yếu thế, ít cơ hội theo kịp tiến trình
phát triển mà Chính phủ với việc cải cách, sửa đổi những khiếm khuyết của thể chế kinh tế để nhóm nghèo đói tự vươn lên xố đói giảm nghèo.
1.1.3. Một số khái niệm liên quan. - Hộ nghèo: Là những hộ có thu nhập bình qn đầu người trong hộ dưới
ngưỡng đói nghèo. Theo quyết định số 11432000QĐ-LĐTBXH ngày 01112000 của Bộ
trưởng Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội, chuẩn nghèo giai đoạn 2001-2005 được quy định cho mức thu nhập bình quân đầu người trong hộ cho từng vùng
như sau: + Vùng nông thôn miền núi, hải đảo: 80.000 đồngngười tháng.
+ Vùng nông thôn đồng bằng: 100.000 đồngngườitháng. + Vùng thành thị: 150.000 đồngngườitháng.
7
Những hộ có mức thu nhập bình quân đầu người dưới mức quy định nêu trên được xác nhận là hộ nghèo.
Chuẩn nghèo thay đổii theo thời gian chứ không cố định. Căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế- xã hội, địa phương nào có đủ điều kiện sau đây có thể
nâng chuẩn nghèo lên để phù hợp với thực tế của địa phương đó: + Thu nhập bình qn đầu người cao hơn thu nhập bình qn của cả
nước. + Có tỷ lệ hộ nghèo thấp hơn tỷ lệ hộ nghèo trung bình của cả nước.
+ Tự cân đối được ngân sách và tự giải quyết được các chính sách đói nghèo theo chuẩn nâng lên.
- Xã nghèo: Theo Quyết định số 5872002QĐ-LĐTBXH ngày 22052002 của Bộ trưởng Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội về việc ban
hành tiêu chí xã nghèo giai đoạn 2001-2005. Quy định xã nghèo là xã có: + Tỷ lệ hộ nghèo từ 25 trở lên.
+ Chua đủ 3 trong 6 hạng mục cơ sở hạ tầng thiết yếu Bao gồm đường giao thông, trường học, trạm y tế, điện sinh hoạt, nước sạch, chợ. Cụ thể là:
• Dưới 30 số hộ sử dụng nước sạch.
• Dưới 50 số hộ sử dụng điện sinh hoạt.
• Chưa có đường ô tô đến trung tâm xã hoặc ô tô không đi lại
được cả năm. •
Số phòng học Theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ đáp ứng được dưới 70 nhu cầu của học sinh hoặc phòng học
tạm bợ bằng tranh tre, nứa, lá. •
Chưa có trạm y tế xã hoặc có nhưng là nhà tạm.
8
• Chưa có chợ hoặc chợ tạm bợ.
- Hộ vượt nghèo hay hộ thoát nghèo: Là những hộ mà sau một qúa trình thực hiện chương trình Xố đói giảm nghèo cuộc sống đã khá lên và mức thu
nhập đã ở trên chuẩn mực nghèo đói. Hiện nay, ở một số địa phương có sử dụng khái niệm hộ thốthoặc vượt đói và họ thốt nghèo. Hộ thốt nghèo đương
nhiên khơng còn là hộ đói nghèo nữa. Trong khi đó, hộ thốt nghèo đói có thể đồng thời thốt hẳn nghèoở trên chuẩn nghèo, nhưng đa số trường hợp thốt
đóirất nghèo nhưng vẫn ở trong tình trạng nghèo. - Số hộ nghèo giảm hay tăng trong một khoảng thời gian: Là hiếu số giữa
tổng số hộ nghèo ở thời điểm đầu và cuối. Như vậy, giảm số hộ đói nghèo khác với khái niệm số hộ vượt nghèo và thoát nghèo. Số hộ thoát nghèo là số hộ ở đầu
kỳ nhưng đến cuối kỳ vượt ra khỏi ngưỡng nghèo. Trong khi đó, số hộ nghèo giảm đi trong kỳ chỉ phản ánh đơn thuần chênh lệch về mặt số lượng hộ nghèo,
chưa phản ánh thật chính xác kết quả của việc thực hiện chương trình. - Hộ tái nghèo: Là hộ vốn dĩ trước đây thuộc hộ nghèo và đã vượt nghèo
nhưng do nguyên nhân nào đó lại rơi vào cảnh đói nghèo. Ý nghĩa của khái niệm này là phản ánh tính vững chắc hay tính bền vững của các giải pháp xố đói
giảm nghèo. Thực tế cho thấy, hầu hết các hộ tái nghèo chính là do gặp thiên tai bất khả kháng.
- Hộ nghèo mới hay là hộ mới vào danh sách nghèo: Là những hộ ở đầu kì khơng thuộc danh sách đói nghèo nhưng đến cuối kỳ lại là hộ nghèo. Như vậy,
hộ mới bước vào danh sách nghèo bao gồm những hôn như sau: Hộ nghèo chuyển tiếp từ nơi khác đến; hộ nghèo tách hộ; hộ trung bình khá vì một lý do
nào đó lại trở thành hộ nghèo hoặc hộ tía nghèo.
9
1.1.4. Phương pháp xác định chuẩn nghèo đói và chuẩn mực nghèo đói giai đoạn 2001-2005 và 2006-2010.
Phương pháp xác định chuẩn nghèo đói: Có 3 căn cứ quan trọng để xác định chuẩn nghèo đói:
- Căn cứ vào nhu cầu tối thiểu, nhu cầu này được lượng hoá bằng mức chi tiêu về lương thực,thực phẩm thiết yếu để duy trì cuộc sống với nhiệt lượng tiêu
dùng từ 2.100-2.300 Kcalngườingày. - Căn cứ vào mức thu nhập bình quân đầu ngườitháng. Trong đó đặc biệt
quan tâm đến thu nhập bình qn đầu ngườitháng của nhóm có thu nhập thấp20 số hộ.
- Căn cứ vào nguồn lực thực tế của quốc gia, của từng địa phương đã được cụ thể hoá bằng mục tiêu chương trình quốc gia xố đói giảm nghèo và chương
trình của từng địa phương để thực hiện cơng tác xố đói giảm nghèo. Từ 3 căn cứ trên có thể cho thấy:
+ Xác định chuẩn nghèo đói phụ thuộc chủ yếu vào điều kiện kinh tế xã hội, phong tục tập quán của từng quốc gia, từng địa phương, song trong đó có
một phần yếu tố chủ quan của các nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách. + Chuẩn nghèo phụ thuộc vào yếu tố khách quan trong đó có một phần
yếu tố chủ quan. Chuẩn mực nghèo đói giai đoạn 2001-2005 và 2006-2010:
Giai đoạn 2001-2005 Nơng thơn miền núi, hải đảo: thu nhập bình qn 80.000 đngườitháng,
hay 960.000đồngngườinăm được coi là nghèo.
10
Nông thôn đồng bằng: Thu nhập bình quân 100.000đồngngườitháng, hay 1.200.000đồngngườinăm được coi là nghèo.
Khu vực thành thị: Thu nhập bình quân 150.000đồngngườitháng, hay 1.800.000đồngngườinăm được coi là nghèo.
Giai đoạn 2006-2010: Chuẩn nghèo chỉ áp dụng cho 2 khu vực là:
Khu vực Nông thôn: Thu nhập bình quân 200.000đồngngườitháng, được coi là nghèo.
Khu vực thành thị: Thu nhập bình quân 260.000đồngngườitháng, được coi là nghèo.
1.1.5. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và xoá đói giảm nghèo. - T ăng trưởng kinh tế có vai trò vơ cùng quan trọng đối với mỗi quốc gia.
Nó là điều kiện cần thiết đầu tiên để khác phục tình trạng nghèo đói, lạc hậu, để cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống cho dân cư.
- Xố đói giảm nghèo gắn với tăng trưởng kinh tế. Bất cứ quốc gia nào cũng phải lấy nền quan tọng nhất của nó là phát triển tăng trưởng kinnh tế để xố
đói giảm nghèo, chỉ có tăng trưởng kinh tế mới cho phép các quốc gia tích luỹ để đầu tư cho xố đói giảm nghèo vì xố đói giảm nghèo cần rất nhiều nguồn lực và
trong nhiều năm. Mặt khác tăng trưởng kinh tế phải vì người nghèo, vùng nghèo thì mới lam fcho khoảng cách giầu nghèo một cách hợp lý với tiến trình phát
triển của xã hội. Nếu tăng trưởng kinh tế khơng vì người nghèo thì chính nó lại làm cho kh oảng cách giầu nghèo tăng thêm và điều này không phù hợp với định
hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên trong phân bố ngân sáchchúng ta không được thiên lệch về một hướng nào. Nếu tăng trưởng kinh tế quá nhanh thì nguồn ngân
11
sách cho xố đói giảm nghèo sẽ ít và người nghèo khơng theo kịp tiến trình phát triển kinh tế và ngược lại nếu chú trọng và cơng tác xố đói giảm nghèo mà
khơng quan tâm đến tăng trưởng kinh tế thì càng làm cho người nghèo càng nghèo thêm.
Vì vậy, xố đói giảm nghèo là yếu tố cơ bản đảm bảo công bằng và tăng trưởng bền vững vào tăng trưởng kinh tế trên diện rộng được coi là một bộ phận
quan trọngcủa chiến lược và là nhiệm vụ chung của xã hội và chính người nghèo.
1.2. Quan điểm của Đảng, Nhà nước và địa phương về cơng tác xố đói giảm nghèo.
Xố đói giảm nghèo được coi là sự nghiệp của tồn dân, là một chính sách xã hội cơ bản, là hướng ưu tiên trong tồn bộ chính sách kinh tế xã hội.
Phát triển kinh tế đi đôi với thực hiện xố đói giảm nghèo bền vững, gắn xố đòi giảm nghèo với các chương trình mục tiêu quốc gia và an sinh xã hội.
Xác đinh rõ các vùng trọng điểm, các hoạt đọng ưu tiên để tập trung nguồn lực đầu tư có hiệu quả.
Gắn xố đói giảm nghèo cà giải quyết việc làm với thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Tạo cơ hội và điều kiện cho người nghèo, hộ nghèo, xã nghèo tiếp
cận với các dịch vụ xã hội cơ bản. Phát huy nội lực chủ yếu , đồng thời tăng cường sự hợp tác quốc tế.
Xố đói giảm nghèo được Đảng và Nhà nước coi là chương trình mục tiêu Quốc gia. Đói nghèo là một vấn đề xã hội mang tính bức xúc của mỗi địa
phương, của mỗi quốc gia và mang tính toàn cầu, là trở ngại lớn đối với sự phát triển kinh tế xã hội của cả nước nói chung cũng như của huyện Như Thanh -
12
Thanh Hố nói riêng. Thấy rõ tầm quan trọng của cơng tác Xố đói giảm nghèo nên ngay từ khi cách mạng mới thành công Năm 1945 Đảng ta đã coi nhiệm vụ
chống nạn đói là một trong 6 nhiệm vụ cấp bách, trải qua gần 60 năm xây dựng và phát triển, cho đến nay Xố đói giảm nghèo đã trở thành mục tiêu Quốc gia
cuả Đảng, Nhà nước và địa phương hưởng ứng, quan tâm hàng đầu. Xố đói giảm nghèo là lĩnh vực mới với thời gian thực hiện chưa dài, nhưng lại là vấn đề
xã hội mang tính cấp thiết và đã có nhiều chính sách, giải pháp nhằm giải quyết có hiệu quả vấn đề đói nghèo, thơng qua việc ban hành các văn bản quy phạm
pháp luật cụ thể. 2. Các yếu tố ảnh hưởng đến đói nghèo.
Đói nghèo do nguyên rất nhiều nguyên nhân gây ra, vì vạy cũng có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến đói nghèo. Trong đó phải kể đến một số yếu tố cơ
bản có ảnh hưởng đến đói nghèo của huyện như sau: 2.1.Yếu tố khách quan.
• Yếu tố tự nhiên.
Điều kiện tự nhiên có ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất nông nghiệp thuần tuý của huyện. Trong những năm gần đây sản xuất nông nghiệp luôn bị rơi vào tình
cảnh mất mùa, có năm mất trắng ở một số xã đối với diện tích lúa nước năm 2005. Đây không chỉ là do thiên nhiên ngày càng biến đổi phức tạp khó lường
mà nó còn do một phần bàn tay con người gây ra. Việc thiếu ý thức trong bảo vệ rừng là một nguyên nhân điển hình gây ra nhiều lũ quét và lốc xoáy. Do tàn pha
rừng và mơi trường thiên nhiên nên tự nhiên khơng còn tn theo quy luật vốn có của nó nữa. Chính việc này gây ra hiệu quả sản xuất nông nghiệp tụt giảm
đáng kể. Không ai khác gánh chịu hậu quả này đó chính là người nơng dân. Khi
13
rơi vào cảnh mất mùa thì người nghèo lại càng nghèo hơn. Bên cạnh đó, ngồi sản xuất nơng nghiệp họ rất khó chuyển đổi canh tác. Một phần là vì địa hình
phức tạp, và một phần là do khí hậu hạn chế khả năng canh tác của họ. Chính vì vậy nghèo đói vẫn còn tồn tại và một phần là điều kiện tự nhiên gây nên.
• Yếu tố kinh tế- xã hội.
Nền kinh tế non trẻ do việc huyện mới được thành lập không lâu, sự ổn định cần thiết của nó cũng chỉ mới là bước đầu. Để có thể tạo cơ hội cho người
dân có nhiều việc làm hơn, có thu nhập cao hơn là từ nơng nghiệp thuần t vẫn phải có thời gian. Chính vì vậy khó có thể tránh khỏi sự chênh lệch về kinh tế
cũng như là thu nhập của ngưòi dân so với các địa phương khác. Thực tế cho thấy, khi kinh tế chưa thực sự ổn đinh, tác động của nó đến đời sống người dân
là rất lơn. Nó khơng chỉ gây ra tình trạng thiếu việc, thiếu cơ sở vật chất… mà còn kìm hãm chính sự phát triển của con người. Như vậy, người dân rơi vào
cảnh nghèo đói là một điều khó thể tránh khỏi. Hiện tượng này khơng chỉ xảy ra với huyện Như Thanh - Thanh Hoá mà còn xảy ra trên phạm vi tỉnh, cả nước và
trên toàn thế giới. Dẫu sao đây cũng chỉ là tác động của nền kinh tế-xã hội đối với tình hình đói nghèo. Tương lai thì cũng chính nền kinh tế sẽ đặt bút xố cho
tình hình đói nghèo. •
Yếu tố chính trị. Thực tế cơng tác Xố đói giảm nghèo ở huyện càn rất nhiều sự ủng hộ từ
nhân dân trong huyện và của các địa phương khác. Tức là có sự thống nhất về mọi mặt giữa trong và ngồi. Tuy nhiên, huyện lại có thành phần dân cư đa dạng,
việc thống nhất được quan điểm của họ khơng thể trong thời gian ngắn. Nhất là nền chính trị của huyện đang non trẻ, bộ máy lãnh đạo chưa thể trơn tru. Cũng
14
chính thực tế đó mà cơng tác Xố đói giảm nghèo tại huyện vãn còn rất nhiều khó khăn, làm cho đói nghèo vẫn còn tồn tại
2.2. Yếu tố chủ quan •
Do cơ chế, chính sách các cấp. Việc hoạch định ra những chính sách trên cơ sở chủ trương chính sách của Đảng,
Nhà nước và của tỉnh để áp dụng vào giải quyết thực tế đói nghèo của huyện là khơng đơn giản. Đối với bất cứ một chính sách nào cũng có 2 mặt của nó. Vì
vậy, trong qua trình thực hiện chương trình Xố đói giảm nghèo, bản thân những chính sách của huyện có tác động ngược lại. Tức là gây ra tình trạng nghèo đói
hơn, gây ra hoang mang cho người dân. Tuy nhiên đây cũng là thực tế hiếm hoi và thời gian tác động tiêu cực là không dài. Nhiều năm qua huyện ln nỗ lực
trong chương trình Quốc gia Xố đói giảm nghèo và đã đạt được rất nhiều thành tích điển hình. Nhìn nhận từ thực tế cho ta thấy thực trạng đói nghèo ngày một
giảm và đi tới kiểm sốt được. •
Do bản thân người nghèo. Đã có những dự án lớn, có những chương trình lớn nhằm đẩy lùi nạn
nghèo đói, tuy nhiên khơng phải chỉ có vậy là sẽ hết nghèo, hết đói. Bản thân người nghèo đều có thể quyết định cuộc sống của họ. Tuy nhiên, trong thực tế do
có tâm lý chủ quan, trơng chờ vào cấp trên từ đó nảy sinh tâm lý ỷ lại. Họ thiếu quyết tâm thoát nghèo nên đói nghèo vẫn tồn tại trong cuộc sống của họ. Đói
nghèo chỉ có thể xố được khi có sự nỗ lực từ chính bản thân người nghèo. Trên đây chỉ là một số yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến vấn đề nghèo đói.
Thực tế cho thấy nạn nghèo đói khơng thể giải quyết trong thời gian ngắn, chính
15
vì vạy mà những yếu tố ảnh hưởng đến nó cũng sẽ thay đổi theo thực trạng nghèo đói của từng nơi.
3. Ảnh hưởng của đói nghèo đến đời sống xã hội.
Vấn đề nghèo đói khơng chỉ gây ra những hậu quả cho bản thân người nghèo mà còn gây ra ảnh hưởng nghiêm trọng tới sự phát triển chung của tồn xã
hội. Ta có thể thấy được tác động của nghéo đói đến bản thân người nghèo và ảnh hưởng đến tồn xã hội thơng qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 1.1: Ảnh hưởng của nghèo đói đến đời sống xã hơi.
Nghèo đói dẫn đến
Bệnh tật Gia tăng dân số
Mơi trường sống Suy dinh dưỡng
Tệ nạn xã hội Thất học
Nghèo đói
Cản trở sự tăng trưởng kinh tế Kìm hãm sự phát triển con người
Bất bình đẳng xã hội Phá huỷ mơi trường
Ngu
ồn:Tài liệu tập huấn Cán bộ Xố đói giảm nghèo cấp huyện và xã-2006
Như vậy, muốn kinh tế phát triển được thì phải giải quyết được vấn đề nghèo đói.
Xố đói giảm nghèo là một trong những chính sách xã hội cơ bản hướng vào phát triển con người, nhất là người nghèo, tạo cơ hội cho họ tham gia vào
16
quá trình phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, để cho người nghèo có cơ hội và điều kiện tiếp cận các dịch vụ xã hội phát triển sản xuất tự vươn lên thốt khỏi
nghèo đói. 4. Kinh nghiệm xố đói giảm nghèo của các nước trên thế giới và của các địa
phương trong nước. 4.1. Kinh nghiệm Xố đói giảm nghèo của một số nước trên thế giới.
- Kinh nghiệm Xố đói giảm nghèo của nước Mỹ. Vào những năm 2000-2001 ở Mỹ có gần 20 dân số hay 44 triệu người
nghèo. Nạn đói nghèo diễn ra hết sức phức tạp đã làm cho đời sống kinh tế- xã hội Mỹ thay đổi đáng kể. Thống kê qua từng năm con số những người có thu
nhập dưới rang giới nghèo liên tiếp tăngmỗi năm tăng đến 0,5. Đây là dấu hiệu không tốt đối với nền kinh tế khổng lồ của Mỹ lúc này. Tuy nhiên cho đến
năm 2005, ở Mỹ hiện tượng đói nghèo vẫn hoành hành nhưng đã được khống chế và dần đi vào ổn định. Theo số liệu từ bản báo cáo của Cục điều tra dân số
tháng 8 năm 2005 thì ở Mỹ con số những người có thu nhập dưới ranh giới nghèo đã liên tục giảm mạnh qua các năm. Hiện nay chỉ có 10,7 dân số hay 37
triệu người nghèo và đã giảm đáng kể so với những năm trước đó giảm 2 so với năm 2004. Một gia đình 4 người được coi là nghèo khi chỉ có thể chi tiêu ít
hơn 19.310 đo la Mỹ trong một năm. Đối với những người độc thân thì ranh giới này ở vào khoảng 9.650 đơ la. Như vậy thu nhập và chi tiêu của người dân đa số
cao hơn rất nhiều so với mức chuẩn nghèo của quốc gia. Nhìn chung, bằng những giải pháp hiệu quả trong việc cơ cấu lại công tác tạo việc làm và chú trọng
chủ yếu vào nguồn nhân lực thì Mỹ đã giảm đáng kể tình trạng nghèo đói tồn tại
17
trong xã hội. Bước đầu đã cải thiện và đi tới xố bỏ hẳn tình trạng đói nghèo của đất nước.
Ngồi những bài học kinh nghiệm thu được từ cơng tác Xố đói giảm nghèo của Mỹ chúng ta cũng cần nghiên cứu các bài học kinh nghiệm đắt giá của
các nước khác trên thế giới như Đức, Áo… Những nước này khơng chỉ có dân cư đơng đúc mà thành phần dân cư cũng rất phức tạp do chịu nhiều đợt sóng di
cư khổng lồ trong những thập niên vừa qua. Tuy nhiên, việc Xố đói giảm nghèo tuỳ thuộc vào đặc điểm của từng quốc gia, những bài học đó chỉ là cơ sở để
nghiên cứu, việc áp dụng được hay khơng còn phả xem xét rất nhiều ở từng khía cạnh và thời kỳ cụ thể của nước ta.
4.2. Kinh nghiệm Xố đói giảm nghèo của một số địa phương trong nước. - Kinh nghiệm góp phần xóa đói giảm nghèo ở tỉnh Đồng Nai : Đưa
những cái thiếu về nông thôn, đến tận tay người nghèo. Đồng Nai được xem là một trong những địa phương thành công nhất trong việc
thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo. Bài học kinh nghiệm của tỉnh thì nhiều, nhưng dưới góc nhìn của Ban chỉ đạo xóa đói giảm nghèo Chính phủ, thì
các chính sách đem cái chữ đến cho người nghèo, gắn chế biến nông sản với vùng nguyên liệu và đưa ngân hàng về cơ sở của Đồng Nai là những nét nổi
bật. +Dạy chữ, dạy nghề cho người nghèo
Trước khi triển khai thực hiện giải pháp nâng cao dân trí cho người nghèo, tỉnh đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị về xây dựng trường lớp ở nơng thơn, các vùng
khó khăn và tiến đến kiên cố hóa. Có cái nền vững chắc như vậy cùng với phong trào xã hội hóa giáo dục của tỉnh diễn ra mạnh mẽ đã tác động đến ý thức của
18
người dân, đặc biệt là nông dân trong việc chăm lo cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Nhờ vậy, đến nay hầu hết các em tuổi từ 18 trở xuống đều có trình độ tốt
nghiệp trung học cơ sở. Tỉnh cũng chủ trương bên cạnh với công tác dạy chữ cần quan tâm đến
dạy nghề để giúp người dân có việc làm, thu nhập ổn định, thoát nghèo bền vững. Sở Lao động, thương binh và xã hội cùng ngành giáo dục - đào tạo đã tổ
chức được nhiều trường, khóa, lớp đào tạo nghề ngay tại các doanh nghiệp, tại các xã vùng sâu, vùng xa để người dân nghèo, trình độ văn hóa chưa cao được
học những ngành nghề phù hợp. Hiện nay, ngoài các trung tâm học tập cộng đồng có dạy nghề thì ở tất cả các huyện, thị xã trong tỉnh đều có nhiều trường,
lớp dạy nghề trên các lĩnh vực công nghiệp và nông nghiệp. Tỉnh cũng tiến hành nhiều chương trình tài trợ, hỗ trợ dạy nghề và giới thiệu việc làm cho con em
đồng bào dân tộc, gia đình chính sách, bộ đội xuất ngũ. Ước tính, bình qn mỗi năm có trên 1.000 học viên của tỉnh được đào tạo nghề miễn phí và giới thiệu
việc làm có thu nhập ổn định. + Đưa ngân hàng, nhà máy về với nơng thơn
Chương trình cung ứng vốn cho người nghèo của Đồng Nai đã triển khai thực hiện từ năm 1994. Đặc biệt, năm 2003, ngân hàng chính sách xã hội ra đời
thì mạng lưới của nó khơng chỉ dừng lại ở tỉnh, huyện mà còn mở nhiều điểm giao dịch tại các xã để tiếp cận dân. Một cách tiếp cận và mở rộng cho vay khác
của ngân hàng chính sách hội là liên kết với các tổ chức đoàn thể, như: Hội liên hiệp phụ nữ, Hội nơng dân, Đồn thanh niên, Hội cựu chiến binh để mở ra những
kênh chuyển tải vốn đến người vay nhanh chóng, kịp thời. Với cách làm này,
19
Ngân hàng chính sách xã hội tỉnh đã giải đáp được một phần bài tốn ngân hàng thừa tiền, nơng dân thiếu vốn.
Những bài học kinh nghiệm trên đây về cơng tác xóa đói giảm nghèo ở Đồng Nai chưa phải là tất cả nhưng cũng rất quan trọng đóng góp vào cơng cuộc
xóa đói giảm nghèo trong tỉnh đạt kết quả tốt đẹp. - Kinh nghiệm Xố đói giảm nghèo của huyện Nơng Cống- Thanh hố.
Từ khi thực hiện chương trình mục tiêu Quốc gia về Xố đói giảm nghèo, mỗi năm huyện đã giải quyết cho trên 15.000 lượt hộ nghèo được vay vốn sản
xuất với tổng số tiền trên 60 tỷ đồng, quan tâm tổ chức thực hiện có hiệu quả các dự án vốn vay giải quyết việc làm, vốn tương trợ, hỗ trợ lẫn nhau của các tổ chức
hội. Việc sử dụng vốn có hiệu qủa, đến nay hầu hết các hộ đã trả được nợ vay, số hộ nợ quá hạn không nhiều.
Những hộ nghèo thiếu đất sản xuất được tập trung giải quyết để hộ nghèo có đất và tư liệu sản xuất.Tập huấn kiến thức sản xuất các loại cây trồng, con
nuôi cho hơn 20.000 lượt người nghèo bằng nhiều hình thức như đi tham quan các mơ hình tiên tiến, hội nghị hội thảo đầu bừo, chuyển giao khoa học kỹ thuật.
Đã có hơn 10.000 hộ nghèo sử dụng giống mới, kỹ thuật canh tác mới trong chăn nuôi trồng trọt. Thực hiện chính sách trợ giá một số loại giống mới cho hộ nghèo
như: Lúa vụ mùa là 5.000đkg, lúa vụ chiêm là 3.000đkg, Ngô vụ đông là 3.000đkg... Trợ giá, trợ cước cho các sản phẩm thếit yếu như : muối, dầu hoả,
phân bón, giấy vở học sinh, than đá trong 5 năm là 3 tỷ đồng. Đã cấp 30.000 thẻ KCB cho người nghèo theo Quyết định 139 của Chính
phủ. Hàng năm có trên 15.000 lượt người nghèo được KCB miễn giảm phí tại cơ sơ y tế cấp huyện và gần 1000 lượt người được KCB miễn giảm phí ở các tuyến
20
y tế cấp trên. Số trẻ em được đúng độ tuổi là 8.479 em = 95,4. Trong thời gian qua huyện đã tiếp nhận hỗ trợ cho 535 hôộổn định dân cư thuộc diện di dân từ
các huyện và tỉnh khác.Huyện đã tổ chức được 12 lớp tập huấn nâng cao năng lực Xố đói giảm nghèo cho trưởng thơn với 450 học viên, hàng năm tập huấn
cho cán bộ làm cơng tác Xố đói giảm nghèo của 34 xã, thị trấn. Thực hiện cuộc vận động toàn dân hỗ trợ giúp đỡ hộ nghèo về nhà ở, trong
2 năm 2004-2005 đã hỗ trợ xây dựng được 1290 ngôi nhà cho hộ nghèo. Kết quả sau thời gian thực hiện mục tiêu giảm nghèo đã giảm được 18.08 hộ = 2.775
hộ thốt nghèo, nhưng cũng có 156 hộ thốt nghèo. Đến cuối năm 2005 còn 15 hộ nghèo = 2.630 hộ đạt 100 kế hoạch
Có được kết quả trên là do có sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng- HĐND-UBND-MTTQ và các đoàn thể, sự nổ lực cố gắng của các ban chỉ đạo,
tập thể, các nhân, các phòng, ban ngành, cơ quan đơn vị đã góp phần không nhỏ giảm tỷ lệ hộ nghèo theo đúng chỉ tiêu hàng năm đã đặt ra như: Xã Minh thọ, thị
trấn Chuối, Xã Vạn Hồ, Xã Thăng long...Trong đó, những đơn vị tiêu biểu xuất sắc là Hội nông dân, Phòng nơng nghiệp, Phong Nội vụ-LĐTBXH và mốt số
cơ quan đồn thể khác. 5. Sự cần thiết phải xố đói giảm nghèo ở huyện Như Thanh - Thanh Hố.
Nhìn nhận thực tế những tổn thất mà nghèo đói gây ra đối với Việt nam nói chung và địa phương nói riêng, chúng ta có thể khẳng định tầm quan trọng
của cơng tác Xố đói giảm nghèo.Một quy luật tất yếu đó là khi vấn đề nghèo đói được giải quyết thì đời sống của nhân dân nói riêng và nền kinh tế nói chung
đều tăng lên. Nếu như khơng còn nghèo đói thì xã hội sẽ bền vững phát triển.
21
Tỉnh Thanh hố nói chung và huyện Như Thanh - Thanh Hố nói riêng cũng khơng nằm ngồi quy luật đó. Nạn đói nghèo làm cho đời sống nhân dân
gặp rất nhiều khó khăn.Thực tế cho thấy khi người dân khơng có đủ điều kiện tối thiểu cho cuộc sống thì đời sống hàng ngày của họ vơ cùng khó khăn. Họ chỉ có
một mục đích duy nhất là duy trì cuộc sống ngồi ra khơng có mục đích nào khác. Như vậy, họ không quan tâm đến đời sống kinh tế xã hội xung quanh thay
đổi như thế nào. Điều đó gây ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát của nền kinh tế địa phương nói riêng và của huyện và tỉnh nói chung.
Nghèo đói khơng chỉ là vấn đề cấp bách cần giải quyết của địa phương nói riêng mà nó còn là mục tiêu hàng đầu của đất nước ta. Trong suốt những thập kỷ
qua, tình trạng nghèo đói kèo dài làm cho cuộc sống nhân dân gặp vơ vàn khó khăn. Nó gây ra những tệ nạn xã hội, những thách thức đối với toàn thể xã hội,
nó tác động xấu đến nhận thức của con người. Nhìn chung nó kìm hãm sự phát triển của con người về mọi mặt. Từ đó nó làm cho nền kinh tế xã hội càng trở
nên trì truệ hơn. Chính vì vậy, Xố đói giảm nghèo rất cần thiết và đòi hỏi phải duy trì trong suốt thời gian dài, khơng thể ngày một ngày hai.
Xố đói giảm nghèo là chương trình Quốc gia và được triển khai đến tất cả các địa phương trong nước. Mục đích lớn nhất của chương trình đó là giải quyết
mọi vấn đề để đưa cuộc sống nhân dân lên bằng hoặc cao hơn mức sống trugn bình. Hiện nay chương trình đã thực hiện ở tất cả các xã, thị trấn trong huyện.
Tuy nhiên, bước đầu của chương trình mới chỉ thu được kết quả là khơng còn xố đói mà chỉ còn nhiệm vụ là giảm nghèo. Đây cũng có thể coi là thành cơng
bước đầu của chương trình. Song khơng vì vậy mà sự cần thiết của nhiệm vụ giảm nghèo lại giảm đi. Nếu nghèo khơng giảm thì những hộ thuộc diện hộ
22
nghèo rất có thể trở thành hộ đói, như vậy thì sự nỗ lực của cán bộ và nhân dân xem như đổ xuống sông xuống biển. Chính vì vậy, phải ln thấy được sự cần
thiết của cơng tác Xố đói giảm nghèo. Nó khơng chỉ mang lại cho người nghèo một cuộc sống tốt đẹp hơn, bên cạnh đó nó có tác động tích cực đến mọi mặt của
đời sống xã hội. Từ những phân tích trên ta có thể kết luận rằng cơng tác Xố đói giảm
nghèo rất quan trọng và thực sự cần thiết. Sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế cũng như toàn bộ đời sống của nhân dân trong huyện phụ thuộc vào hiệu quả của
chương trình quốc gia Xố đói giảm nghèo. Nhìn chung, trong những năm vừa qua đời sống của nhân dân không ngừng được cải thiện. Điều này càng làm cho
vai trò của Xố đói giảm nghèo trong huyện quan trọng hơn về mọi mặt.
23
Phần 2: Đánh giá thực trạng đói nghèo ở huyện Như Thanh - tỉnh Thanh hoá giai đoạn 2001-2005.
I. Đặc điểm của huyện Như Thanh - Thanh Hoá. 1. Đặc điểm tự nhiên.
Như Thanh - Thanh Hoá là huyện miền núi, nằm ở phía tây nam của tỉnh Thanh Hố. Được thành lập theo Nghị Định 72CP, ngày 18111996 của Chính
Phủ. Huyện mới chính thức đi vào hoạt động theo đơn vị hành chính từ tháng 01 năm 1997. Tồn huyện có 16 xã và 1 thị trấn. Trong đó có 5 xã thuộc chương
trình 135. Tổng diện tích tự nhiên của tồn huyện là 58.733,42 ha, trong đó đất nơng nghiệp là 42.116,30 ha, đất phi nông nghiệp là 6.847,56 ha, còn lại là đất
chưa sử dụng 9.769,56 ha. Dân số của huyện theo số liệu thống kê vào ngày 012006 là 85.227 người, trong đó có 40.669 người trong độ tuổi lao động. Với 4
dân tộc anh em là Kinh, Thái, Mường, Thổ. Như Thanh - Thanh Hố còn có một số di tích lịch sử và khu du lịch sinh thái nổi tiếng như: Lò cao kháng chiến, chùa
thờ bà Triệu Thị Trinh, vườn Quốc gia Bến En. Với điều kiên như vậy thì đời sống của nhân dân trong huyện chủ yếu dựa
vào sản xuất Nông- Lâm nghiệp. Bên cạnh đó Huyện cũng đang tích cực tận dụng thế mạnh tự nhiên của mình để phát triển thêm nhiều ngành kinh tế khác
tiềm năng như du lich, khu công nghiệp chế biến lương thực thực phẩm... 2. Đặc điểm kinh tế.
Gần 10 năm thành lập và phát triển, nền kinh tế của huyện tăng trưởng khá và tương đối toàn diện. Tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm đạt 11,5 vượt
1,5Kế hoạch năm là 10, thu nhập bình quân đầu người đạt 2,37 triệu đồngnăm, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo đúng hướng, các chương trình dự án
24
thực hiện đã có những hiệu quả nhất định. Kết cấu hạ tầng phục vụ cho phát triển kinh tế được tăng cường, một số mục đã vượt kế hoạch. Diện tích gieo trồng năm
1997 là 9.435 ha, năm 2004 là 12.423 ha, giá trị sản xuất tính theo đầu người đến năm 2004 là 339 kgngườinăm. Cơ cấu kinh tế nông- lâm, tiểu thủ cơng nghiệp,
thương mại- dịch vụ đã có bước chuyển dịch cơ bản. Năm 1997 tỷ lệ tương ứng là 81,6; 7,5; 10,9, đến năm 2004 là 74,2; 11,4, 14,4. Trong đó sản
xuất nơng lâm chú trọng đưa giống lúa mới vào sản xuất chính, chuyển dịch và mở rộng vùng nguyên liệu mía : 2.978 ha phục vụ cho nhà máy mía đường Nơng
Cống. Gần 1.000 ha Dứa phục vụ cho nhà máy xuất khẩu nước dứa cô được xây dựng tại Như Thanh - Thanh Hoá. Trong chăn nuôi tiếp tục phát triển đầu tư con,
cũng như số lượng xuất chuồng, lai tạo giống có chất lượng tốt, bước đầu đã đưa mơ hình chăn ni lợn hướng nạc xuất khẩu ở một số xã với tổng đàn lợn là 134
con. Nét nổi bật trong sản xuất nơng - lâm nghiệp là trang trại rừng, tồn huyện có 144 trang trại cấp tỉnh và gần 300 trang trại nhỏ khác. Hàng hoá xuất khẩu
năm 1997 là 220.000 USD đến năm 2004 là 753.000 USD, chủ yếu là quặng Crôm và lạc vỏ. Kết cấu hạ tằn được đầu tư, trong 8 năm qua đã đầu tư được hơn
100 tỷ đồng, xây dựng 70 cơng trình phục vụ cho hoạt động quản lý Nhà nước và phát triển dân sinh kinh tế. Nâng cấp 25 km quốc lộ 45, tu sửa và cait tạo 81
đường liên xã, kiên cố hoá được 63,7 km kênh mương nội đồng, 100 công sở được xây dựng, kiên cố được 16 trạm hạ thế, 30km đường dây cao thế. Đến nay
đã có 1617 xã, thị trấn có điện lưới quốc gia, 1717 xã, thị trấn có điện thoại. 3. Đặc điểm văn hoá, xã hội.
Kinh tế phát triển là nhân tố phát triển văn hoá, giáo dục. Thực hiện Nghị Quyết Trung ương khóa XII và khố XIII và các Nghị Quyết văn hố, giáo dục
25
các cấp. Năm 1997 huyện đã cơng nhận và hoàn thành phổ cập tiểu học chồn mù chữ. Đến nay, tồn huyện có 84 trường tiểu học, 912 lớp và 28.756 học sinh. Số
trường lớp cơ bản đã được kiên cố hoá, số trường tranh tre nứa còn 3, khơng có tìng trạng học ca 3. Có 9 xã hoàn thành phổ cập cơ bản và 3 trường đạt chuẩn
quốc gia. Tồn huyện có 174 thơn bản, trong đó có 169 làng bản khai trương, xây dựng làng văn hố. Đã có 25 làng được cơng nhận làng văn hố cấp huyện, 3
làng được cơng nhận cấp tỉnh. Công tác chăm lo sức khoẻ cho nhân dân được chú trọng, cơ bản đã đẩy lùi
được bệnh sốt rét, tỷ lê giường bệnh trên 1 vạn dân là 20, 10 trên 6 trạm xá cấp xã đã có bác sỹ, chất lượng khám, chữa bệnh được đảm bảo, làm tốt cơng tác y tế
dự phòng , vệ sinh an tồn thực phẩm. Thực hiện tốt chương trình mở rộng, 85 gia đình gia đình được sử dụng nước sạch, số trẻ em suy dinh dưỡng còn 27.
Với kết quả trên, huyện nhà 4 năm liền được Chính phủ tặng cờ thi đua đơn vị dẫn đầu các huyện miền núi1998-2001 và được tặng thưởng Huân chương Lao
động hạng nhì. Kế thừa và phát huy thành tựu kinh tế xã hội ln giữ mức tăng trên 10. Vì vậy đời sống của nhân dân trong huyện luôn được nâng cao, an
ninh chính trị ngày càng được giữ vững. II. Đánh giá thực trạng đói nghèo ở huyện Như Thanh - Thanh Hố.
1. Quy mơ đói nghèo giai đoạn 2002-2006. 1.1. Giai đoạn 1997-2004.
Đây là giai đoạn khó khăn nhất của chương trình xóa đói giảm nghèo. Lý do quan trọng nhất là việc huyện vùă được hình thành, bản chất của đời sống
kinh tế xã hội chủ yếu dựa vào nơng nghiệp là chính. Ta có thể thấy quy mơ đói nghèo thơng qua bảng tổng hợp hộ nghèo đói từ năm 1997 đến năm 2002.
26
Bảng 1.2:Bảng tổng hợp hộ nghèo đói qua từ năm1997 đến năm 2002 Chỉ tiêu
Đvị tính
Các năm 1997
2000 2001
2002 2003
2004
Tổng số hộ tồn huyện
Hộ 45.567
45.876 46.876
47.369 47.693 47.978 Tổng số hộ
nghèo Hộ
1.156 1.000
936 876
786 650
Số hộ thoát nghèo
Hộ 123
124 126
130 135
150 Tỷ lệ hộ
nghèo 17
15 13
10 9,28
8,01
Ngu
ồn số liệu Sở LĐTBXH thống kê năm 2002.
Qua bảng trên ta thấy rằng, số hộ nghèo từ năm 1997 đến năm 2002 có xu hướng giảm, đây cũng là xu hướng tất yếu của chương trình quốc gia xố đói
giảm nghèo. Ngay như tất cả các nước trên thế giới nói chung và Việt nam nói riêng khi bắt đầu thực hiện chính sách Xố đói giảm nghèo thì số hộ nghèo qua
các năm đều giảm.Nhìn vào bảng số liệu ta có thể phân tích tình hình nghèo đói của huyện qua các năm dựa vào tiêu chí tỷ lệ hộ nghèo trên cơ sở số hộ thoát
nghèo. Năm 1997 tỷ lệ hộ nghèo là 17 và liên tục giảm qua các năm, đến năm 2001 là 9,28 và chỉ còn 8,01 vào năm 2002. Song song với tỷ lệ hộ nghèo
gảim thì số hộ thoát nghèo cũng giảm đáng kể, năm 1997 là 123 hộ và 135 hộ vào năm2001, đến năm 2002 đã tăng lên 150 hộ. Từ thực tế đó có thể khẳng định
hiệu quả của cơng tác Xố đói giảm nghèo trong những năm qua.Tuy nhiên tỷ lệ hộ nghèo vẫn chưa giảm một cách đáng kể vì vậy số hộ thoát nghèo qua các
năm vẫn chưa tăng rõ rệt. Khơng thể phủ nhận nỗ lực của tồn thể nhân dân cũng như các cấp chính quyền trong huyện. Song vẫn có nhiều khe hở trong cách thức
thực hiện Chương trình quốc gia Xố đói giảm nghèo. Nếu những vấn đề này
27
được khắc phục thì hiệu quả của cơng tác Xố đói giảm nghèo còn thể hiện rõ nét hơn rất nhiều.
Như chúng ta đã biết để phân loại hộ nghèo có thể phân loại theo 2 tiêu chí là tiêu chí cũ và tiêu chí mới. Chính vì vậy quy mơ đói nghèo cũng chịu ảnh
hưởng bởi việc phân loại theo tiêu chí. Phân loại hộ nghèo theo tiêu chí cũ thực hiện từ năm 2005 trở lại.
Theo chuẩn cũ huyện có tỷ lệ hộ đói nghèo là 37 vào năm 1997, hàng năm tỷ lệ hộ nghèo đói thay đổi cả về quy mơ và số lượng. Cho đến năm 2005
trở lại thì các tiêu chí về xã nghèo, hộ nghèo được tính theo tiêu chí cũ. Về hộ nghèo.
- Năm 2000: tồn huyện có 14.625 hộ, trong đó có tới 4.982 hộ đói nghèo chiếm 34 tổng số hộ trong toàn huyện.
- Bước vào năm đầu tiên thực hiện chương trình Quốc gia Xố đói giảm nghèo 2001 của huyện, tỷ lệ hộ nghèo toàn huyện cao 33,08 tương đương
là 5.348 hộ. - Năm 2002: Tồn huyện có 16.960 hộ, trong đó có 4.570 hộ đói nghèo
chiếm 29,37 tổng số hộ trong tồn huyện. - Năm 2003: Tồn huyện có 16.138 hộ , trong đó có 4.276 hộ đói nghèo
chiếm 225.7 tổng số hộ trong tồn huyện. - Năm 2004: Tồn huyện có 16.161 hộ, trong đó có 3.520 hộ đói nghèo,
chiếm 21.1 tổng số hộ trong toàn huyện. - Đến năm 2005, năm cuối cùng thực hiện cơng tác Xố đói giảm nghèo
giai đoạn 2001-2005 tồn huyện có 2.630 hộ nghèo chiếm 15 tổng số hộ trong toàn huyện.
28
Về xã nghèo. - Việc xác định xã nghèo được xác định dựa vào 2 nhóm chính đó là: Tỷ lệ
hộ nghèo từ 25 trở lên và có 6 cơng trình hạ tầng thiết yếu Điện, đường, trường, trạm, chợ, nước sạch sinh hoạt ở dưới chuẩn. Như vậy tính đến năm
2001 tồn huyện có 5 xã có tỷ lệ hộ nghèo từ 25 đến dưới 30, 5 xã có tỷ lệ hộ nghèo từ 30 đến dưới 40, 7 xã có tỷ lệ hộ nghèo từ 40 trở lên và đặc
biệt trong đó có 1 xã có tỷ lệ hộ nghèo trên 60. Cơ sở hạ tầng thiết yếu: Theo báo cáo của một số ngành và địa phương,
tính đến năm 2001: - Điện: Còn 2 xã chưa có trạm cấp điện đến trung tâm xã hoặc nguồn
Diezen, chiếm 30,5. - Đường giao thông đến trung tâm xã: còn 1 xã xe ơ tơ chưa đến được
quanh năm, chiếm 9,16. - Trường học: còn khoảng 236 phòng học tạm, tranh tre, và thiếu khoảng
120 phòng học. - Chợ hoặc trung tâm cụm xã: Còn 2 xã chưa có một trong 2 cơng trình
trên, chiếm 48,09. - Nước sạch dùng cho sinh hoạt nông thôn: có khoảng 34-35 số người
khơng được dùng nước sạch, ở vùng cao và vùng sâu tỷ lệ này còn thấp hơn. Ta có thể nhìn nhận rõ hơn qua bảng tổng hợp dưới đây.
29
Bảng 2.2: Tổng hợp hộ nghèo còn lại năm 2005 theo tiêu chí cũ TT
Đơn vị Tổng
số hộ Hộ nghèo
năm 2001 Hộ nghèo
năm 2005 Ghi
chú Số hộ
Tỷ lệ Số hộ
Tỷ lệ
1 Thanh Kỳ 735
282 53,0
180 24,5
2 Thanh Tân 1.149
460 54,0
300 26,1
3 Yên Lạc 997
306 35,0
135 13,6
4 Xuân Thái 690
385 60,5
254 36,8
5 Xuân Thọ 412
194 54,0
107 26,2
6 Yên Thọ 1.938
523 28,4
220 11,3
7 Xuân Phúc 705
281 42,0
210 29,8
8 Phúc Đường 425
92 21,6
20 4,7
9 Hải Vân 810
176 12,0
20 2,5
10 Hải Long 747
152 14,5
40 5,4
11 Xuân Khang 1.183
452 37,5
190 16,1
12 Phú Nhuận 1.651
338 22,0
110 6,7
13 Mậu Lâm 1.614
507 32,0
280 17,4
14 Phượng Nghi 752
378 51,0
200 26,6
15 Xuân Du 1.410
430 33,1
216 15,3
16 Cán Khê 1.180
392 35,7
135 12,3
17 TT.B Sung 1.143
Chưa chia tách 13
1,1
Tổng cộng 17.541
5.348 33,08
2630 15,0
Ngu
ồn số liệu Sở LĐTBXH thống kê năm 2005.
Nhìn chung quy mơ đói nghèo của các xã và thị trấn không đồng đều nhau. Năm 2001 xã có số hộ nghèo cao nhất là Xuân Thái 60 và xã có tỷ lệ hộ nghèo
thấp nhất là Hải Vân 12. Đên năm 2005 xã Xuân Thái vẫn chưa thể thốt khỏi cảnh nghèo đói gay gắt và vẫn là xã có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất 36,8.Tuy
nhiên với lợi thế mới được chia tách thì thị trấn Bến Sung có tỷ lệ nghèo thấp nhất và sau Thị trấn vẫn là Hải Vân. Ngoài những xã trên thì các xã khác vấn đề
nghèo đói cũng diễn biến khá phức tạp. Tuy nhiên để có một cách nhìn tổng thể
30
ta chỉ xoay quanh những xã trọng điểm. Có sự chênh lệch lớn về quy mơ các hộ đói nghèo có thể kể đến một trong các nguyên nhân sau: đó là điều kiện tự nhiên
khác biệt nhau, các xã vùng núi cao bao giờ cũng khó khăn hơn vì thực chất đời sống của người dân chủ yếu dựa vào nông nghiệp; Các xã nghèo đại bộ phận dân
cư mới di chuyển đến, chưa quen vơí lối sống thuần nơng, thuần t... và còn có rất nhiều ngun nhân khác. Nhìn một cách tổng thể thì tồn huyện tỷ lệ hộ
nghèo theo tiêu chí cũ là tương đối cao năm 2001 là 33,08tương ứng với 5.348 hộ nghèo trên tổng số 17.541 hộ toàn huyện. Đến năm 2005 tỷ lệ hộ
nghèo giảm xuống còn 15 tương ứng với 2.630 hộ nghèo trên tổng số 17.541 hộ toàn huyện. Kết quả đem lại khá nhiều điều khả quan, tuy nhiên thực tế vẫn
cho thấy huyện là một trong những huyện có tỷ lệ hộ nghèo cao, quy mơ các hộ nghèo lớn Với tiêu chí phân loại cũ.
1.2. Giai đoạn 2005-2006. Việc phân loại hộ nghèo theo tiêu chí mới bắt đầu áp dụng vào giai đoạn
2006-2010. Như vậy để có thể thấy được tình trạng đói nghèo của huyện kể từ năm 2006 như thế nào và hiệu quả của chương trình xố đói giảm nghèo có thực
sự như thực tế hay khơng thì cần phân tích cả số liệu về hộ nghèo năm 2006. Phân loại hộ nghèo theo tiêu chí mới: Theo Quyết định số 143200QĐ-
TTg và Quyết định số 1702005QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ thì phân loại hộ nghèo theo theo tiêu chí mới được căn cứ như sau và áp dụng theo các chỉ
tiêu và chuẩn mức như bảng dưới đây. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào đặc điểm cụ thể của từng địa phương trong tồn quốc mà chuẩn nghèo mới có thể thay đổi.
31
Bảng 3.2: Chỉ tiêu phân loại hộ nghèo theo tiêu chí mới áp dụng cho các địa phương trong nước.Đơn vị : đồng.
Chỉ tiêu 2000
2005 Trước năm 2000
Khu vực nông thôn miền núi và hải đảo
80.000 180.000
45.000
Khu vực nông thôn đồng bằng
100.000 220.000
70.000
Khu vực thành thị 150.000
260.000 100.000
Nguồn: Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 1432000QĐ-TTg và Quyết định 1702005QĐ-TTg.
Qua bảng trên ta thấy rằng, mức thu nhập để xác định hộ nghèo tăng từ năm 2000 đến năm 2005 rất đáng kể. Việc tiêu chí phân loại dựa vào mức thu
nhập tăng là do đời sống nhân dân tăng lên, mức lương tối thiểu tăng nhanh qua các năm. Chính vì vậy, trên cơ sở quyết định của Thủ tướng Chính phủ số
1432000QĐ-TTg và Quyết định 1702005QĐ-TTg.Huyện Như Thanh - Thanh Hoá phân loại hộ nghèo theo tiêu chí mới được thống kê như bảng 3 dưới đây.
Tuy nhiên việc phân loại này không có sự khác biệt về tính chất nghèo đói mà chỉ làm thay đổi quy mô, tỷ lệ hộ nghèo của toàn huyện cũng như của các xã và
thị trần trong huyện. Điều này làm thay đổi quan niệm Xoá đói giảm nghèo trước đây. Việc phân loại hộ nghèo theo tiêu chí mới giúp ta nhận rõ thực trạng đói
nghèo của huyện khi so sánh với các huyện khác trong nước.
32
Bảng 4.2:Tổng hợp hộ nghèo năm 2006 theo tiêu chí mới TT
Đơn vị Tổng
số hộ Hộ nghèo
năm 2005 Hộ nghèo
năm 2006 Ghi
chú
Số hộ Tỷ lệ
Số hộ Tỷ lệ
1 Thanh Kỳ 768
180 24,5
539 70,2
2 Thanh Tân 1.244
300 26,1
714 57,4
3 Yên Lạc 998
135 13,6
606 60,7
4 Xuân Thái 680
254 36,8
483 71,0
5 Xuân Thọ 417
107 26,2
226 54,1
6 Yên Thọ 1.847
220 11,3
713 38,6
7 Xuân Phúc 717
210 29,8
542 75,6
8 Phúc Đường 406
20 4,7
97 23,9
9 Hải Vân 784
20 2,5
60 7,6
10 Hải Long 748
40 5,4
98 13,0
11 Xuân Khang 1.269
190 16,1
644 51,0
12 Phú Nhuận 1.630
110 6,7
658 40,3
13 Mậu Lâm 1.664
280 17,4
651 39,1
14 Phượng Nghi 838
200 26,6
606 72,3
15 Xuân Du 1.397
216 15,3
513 36,7
16 Cán Khê 1.104
135 12,3
584 52,9
17 TT.B Sung 1.171
13 1,1
79 6,7
Tổng cộng 17.682
2.630 15,0
7813 44,19
Ngu
ồn số liệu Sở LĐTBXH thống kê đầu năm 2007.
Nghiên cứu số liệu từ năm 2005 trở lại ta có thể thất rõ thực trạng đói nghèo của huyện Như Thanh - Thanh Hoá trong những năm qua. Mặc dù Tỉnh
và huyện đã có rất nhiều giải pháp thực hiện Chương trình xố đói giảm nghèo, tuy nhiên tình trạng nghèo đói vẫn tồn tại. Song khơng thể phủ nhận hiệu quả
của chươgn trình xố đói giảm nghèo và sự nỗ lực của toàn thể cán bộ và nhân dân trong huyện.
33
Để thấy rõ được thực trạng đói nghèo của huyện và hiệu quả chương trình xố đói giảm nghèo thực hiện trong những năm qua ta có thể phân tích số liệu về
tình hình nghèo đói năm 2006. Từ năm 2005 đến năm 2006 việc thống kê các hộ nghèo theo tiêu chí mới
của đầu năm ln đi kèm theo kế hoạch giảm nghèo của huyện trong năm đó. Như vậy có thể thấy rõ hơn hiệu quả của cơng tác Xố đói giảm nghèo thực tế
của huyện.
Bảng 5.2 : Thống kê các hộ nghèo năm 2006 TT
Đơn vị Tổng
số hộ Hộ nghèo đầu
năm 2006 KH giảm nghèo
năm 2006 Ghi
chú
Số hộ Tỷ lệ
Số hộ Tỷ lệ
1 Thanh Kỳ 768
539 70,2
50 6.5
2 Thanh Tân 1.244
714 57,4
70 5.6
3 Yên Lạc 998
606 60,7
78 7.8
4 Xuân Thái 680
483 71,0
40 5.8
5 Xuân Thọ 417
226 54,1
25 5.9
6 Yên Thọ 1.847
713 38,6
95 5.1
7 Xuân Phúc 717
542 75,6
55 7.6
8 Phúc Đường 406
97 23,9
20 4.9
9 Hải Vân 784
60 7,6
12 1.5
10 Hải Long 748
98 13,0
13 1.7
11 Xuân Khang 1.269
644 50,7
80 6.3
12 Phú Nhuận 1.630
658 40,3
100 6.1
13 Mậu Lâm 1.664
651 39,1
78 4.7
14 Phượng Nghi 838
606 72,3
50 5.9
15 Xuân Du 1.397
513 36,7
80 5.7
16 Cán Khê 1.104
584 52,9
60 5.4
17 TT.B Sung 1.171
79 6,7
13 1.1
Tổng cộng 17.682
7.813 44,19
919 5.2
Ngu
ồn số liệu Sở LĐTBXH thống kê năm 2006.
34
Dựa vào bảng 3 và bảng 4 ở trên ta thấy rằng khi áp dụng cách phân loại hộ nghèo theo tiêu chí mới thì tỷ lệ hộ nghèo rất cao. Điều này cũng phản ánh
đúng thực tế. Vì khi phân loại theo tiêu chí mới về các hộ và xã nghèo đòi hỏi cao hơn về mọi mặt so với tiêu chí cũ. Chính lí do đó làm cho tỷ lệ hộ nghèo cao
hơn ở năm 2006 so với các năm trước đó. Năm 2006 là năm đầu tiên thực hiện chương trình giảm nghèo theo tiêu chí mớigiai đoạn 2006-2010, tỷ lệ hộ nghèo
tồn huyện cao 44,19. Trong khi đó điều kiện về cơ sở hạ tầng còn thiếu và chưa đồng bộ ở hầu hết các địa phương. Bên cạnh đó ngành nghề phụ chưa phát
triển, trình độ dân trí còn thấp, đại bộ phận người nghèo chưa có ý thức tự vươn lên thốt nghèo.
Khơng chỉ do phân loại hộ nghèo theo tiêu chí mới làm cho tỷ lệ họ nghèo tăng lên, có thể nói một trong những lý do quan trọng nhất làm cho quy mơ đói
nghèo năm 2006 tăng cao đó là ảnh hưởng nặng nề của cơn bão số 7 tháng 122005. Thiệt hại do bão gây ra không chỉ về tái sản mà còn cả về con người đã
làm cho hộ nghèo lại càng nghèo hơn. Họ rơi vào cảnh thiếu đói triền miên, gây ảnh hưởng xấu đến đời sống kinh tế xã hội. Tuy nhiên, sau đó huyện đã có
những chính sách cứu đói và hỗ trợ về mọi mặt để nhân dân ổn định đời sống, vì vậy mà kê hoạch giảm nghèo năm 2006 là tương đối hợp lý. Nếu năm 2006 đạt
được như kế hoạch thì quy mơ đói nghèo sẽ gairm đáng kể. Và vì vậy hiệu quả bước đầu của giai đoạn 2006-2010 của chương trình quốc gia xố đói giảm
nghèo là một tiền đề quan trọng cho cả giai đoạn. Huyện được chia tách từ năm 1997, khi mới được chia tách huyện có 34
hộ nghèo và 1,66 hộ chính sách. Xác định được thực tế đó hàng năm kê hoạch giảm nghèo của Huyện Uỷ và Uỷ ban nhân dân đều hướng mục tiêu là giảm từ
35
3-4năm. Đây là một thách thức tuy nhiên nó cũng là động lực thúc đẩy cơng tác Xố đói giảm nghèo của huyện.
2. Cơ cấu đói nghèo phân theo các tiêu chí. Có nhiều hình thức và phương pháp để đáng giá thực trạng cơ cấu đói
nghèo của huyện.Tuỳ thuộc vào quy mô các hộ nghèo khác nhau mà việc hình thành nên các cơ cấu hộ nghèo cũng đa dạng và khác biệt nhau. Thực tế cho thấy
có các loại cơ cấu đói nghèo cơ bản như sau: 2.1.Cơ cấu hộ nghèo phân theo loại hình kinh tế và đối tượng xã hội:
Cơ cấu hộ nghèo phân theo loại hình kinh tế có nghĩa là xem xét trong các loại hình kinh tế tỷ lệ hộ nghèo cao thấp như thế nào. Và nhờ việc phân tích này
người ta đánh giá được chất lượng của các loại hình kinh tế nói đang tồn tại trong nề kinh tế của địa phương.
Cơ cấu hộ nghèo phân theo đối tượng xã hội thì đa dạng và khó đánh giá hơn phân loại theo loại hình kinh tế. Cơ cấu hộ nghèo hộ nghoè phân theo đối
tượng xã hội tức là xem xét xem trong các đối tượng xã hội của huyện tỷ lệ hộ nghèo cao thấp như thế nào, qua đó thấy được những đối tượng nào cần phải có
những biện pháp can thiệp ngay về tình trạng nghèo đói. Để thấy được hộ nghèo thực chất trong cơ cấu chung của nền kinh tế
huyện và trong các thành phần xã hội ta có thể phân tích thống kê sau:
36
Bảng 6.2 : Cơ cấu hộ nghèo phân theo loại hình kinh tế và đối tượng xã hội - năm 2005
Chỉ tiêu Tổng số
Tổng hộ nghèo ở huyện 2.630
100 1.Phân theo loại hình kinh tế
Hộ thuần nơng Hộ nơng kiêm ngành nghề
Hộ nuôi trồng thủy sản Hộ ngành nghề, dịch vụ
Hộ khác 1.653
237 76
256 452
58,38 11,63
4,07 10,42
15,50
2. Phân theo đối tượng xã hội Hộ gia đình chính sách, NCC
Hộ gia đình dân tộc Hộ già cả, neo đơn
Hộ đối tượng khác 244
4.366 438
2.862 3,1
55,9 6,2
34,8
Nguồn: Số liệu điều tra tháng12 2005-Sở LĐTBXH Qua bảng số liệu trên ta thấy được cơ cấu đói nghèo của huyện khi nhìn
nhận dưới góc độ phân chia hộ nghèo theo loại hình kinh tế xã hội và theo đối tượng xã hội.
Khi phân tích cơ cấu hộ nghèo phân theo loại hình kinh tế ta thấy rằng, đối với những hộ thuần nông tỷ lệ hộ nghèo rất cao 58,38. Đây cũng là tất yếu vì
nơng nghiệp thuần t ở vùng núi khơng có được hiệu quả cao. Người dân chủ yếu dựa vào nơng nghiệp trong khi để có được một vụ mùa bội thu, đủ để trang
trải cuộc sống hàng ngày quả là không đơn giản. Thực tế cho thấy, các hộ thuần nơng có khối lượng cơng việc khá vất vả tuy nhiên giá thành nông sản lại quá rẻ
mạt. Sản phẩm họ làm ra khơng thể có giá trị bằng của các hộ nông kiêm ngành nghề. Các hộ nơng kiêm ngành nghề, ngồi những nơng sản mà họ sản xuất ra để
37
phục vụ cuộc sống hàng ngày họ còn có thêm những sản phẩm như hàng thủ cơng, hàng gia công… Đây là nguyên nhân khiến cho hộ nơng kiêm ngành nghề
có tỷ lệ hộ nghèo thấp hơn hẳn các hộ thuần nơng 11,63. Nhìn chung, các loạ hình kinh tế như: ni trồng thuỷ sản; hộ ngành nghề dịch vụ có tỷ lệ hộ nghèo
thấp hơn các hộ làm nơng nghiệp và trong tương lai họ có cơ hội giảm nghèo nhanh hơn. Có thể thấy rõ đối với các hộ ni trồng thuỷ sản thì tỷ lệ hộ nghèo
chỉ có 4,07; các hộ ngành nghề dịch vụ là 10,42. Nguyên nhân làm cho tỷ lệ hộ nghèo oqr các nhóm này thấp là do sản phẩm họ làm ra được thị trường chấp
nhận với giá hợp lý, có thể đủ cho sinh hoạt hàng ngày và còn tạo ra sự tích luỹ. Chỉ có các hộ thuộc nhóm ngành nghề khơng ổn định có tỷ lệ hộ nghèo tương
đối cao 15,50, điều này là do họ khơng có sự ổn định trogn cơng việc. Họ có thể có cơng việc những chỉ là tạm bợ và thời gian để tìm việc khơng có giới hạn.
Khi nhìn nhận cơ cấu hộ nghèo phân theo đối tượng xã hội ta cũng thấy được thực trạng tương tự. Đối với các hộ dân tộc việc tỷ lệ hộ nghèo cao là đièu không
thể tránh khỏi55,9. Họ thiếu về mọi mặt, từ điểm xuất phát về văn hoá, kinh nghiệm cũng như là đièu kiện sản xuất kinh doanh.
Đối với các h
ộ gia đình chính sách, Hộ già cả, neo đơn người có cơng do có được mức trợ cấp thường
xuyên từ phía Nhà nước nên khía cạnh nào đấy cũng giúp họ ổn định đời sống hơn, do vậy tỷ lệ hộ nghèo chỉ là 3,1 và 6,2. Tỷ lệ hộ nghèo như vậy vẫn
cao tuy nhiên có thể chấp nhận được so với mặt bằng chung của toàn huyện. Tuy nhiên, với các hộ khác thì lại có sự khác biệt. Nhóm này có tỷ lệ hộ nghèo
cao34,8. Điều này là do đa số họ là những người nông dân, việc trang trải cuộc sống là tương đối khó khăn do thu nhập thấp. Qua phân tích bảng trên ta
thấy rắng cơ cấu phân loại hộ nghèo theo loại hình kinh tế và đối tượng xã hội
38
phản ánh rất đúng thực tế. Tuy nhiên để có thể căn cứ vào bảng cơ cấu này để áp dụng các biện pháp Xố đói giảm nghèo cũng cần cân nhắc vì các hộ cùng nhóm
khơng sống cùng một khu mà họ rải rác trên khắp địa bàn huyện. 2.2. Cơ cấu tổng thu của nông hộ nghèo theo ngành nghề.
Thu nhập của người nghèo luôn được đặt lên hàng đầu trong quan tâm của Đảng, Nhà nước cũng như địa phương. Chính vì vậy, tổng thu của hộ nghèo tại
các vùng trong huyện không những cho thấy được sự chênh lệch thu nhập giữa các vùng mà nó còn phản ánh chính xác thực trạng đói nghèo của huyện. Bảng 6
thống kê chi tiết thu nhập của các hộ nghèo.
Bảng 7.2: Cơ cấu tổng thu của nông hộ nghèo năm 2005 - theo ngành nghề
Tính bình qn trên hộ ĐVT: 1000 đồng
Chỉ tiêu Vùng Đồng
bằng Vùng miền
núi Vùng cao
Bình quân Giá trị
Giá trị
Giá trị
Giá trị
Tổng thu bình quânhộ
11.278 100 10.471 100 9.621 100
10.456 100 1.Sản xuất nông
nghiệp - Trồng trọt
- Chăn nuôi 9.890
7.457 2.433
87,7 75,4
24,6 8.241
6.032 2.209
78,7 73,2
26,8 4.762
3.290 1.472
49,5 69,1
30,9 7.631
5.593 2.038
72,9 73,3
26,7 2. Sản xuất lâm
nghiệp 356
3,4 358
5,6 298
2,9 3. Ngành nghề,
dịch vụ 428
3,8 303
2,9 452
4,7 394
3,8 4. Từ hoạt động
khác 960
8,5 1.205 11,5 2.029
19,2 1.337
12,8 Nguồn: Số liệu điều tra tháng12 2005-Sở LĐTBXH
39
Qua bảng trên ta thấy, thu nhập của các hộ khá đa dạng và sự chênh lệch giữa các khoản thu là rõ ràng. Do sự khác nhau về địa lý cũng như là điều kiện
kinh tế xã hội nên giữa vùng đồng bằng, vùng núi,vùng sâu cũng có sự khác biệt về thu nhập của các hộ. Thực tế việc phân ra thành vùng núi và vùng cao, vùng
sâu là khơng rõ ràng. Vì ở huyện chỉ có 2 xã được cơng nhân là xã vùng cao. Tuy nhiên 2 xã này đều có quy mơ rộng và dân số đông nên cơ cấu thu nhập được
phản ánh trên biểu đồ cơ cấu khá rõ nét. Đối với các xã thuộc vùng đồng bằng, thu nhập nình quânnăm là
11.278.000 đ , với các xã vùng núi là 10.471.000đ và đối với các xã thuộc vùng cao là 10.456.000đ. Có sự chênh lệch về thu nhập bình quân năm của các vùng
chủ yếu là do điều kiện kinh tế xã hội và trình độ dân trí. Ở các xã vùng đồng bằng thì thuận lợi hơn rất nhiều về mơi trường sản xuất kinh doanh, thị trấn của
huyện là trung tâm của khu vực đồng bằng. Khu vực này có thế mạnh là sản xuất nông nghiệp thu nhập là 9.890.000đ tương ứng với 87,7 và các ngành nghề
khác như công nhân viên chức, doanh nghiệp tư nhânthu nhập là 960.000đ tương ứng với 8,5…. Bên cạnh đó ngành kinh doanh dịch vụ tuy mới mẻ
nhưng cũng đem lại cho người dân thu nhập tương đối ổn định thu nhập là 428.000đ tương ứng với 3,5. Khu vực miền núi tuy mức thu nhập thấp hơn
tuy nhiên cũng đảm bảo phần lớn đời sống nhân dân. Ở vùng miền núi và vùng cao mặc dù kém hơn về nơng nghiệp nhưng họ có thêm thu nhập từ hoạt động
lâm nghiệp. Cơ cấu thu nhập nói chung khơng chênh lệch nhau nhiều giữa các ngành. Vùng núi nông nghiệp là 8.241.000đ tương ứng 78,7, lâm nghiệp là
356.000tương ứng là 3.4, từ ngành nghề dịch vụ là 301.000đtương ứng 2,9, từ hoạt động khác là 1.250.000đtương ứng 11,5. Đối với vùng cao thu
40
nhập từ sản xuất nông nghiệp là 4.762.000đ tương ứng 49,5, từ lâm nghiệp là 358.000đ tương ứng 5,6, từ ngành nghề dịch vụ là 452.000đ tương ứng
4,7 và từ các ngành nghề khác là 2.029.000đ tương ứng 19,2. Có thể thấy rằng ở các xã thuộc vùng cao thu nhập từ nông nghiệp thấp là do cây trồng chủ
yếu là cây ngắn ngày năng suất thấp. Tuy nhiên thu nhập từ các ngành nghề khác lại khá cao, điều này là do có các nhà đầu tư khai thác tiềm năng của thiên nhiên
như rừng, khống sản…Nhờ đó tạo được cơng ăn việc làm và thu nhập cho người dân
Nhìn chung sự vượt trội của khu vực đồng bằng với các khu vực còn lại là khơng rõ ràng, đó chỉ là sự khác biệt chung mà bất cư một địa phương hay quốc
gia nào cũng đều tồn tại.Việc xoá đi khoảng cách về thu nhập giữa các vùng là chưa thể, vì dù sao phong tục tập quán, thói quen sản xuất của nhân dân trong
huyện không thể thay đổi trong ngày một ngày hai. Dựa vào bảng số liệu trên ta đánh giá được hiệu quả của các ngành nghề
mà nhân dân trong huỵện đang duy trì. Từ đó, cho thấy những ngành nghề nào là phù hợp với người nghèo, giúp được họ thốt khỏi cảnh nghèo đói. Như vậy, đây
sẽ là cơ sở để tăng hiệu quả của chương trình Quốc gia Xố đói giảm nghèo. Và nó cũng là cơ sở cho những hoạch định phát triển kinh tế, phát triển con người
của huyện trong thời gian sắp tới. 2.3. Cơ cấu thu nhập của các nông hộ nghèo.
Việc áp dụng những ngành nghề hiệu quả với người nghèo không những mạng lại thu nhập cao hơn cho họ mà còn giúp họ có cơ hội thốt khỏi cảnh
nghèo đói. Bảng 7 là số liệu thống kê cơ cấu thu nhập của các nông hộ nghèo trong năm 2005.
41
Bảng 8.2: Cơ cấu thu nhập của các nông hộ nghèo năm 2005 Chỉ tiêu
Đồng bằng
Vùng miền núi
Vùng cao
Bình quân
1.Thu nhập BQ lao độngtháng 1000đ
187,63 183,14
181,65 184,32
2.Thu nhập BQ khẩutháng 1000 đ
76,90 72,44
64,26 70,74
3.Cơ cấu thu nhập Thu từ trồng trọt
Thu từ chăn nuôi Từ lâm nghiệp
Từ nuôi trồng thuỷ sản Từ ngành nghề, dịch vụ
Từ nguồn khác 100,00
61,80 22,00
15,10 8,90
15,30 100,00
53,90 21,40
4,00 5,20
10,00 100,00
30,60. 18,60
5,00 4,10
8,50 100,00
48,70 20,70
4,50 15,10
6,10 11,03
Nguồn: Số liệu điều tra tháng12 2005-Sở LĐTBXH Từ bảng trên ta có thể thấy rằng, đối với những huyện miền núi như huyện
Như Thanh -Thanh Hố thì trong tổng thu nhập của nơng hộ nghèo nói chung và của nhân dân trong huyện nói riêng chủ yếu từ trồng trọt và chăn ni. Thu nhập
bình qn lao độngtháng và thu nhập bình qn khẩutháng giữa 3 vùng khơng chênh lệch nhau đáng kể. Ở vùng vùng đồng bằng thu nhập bình quân lao
độngtháng là 187,63 ngđ và thu nhập bình quân khẩutháng là 76,90 ngđ. Vùng núi có thấp hơn nhưng khoảng cách khơng xa lắm , thu nhập bình quân lao
độngtháng là 183,14 ngđ và thu nhập bình quân khẩu tháng là 72,44ngđ. Miền núi vẫn có cơ cấu thu nhập trung gian, tức là thấp hơn vung đồng băng nhưng lại
cao hơn khu vực vùng cao. Ở khu vực vùng cao thu nhập bình quân lao độngtháng là181,65 ngđ và thu nhập bình quân khẩutháng là 64,26 ngđ. Sự
chênh lệch về thu nhập bình qn giữa các vùng khơng đáng kể làm cho thu nhập trung bình các nơng hộ nghèo của tồn huyện cũng ở mức trung bình. Có
42
thể thấy rằng khi có sự cân bằng về thu nhập của các vùng thì vấn đề đói nghèo vẫn chưa thể giải quyết được. Thực tế sự tương trợ lẫn nhau giữa các vùng trong
cơng tác Xố đói giảm nghèo là rất ít. Cũng dẽ hiểu vì sự khác biệt về điều kiện sống khơng chênh lệch nhau, điều đó làm cho các vùng được xem là như nhau.
Trong thu nhập của người dân nghèo thì thu nhập từ trồng trọt và chăn nuôi là hai nguồn thu lớn nhất.Từ bảng trên ta có thể thấy rằng trong 100 thu
nhập thì ở khu vực đồng bằng có tới 61,80 là từ trồng trọt và chăn nuôi. Ở khu vực miền núi cũng vậy 53,90 và 30,60 tại khư vực vùng cao. Ngoài nguồn
thu chủ yếu từ chăn ni và trồng trọt thì thu nhập từ các nguồn khác của người dân là khơng đáng kể. Có thể hiểu vấn đề này như sau:
 Thứ nhất là do từ những năm trước đây, nông nghiệp thuần tuý là ngành nghề nuôi sống người dân trong huyện nói chung và của nơng họ nghèo
nói riêng. Một số mơ hình trồng trọt điển hình đang áp dụng đối với nơng hộ nghèo đó là : trồng lúa nước, trồng cây cơng nghiệp ngắn ngày như
mía, dứa… và trồng cây lâu năm như cây ăn quả. Thực tế, trong những năm gần đây thu nhập từ các mơ hình trên của người dân nghèo khơng
ngừng tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng. Điều quan trọng là với điều kiện tự nhiên của huyện thì ngành trồng trọt chắc chắn ngày sẽ càng
phát triển. Tuy nhiên, hiện nay vẫn có nhiều khó khăn đối với người dân nghèo trong huyện đối với vấn đề phát triển vùng nguyên liệu phục vụ
ngành công nghiệp chế biến thực phẩm như nguyên liệu mía, dứa…do họ .gặp phả khó khăn về nguồn vốn và phương thức thực hiện. Vấn đề đó
đã làm cho thu nhập của người dân giảm sút phần nào.
43
 Thứ hai là do sản lượng ngành trồng trọt tăng nhanh, nó đã thúc đẩy ngành chăn nuôi phát triển. Việc kết hợp giữa chăn nuôi và trồng trọt bước đầu
đang mang lại hiệu quả cho cơng tác Xố đói giảm nghèo của huyện trong những năm gần đây. Trong gần 2 năm trở lại đây, huyện đã liên tục triển
khai mơ hình “Ni cây gì và trồng cây gì”tới tồn thể nhân dân trong huyện đặc biệt là những nông hộ nghèo. Gắn với việc xây dựng các mơ
hình, huyện cũng đưa ra các chỉ đạo hướng dẫn tới người dân nghèo trong huyện. Nhờ đó thu nhập của người dân nghèo từ chăn ni cũng tăng lên
đáng kể.  Thứ ba là do thu nhập từ các ngành nghề khác không đem lại hiệu quả như
là trồng trọt và chăn nuôi. Vấn đề thu nhập người dân nghèo tăng lên so với các năn trước là yếu tố
thuận lợi cho cơng tác Xố đói giảm nghèo của huyện. Tuy nhiên cơ cấu thu nhập giữa các ngành kinh tế lại có sự chênh lệch khá lơn trong tổng thu của
nông hộ nghèo. Điều này gây ra sự thiếu hụt và lãng phí trong sản xuất kinh tế của người dân. Hiện tại huyện cũng đang tìm mọi cách khắc phục và cân
đối lại thu nhập của nhân dân. Với những nỗ lực này trong những năm tiếp theo cơ cấu thu nhập của người nghèo sẽ cân đối hơn và hiệu quả của công
tác Xố đói giảm nghèo sẽ cao hơn đới với đời sống của nhân dân tồn huyện nói chung và của nơng hộ nghèo nói riêng.
2.4.Cơ cấu chi tiêu của các nơng hộ nghèo. Thu nhập đã có dù ít hoặc nhiều, lựa chọn ngành nghề cũng có thể cân
nhắc. Tuy nhiên, có một vấn đề mà khơng thể đánh giá một cách chính xác và cụ thể đó là vấn đề chi tiêu của hộ nghèo.Việc so sánh chi tiêu của các hộ trung
44
bình, hộ khá, giầu với chi tiêu của hộ nghèo chỉ là tương đối. Mục đích chỉ để ta có thể dễ dàng nhận ra sự chênh lệch giữa các hộ. Thực tế sự chênh lệch có thể
lớn hơn rất nhiều. Dưới đây là bảng cơ cấu chi tiêu của các nông hộ nghèo.
Bảng 9.2: Cơ cấu chi tiêu của các nông hộ nghèo năm 2005 Chỉ tiêu
ĐVT Hộ đói,
nghèo Hộ trung
bình Hộ khá,
giàu
1. Thu nhập BQ hộ tháng 1.000đ
462,65 675,23
1.353,89 2. Chi tiêu BQ hộtháng
1.000đ 624,54
594,00 999,75
3. Chi tiêu BQ khẩutháng 1.000đ
95,50 110,00
215,00 4. Tích luỹ BQ hộtháng
1.000đ -161,92
81,23 354,14
5. Cơ cấu chi tiêu Chi cho ăn uống
Chi cho sinh hoạt Chi cho giáo dục, văn hóa
Chi cho y tế Chi khác
100,00 80,80
8,20 2,50
4,50 4,00
100,00 69,20
12,50 6,30
2,60 9,40
100,00 59,10
18,70 10,50
1,40 10,30
Nguồn: Số liệu điều tra tháng12 2005-Sở LĐTBXH Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy, đối với người nghèo, thu nhập của họ
chủ yếu chỉ dùng cho những nhu cầu thiết yếu như ăn uống80,80, sinh hoạt hàng ngày8,20 và tiền khám chữa bệnh4,50. Điều này phản ánh thu nhập
của họ chưa thể đáp ứng nhu cầu chi tiêu trong cuộc sống hàng ngày. Một điều có thể thấy ngay trên bảng số liệu đó là mức tiết kiệm của người nghèo hàng
tháng là khơng có, thậm chí là âm. Điều này đồng nghĩa với vấn đề đói và nợ của người nghèo. Việc chi tiêu chủ yếu là dành cho nhu cầu tối thiểu của cuộc sống
đã làm cho cơ cấu chi tiêu cho giáo dục và văn hố rất ítchỉ có 2,50. Do mức chi tiêu cho giáo dục và văn hoá quá thấp đã kéo theo nạn mù chữ và thất học đối
với con em của hộ nghèo. Đây lại là ngun nhân gây ra tình trạng nghèo đói. Nhìn cơ cấu chi tiêu của các hộ trung bình, hộ khá và hộ giàu ta có thể thấy rõ sự
45
thiếu hụt trong cuộc sống của người nghèo.Ổ hộ trung bình cũng có tới 6,30 chi tiêu cho giáo dục và ở hộ khá, hộ giàu là 10,50. Trong khi đó chi tiêu cho
ăn uống của các hộ này thấp hơn so với các hộ nghèohộ trung bình là 69,20 và ớ hộ khá, giàu là 59,10. Nguyên nhân là do số lượng thành viên trong gia
đình. Đối với các hộ nghèo, tình trạng đẻ nhiều lại rất phổ biến, do đó chi tiêu cho ăn uống cũng tốn kém hơn ở các nhóm hộ khác.
Thực tế cho thấy, so với thu nhập của hộ trung bình và hộ khá, giàu thì thu nhập của hộ nghèo nhỏ hơn. Thu nhập của họ chỉ xoay quanh chi tiêu cho ăn
uống và tiền khám chữa bệnh. Vì vậy những chi tiêu cho sinh hoạt và cho các hoạt động khác như vui chơi, giải trí…hầu như khơng đáng kể. Sự khác biệt rõ
ràng so với các nhóm hộ khác. Do gặp rất nhiều khó khăn trong việc cân đối chi tiêu đã làm ảnh hưởng
đến vấn đề tiết kiệm của người nghèo. Họ khơng có tiết kiêm như những nhóm hộ khác. Mức tiết kiệm của nhóm người nghèo -161,92 thấp hơn rất nhiều so
với nhóm hộ trung bình81,23 và 351,18 ở hộ khá, giàu. Đây cũng là vấn đề được quan tâm hàng đầu của ban chỉ đạo Xố đói giảm nghèo huyện. Làm sao để
tiết kiệm trong hộ nghèo được nâng lên, có như vậy họ mới thốt được nghèo.Việc nghèo đói kéo dài liên miên khơng thể giải quyết nhanh chóng tuy
nhiên có thể dựa vào cơ cấu chi tiêu của hộ nghèo để có những biện pháp hỗ trợ người nghèo trong cuộc sống hàng ngày của họ. Có như vậy mới có thể loại bớt
phần nào khó khăn mà họ gặp phải. Đó cũng là động lực để họ có thể thốt nghèo và vươn lên trở thành hộ trung bình và cao hơn nữa.
3. Phân bố đói nghèo trong huyện.
46
Nhìn chung thực tế các hộ nghèo nằm ở tất cả các xã kể cả thị trấn. Tuy nhiên so với mặt bằng các xã khác thì có một số xã có nhiều hộ nghèo hơn và
được xếp vào các xã nghèo nhất trong huyện. Những xã này chủ yếu là các xã thuộc vùng 135 và một số xã khác có điều kiện khí hậu, kinh tế xã hội ... không
thuận lợi cho đời sống của người dân và cho quá trình sản xuất. Bên cạnh các hộ đói nghèo được phân bố theo các xã thì ta cũng cần chú trọng tới phân bố hộ
nghèo theo tiêu chí đối tượng cụ thể. Để thấy rõ việc phân bố của đối tượng hộ nghèo theo tiêu này ta có thể dựa vào thống kê sau:
Bảng 10.2 : Phân bố hộ nghèo theo đối tượng năm 2005.
TT Đối tượng
Tổng số hộ trong toàn huyện
Số hộ nghèo
Tỷ lệ Ghi
chú 1
Hộ là người dân tộc 17.682
4.366 55,9
2 Hộ chính sách xã hội
17.682 438
6,2 3
Hộ chính sách NCC 17.682
244 3,1
4 Đối tượng khác
17.682 2.862
34,8
Ngu
ồn số liệu Sở LĐTBXH thống kê năm 2006. Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy rằng khi phân loại hộ nghèo theo tiêu
chí đối tượng đã có sự chênh lệch nhau khá rõ rệt giữa các nhóm.Đối với nhóm hộ là người dân tộc thì số hộ nghèo chiếm tỷ lệ lớn55,9 trong khi đó nhóm hộ
chính sách người có cơngNCC tỷ lệ hộ nghèo là không đáng kể 3,1 và 6,2 đối với nhóm hộ chính sách xã hội. Điều này được lý giải đơn giản như sau: Về
môi trường sống dường như khơng có sự chênh lệch đáng kể, tuy nhiên với hộ gia đình chính sách người có cơng và hộ chính sách xã hội họ có thêm thu nhập
hay nói chính xác hơn là phần phụ cấp của Nhà nước. Do đó, những hộ chính sách và người có cơng họ có mức sống cao hơn, ổn định hơn. Vì vậy số hộ nghèo
chiếm tỷ lệ thấp.
47
Việc các hộ nghèo phân bố không đồng đều là một trong những đặc điểm nổi bật với các huyện thuộc vùng núi. Như Thanh - Thanh Hoá cũng vậy, mặc dù
chỉ có 17 xã, thị trấn tuy nhiên đói nghèo dường như tồn tại ở tất cả địa phương. Và đối với bất kỳ nơi nào vấn đề nghèo đói ln luôn là vấn đề cấp thiết. Đối với
mỗi xã, thị trấn việc áp dụng các hình thức Xố đói giảm nghèo sao cho hiệu quả không đơn giản mà rất phức tạp. Chính vì vậy vẫn có một số xã thực tế rất nghèo
đói, đa số các hộ thuộc diện các hộ nghèo. Ta có thể thấy rõ hơn qua bảng số liệu sau:
Bảng 11.2 : Phân bố các hộ nghèo trong huyện năm 2005.
TT Tên xã, thị trấn Tổng số
hộ Sô hộ
nghèo Tỷ lệ
Thuộc diện Ghi chú
1 Thanh Kỳ
768 180
24,5 Vùng cao
2 Thanh Tân
1.244 300
26,1 Xã 135
3 Yên Lạc
998 135
13,6 Miền núi
4 Xuân Thái
680 254
36,8 Xã 135
5 Xuân Thọ
417 107
26,2 Xã 135
6 Yên Thọ
1.847 220
11,3 Miền núi
7 Xuân Phúc
717 210
29,8 Xã 135
8 Phúc Đường
406 20
4,7 Miền núi
9 Hải Vân
784 20
2,5 Miền núi
10 Hải Long
748 40
5,4 Miền núi
11 Xuân Khang
1.269 190
16,1 Miền núi
12 Phú Nhuận
1.630 110
6,7 Miền núi
13 Mậu Lâm
1.664 280
17,4 Miền núi
14 Phượng Nghi
838 200
26,6 Xã 135
15 Xuân Du
1.397 216
15,3 Miền núi
16 Cán Khê
1.104 135
12,3 Miền núi
17 TT.B Sung
1.171 13
1,1 Thị trấn
Tổng cộng 17.682
2.630 15,0
Ngu
ồn số liệu Sở LĐTBXH thống kê năm 2006.
48
Qua số liệu bảng trên ta thấy rằng ở các xã thuộc diện 135 số hộ nghèo vẫn còn rất cao. Huyện có 5 xã thuộc xã 135 tuy nhiên cả 5 xã đều có tỷ lệ hộ
nghèo cao nhất huyện. Thực tế điều tra cho thấy, ngồi nơng nghiệp thuần t thì người dân nghèo ở đây khơng có thêm ngành nghề phụ nào để tăng thêm thu
nhập. Hàng năm số gạo và tiền dùng cho việc cứu đói ở các xã này ln là vấn đề đau đầu với các cấp các ngành trong huyện. Ngân sách của huyện và xã có
hạn, trong khi việc cứu đói là cấp bách. Nhìn nhận khách quan cho thấy khó khăn của chương trình Xố đói giảm nghèo tại huyện mà đặc biệt là tại các xã
135. Tuy nhiên, các xã không thuộc đối tượng xã 135 thì cũng là các xã miền núi và vùng cao. Nghèo đói có giảm hơn song so với các địa phương khác vẫn còn
khá cao về số hộ nghèo. 4. Các nguyên nhân đói nghèo.
Nghèo đói vẫn tồn tại ở những nước có nền kinh tế phát triển bền vững và phổ biến nhất là ở những nước có nền kinh tế kém phát triển. Việt nam cũng vậy,
nghèo đói đang là vấn đề quan tâm hàng đầu của Đảng và nhà nước. Có nhiều ngun nhân làm cho tình trạng nghèo đói vẫn tồn tại. Có thể thấy rõ một số
nguyên nhân chủ của Việt nam nói chung và của huyện Như Thanh - Thanh Hố nói riêng như sau:
4.1. Đối với Việt nam nói chung. 4.1.1.Nguyên nhân lịch sử, khách quan:
Việt Nam là một nước nông nghiệp lạc hậu vừa trải qua một cuộc chiến tranh lâu dài và gian khổ, cơ sở hạ tầng bị tàn phá, ruộng đồng bị bỏ hoang, bom
mìn, nguồn nhân lực chính của các hộ gia đình bị sút giảm do mất mát trong
49
chiến tranh, thương tật, hoặc phải xa gia đình để tham gia chiến tranh, học tập cải tạo trong một thời gian dài.
Chính sách nhà nước thất bại: sau khi thống nhất đất nước việc áp dụng chính sách tập thể hóa nơng nghiệp, cải tạo cơng thương nghiệp và chính sách
giá lương tiền đã đem lại kết quả xấu cho nền kinh tế vốn đã ốm yếu của Việt Nam làm suy kiệt toàn bộ nguồn lực của đất nước và hộ gia đình ở nơng thơn
cũng như thành thị, lạm phát tăng cao có lúc lên đến 700 năm. Hình thức sở hữu: việc áp dụng chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu nhà nước và tập
thể của các tư liệu sản xuất chủ yếu trong một thời gian dài đã làm thui chột động lực sản xuất.
Việc huy động nguồn lực nông dân quá mức, ngăn sông cấm chợ đã làm cắt rời sản xuất với thị trường, sản xuất nông nghiệp đơn điệu, công nghiệp thiếu
hiệu quả, thương nghiệp tư nhân lụi tàn, thương nghiệp quốc doanh thiếu hàng hàng hóa làm thu nhập đa số bộ phận giảm sút trong khi dân số tăng cao.
Lao động dư thừa ở nông thôn không được khuyến khích ra thành thị lao động, khơng được đào tạo để chuyển sang khu vực cơng nghiệp, chính sách quản
lý bằng hộ khẩu đã dùng biện pháp hành chính để ngăn cản nông dân di cư, nhập cư vào thành phố.
Thất nghiệp tăng cao trong một thời gian dài trước thời kỳ đổi mới do nguồn vốn đầu tư thấp và thiếu hệu quả vào các cơng trình thâm dụng vốn của Nhà nước.
4.1.2.Nguyên nhân chủ quan: Sau 20 năm đổi mới đến năm 2005 kinh tế đã đạt được một số thành tựu
nhưng số lượng người nghèo vẫn còn đơng, có thể lên đến 26 4,6 triệu hộ do các nguyên nhân khác như sau:
50
Sai lệch thống kê: do điều chỉnh chuẩn nghèo của Chính phủ lên cho gần với chuẩn nghèo của thế giới 1USDngày cho các nước đang phát triển làm tỷ
lệ nghèo tăng lên. Việt Nam là nước nơng nghiệp đến năm 2004 vẫn còn 74,1 dân sống ở nơng
thơn trong khi tỷ lệ đóng góp của nơng nghiệp trong tổng sản phẩm quốc gia thấp. Hệ số Gini là 0,42 và hệ số chênh lệch là 8,1 nên bất bình đẳng cao trong
khi thu nhập bình qn trên đầu người còn thấp. Người dân còn chịu nhiều rủi ro trong cuộc sống, sản xuất mà chưa có các
thiết chế phòng ngừa hữu hiệu, dễ tái nghèo trở lại như: thiên tai, dịch bệnh, sâu hại, tai nạn lao động, tai nạn giao thông, thất nghiệp, rủi ro về giá sản phẩm đầu
vào và đầu ra do biến động của thị trường thế giới và khu vực như khủng hoảng về dầu mỏ làm tăng giá đầu vào, rủi ro về chính sách thay đổi khơng lường trước
được, rủi ro do hệ thống hành chính kém minh bạch, quan liêu, tham nhũng. Nền kinh tế phát triển không bền vững, tăng trưởng tuy khá nhưng chủ
yếu là do nguồn vốn đầu tư trực tiếp, vốn ODA, kiều hối, thu nhập từ dầu mỏ trong khi nguồn vốn đầu tư trong nước còn thấp. Tín dụng chưa thay đổi kịp
thời, vẫn còn ưu tiên cho vay các doanh nghiệp nhà nước có hiệu quả thấp, khơng thế chấp, môi trường sớm bị hủy hoại, đầu tư vào con người ở mức cao
nhưng hiệu quả còn hạn chế, số lượng lao động được đào tạo đáp ứng nhu cầu thị trường còn thấp, nơng dân khó tiếp cận tín dụng ngân hàng nhà nước,
Ở Việt Nam, sự nghèo đói và HIVAIDS tiếp tục phá hủy từng kết cấu của tuổi thơ. Các em không được thừa hưởng quyền có một tuổi thơ được thương yêu,
chăm sóc và bảo vệ trong mái ấm gia đình hoặc được khích lệ phát triển hết khả năng của mình. Khi trưởng thành và trở thành cha mẹ, đến lượt con cái các em
51
có nguy cơ bị tước đoạt các quyền đó vì các hiểm họa đối với tuổi thơ lặp lại từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Sự chênh lệch lớn giữa các vùng miền, thành thị và nông thôn, giữa các dân tộc cao.
Môi trường sớm bị hủy hoại trong khi đa số người nghèo lại sống nhờ vào nơng nghiệp.
Hiệu năng quản lý chính phủ thấp. 4.2. Ngun nhân gây ra tình trạng nghèo đói ở huyện Như Thanh - Thanh
Hố. Có 3 ngun nhân chủ yếu gây ra tình trạng nghèo đói của huyện . Cụ thể
như sau: 4.2.1. Nhóm nguyên nhân do điều kiện kinh tế- xã hội.
- Như Thanh - Thanh Hoá là huyện miền núi mới được thành lập, đời sống của đại bộ phận nhân dân còn khó khăn. Diện tích đất chủ yếu là đồi núi, đặc biệt
có 5 xã vùng 135, tỷ lệ hộ đói nghèo tương đối cao, trình độ dân trí của người dân thấp. Đất đai rất khó cho người dân thực hiện canh tác trong khi đó bản thân
họ lại thiếu vốn sản xuất, kỷ thuật. Chính vì vậy cuộc sống của nhân dân chủ yếu dựa vào nương rẫy. Thực tế đó đã dẫn đến việc người dân đốt phá rừng bừa bãi
gây ra nhiều thảm hoạ thiên nhiên, và nó lại tác động trực tiếp đến cuộc sống của người dân. Ta có thể nhận ra được vòng luẩn quẩn của đời sống nhân dân tại
huyện. - Khí hậu khắc nghiệt là đặc điểm nổi bật về điều kiện tự nhiên của huyện.
Hàng năm ở tỉnh Thanh hóa nói chung và ở huyện Như Thanh nói riêng khơng năm nào là khơng có bão lũ, hạn hán, lốc xốy, gió lào gió phơn tây nam tràn
52
sang... gây ra nhiều tổn thất nặng nề không chỉ về tài sản mà cả tính mạng con người.
- Địa hình phức tạp còn ảnh hưởng đến việc phát triển giao thông liên xã, liên huyện. Việc đầu tư cho xây dựng các cơng trình giao thơng khá tốn kém cả
về thời gian và về vốn. Trong khi đó kinh phí của huyện có được khơng nhiều. - Ngồi ra còn do hậu quả của chiến tranh để lại. Có thể thấy rằng đại bộ
phận hộ nghèo trong huyện là các gai đình chính sách và đồng bào dân tộc thiểu số.
4.2.2. Do cơ chế chính sách chậm đổi mới và thiếu đồng bộ. Việc xoá bỏ chế độ bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường là đúng đắn và
cần thiết. Song với cơ chế mới, nhiều chính sách kinh tế- xã hội còn thiếu và chưa đồng bộ, trong đó chính sách đầu tư phát triển, đặc biệt là đầu tư phát triển
kinh tế nông nghiệp- nông thơn. Điển hình ở huyện đã xây dựng được nhà máy dứa cơ đặc xuất khẩu có vừng ngun liệu dồi dào nhưng do việc quản không
đồng bộ, nhièu cơ chế chính sách chưa hợp lý trong việc đầu tư nên sau khi nhà máy đưa vào hoạt động một thời gian thì khơng có hiệu quả. Hậu quả của việc
nhà máy bị đóng cửa là ngưòi dân đặc biệt là người dân nghèo. Họ vay vốn ngân hàng đầu tư để thực hiện trồng nguyên liệu cungn cấp cho nhà máy dứa, tuy
nhiên không thu lại được vốn bỏ ra do khơng bán được dứa cho nhà máy. Chính vì vậy đã dẫn đến nợ ngân hàng ngày càng lớn.
Các chính sách xã hội và đầu tư phúc lợi xã hội không đựơc quan tâm, vấn đề giáo dục bị xuống cấp. Mặc dù cho đến nay đã và đang tiến hành giải quyết
tuy nhiên chưa triệt để. Có thể nhận thấy rằng giá cả giữa 3 khu vực Nơng nghiệp- cơng nghiệp- dịch vụ có sự chênh lệch lớn. Đây là yếu tố bất lợi cho
53
người nông dân, nó gây ra khơng ít thiệt thòi cho nơng dân và đặc biệt là cho người dân nghèo.
4.2.3. Nguyên nhân chủ quan thuộc về người nghèo: Đó là thiếu tri thức, kinh nghiệm sản xuất, phong tục lạc hậu, gia đình
đơng con, thiếu sức lao động, vốn, đất đai, tư liệu sản xuất... Tình trạng sống du canh du cư, di dân tự do, tệ nạn xã hội của một bộ phận dân cư đến vùng kinh tế
mới làm cho người nghèo lại càng có nguy cơ nghèo hơn. Có thể thấy rằng người dân nghèo đang gặp phải rất nhiều khó khăn. Nếu
khơng có sự quan tâm đúng mức của các cấp thì vấn đề nghèo đói ngày càng trở nên nghiêm trọng hơn. Nếu cứ như vậy thì nghèo đói vẫn khơng thể xố hết
trong những năm sắp tới. 5. Đánh giá hiệu quả của các chính sách Xố đói giảm nghèo của huyện và tỉnh
trong những năm qua 5.1. Chính sách hỗ trợ về y tế.
Việt nam từ lâu đã được xem như một nước dẫn đầu trong lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân và mặc dù thu nhập của người dân còn thấp,
chúng ta dã xây dựng được một hệ thống y tế khá tốt. Các dịch vụ y tế công cộng được tổ chức theo ranh giới địa phương với các trạm y tế là nơi cung cấp các
dịch vụ chăm sóc sức khoẻ ban đầu, với các dịch vụ bệnh viện đặt tại huyện và ở các cấp quốc gia cũng như có rất nhiều bệnh viện chuyên khoa. Tuy nhiên, gần
đây đã có sự bung nổ ở mức sơ khai cả về số lượng cơ sở và sản phẩm y dược do tư nhân cung cấp. Trung tâm y tế mặc dù chủ yếu vẫn là trung tâm y tế của Nhà
nước, tăng mức viện phí lên rấ nhiều và Chính phủ đã có hình thức Bảo hiểm y tế như một cách làm hạn ché rủi ro và góp phần bảo vệ người dân khỏi phải trả
54
những chi phí lớn. Hiện nay phần lớn người bệnh phải trả hầu hết các khoản phí chăm sóc y tế. Nhà nước đang trong quá trình định hướng các trợ cấp y tế đối với
người nghèo. Năm 1994, Chính phủ ban hành Nghị định số 95CP về việc thu một phần viện phí. Và ngày 15102002 Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số
1392002QĐ-TTg về việc khám chữa bệnh miễn phí cho người nghèo có quy định đối tượng hưởng bao gồm:
5.1.1. Người nghèo theo quy định hiện hành về chuẩn hộ nghèo quy định tại Quyết định 11432002QĐ-LĐTBXH ngày 01112002 của Bộ trưởng Bộ Lao
động Thương binh và Xã hội. 5.1.2. Nhân dân các xã có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn theo
Quyết định số 1351998QĐTTg ngày 3171998 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi
và vùng sâu, vùng xa. Như Thanh - Thanh Hố là huyện có địa bàn rộng, dân cư sống rải rác, địa
hình đa dạng miền núi và trung du. Huyện gồm 16 xã và 1 thị trấn. Nhưng những năm qua được sự quan tâm của Huyện uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban
nhân dân các cấp chính quyền và các ban ngành đoàn thể xã hội trong huyện, huyện đã sớm triển khai thực hiện chính sách của Nhà nước về chăm sóc sức
khoẻ y tế cho nhân dân, đặc biệt là chính sách khám chữa bệnh cho người nghèo và dân cư ở vùng cao. Đây là một chính sách quan trọng trong chương trình mục
tiêu Quốc gia Xố đói giảm nghèo và đã thu được một số kết quả nhất định. Thực hiện việc cấp thẻ khám chữa bệnh cho người nghèo, thực hiện quyết định
139 của Thủ tướng Chính phủ về việc khám chữa bệnh cho hộ nghèo, huyện Như Thanh - Thanh Hố thực hiện chính sách thực thanh, thực chi, chứ không
55
thực hiện mua thẻ bảo hiểm y tế cho người nghèo. Riêng năm 2003, ngành Lao động Thương binh và Xã hội đã cấp trên 15.000 thẻ khám chữa bệnh cho 139
cho các đối tượng người nghèo, bảo trợ xã hội, thuộc các xã thuộc chương trình 135. Trong đó số thẻ cấp cho người nghèo là 41.000 thẻ chiếm 35,6 tổng số thẻ
khám chữa bệnh 139. Riêng đầu năm 2006 cấp được 32.377 thẻ cho người nghèo. Chính sách hỗ trợ y tế cho người nghèo đã giúp được hộ nghèo giảm bớt
một phần gánh nặng, vì vậy chi phí cho y tế chiếm một phần lớn trong chi tiêu cho hộ gia đình. Theo nghiên cứu của các chuyên gia năm 2000 tại 4 xã của
huyện Như Thanh - Thanh Hố thì các hộ đã dành trung bình 13,2 thu nhập để chăm sóc y tế, nhóm người giầu dành nhiều chi tiêu cho chăm sóc y tế hơn người
nghèo, nhưng tỷ lệ chi tiêu dành cho chăm sóc y tế thị người nghèo chiếm tỷ trọng lứon hơn người giàu.
Trong thời kỳ đổi mới, chi phí chăm sóc sức khoẻ đã trở thành mối quan tâm chính của tồn dân. Các vấn đề về sức khoẻ khơng thể biết trước được và
hậu quả của nó cũng ảnh hưởng rất lớn đến q trình chăm sóc sức khoẻ của người nghèo. Những năm gần đây, huyện Như Thanh - Thanh Hố đã trích ra
hơn 532 triệu đồng để chi phí cho bệnh nhân thuộc diện nghèo. Hàng năm số người được thụ hưởng chính sách khám chữa bệnh ngày
càng nhiều lên, năm 2001 mới chỉ có 41.532 lượt người nhưng đến năm 2002 đã tăng lên là 52.501 lượt người, tương ứng với số tiền chi phí cho nó cũng tăng lên
theo. Năm 2001 chỉ có 1.112.000 đồngnăm nhưng đến năm 2002 là 1.678.000.000 đồng, riêng 9 tháng đầu năm 2005 số tiền đó đã là 1.978.000.000
đồng.
56
Vì vậy, chính sách hỗ trợ về y tế cho người nghèo là rất quan trọng, nếu không có thì người nghèo sẽ khơng dám ốm mà đã là người nghèo thì điều
kiện sinh hoạt tối thiểu khơng đủ, nên thường xuyên ốm đau bệnh tật. Do đó, nếu khơng được hỗ trợ thì họ khơng có khả năng thanh tốn tiền viện phí và lại rơi
vào vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói khơng sao thốt ra được. Trước đây khi chưa có chính sách thì người bệnh thuộc diện người nghèo phải thanh tốn
những khoản tiền lớn vì thuốc dùng là những thuốc có giá thành cao và điều trị bệnh hiểm nghèo. Nhưng hiện nay chúng ta đang thực hiện hình thức thực chi
cho chính sách khám chữa bệnh người nghèo, đối với hình thức này sẽ tiết kiệm đựơc rất nhiều cho Quỹ khám chữa bệnh 139 của huyện. Nhưng mặt hạn chế của
phương thức này là việc đối tượng đi khám chữa bệnh ở ngoài huyện tuyến TW gặp rất nhiều khó khăn trong việc thanh tốn, vì khi đối tượng đi khám điều
trị ở tuyến trung ương phải tự thanh tốn, sau đó mang chứng từ về đơn vị giới thiệu đi thì mới được thanh tốn. Chính vì vậy gây rất nhiều khó khăn cho đối
tượng nghèo. Một điều dễ hiểu là vì những người nghèo mắc bệnh nặng thì chi phí lớn, họ khơng có khả năng thanh tốn được ngay cho bệnh viện tuyến trên.
5.2. Chính sách hỗ trợ về tín dụng cho hộ nghèo Thiếu vốn là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến đói nghèo và
cung cấp tín dụng được coi là biện pháp có hiệu quả kịp thời. Ở Việt nam mạng lưới cung cấp dịch vụ tín dụng cho người nghèo được thực hiện chủ yếu thông
qua 2 kênh: Hệ thống tài chính chính thức- Ngân hàng chính sách xã hội trước đây là Ngân hàng người nghèo từ cấp trung ương đến cấp huyện. Bên cạnh đó
còn có một hệ thống tài chính bao gồm các tổ chức phi Chính phủ, các tổ chức đồn thể như Hội phụ nữ, Hội nông dân... cũng tham gia vào việc huy động và
57
cung cấp dịch vụ tín dụng cho người nghèo. Hệ thống tín dụng phi Chính phủ đã tiếp cận được số lượng khá đơng người nghèo và được đánh giá là có hiệu quả và
có tác dụng tích cực đến kết quả Xố đói giảm nghèo. Mơ hình tín dụng tiết kiệm do Hội phụ nữ thực hiện là một ví dụ điển hình.
Có thể thấy rằng Ngân hàng Chính sách xã hội huyện Như Thanh - Thanh Hố có mạng lưới giao dịch rộng khắp từ huyện đến cơ sở. Với mơ hình này,
Ngân hàng Chính sách đã hoạt động tích cực và hiệu quả, đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng cho hộ nghèo thiếu vốn sản xuất, đóng góp tích cực thực hiện Chương
trình mục tiêu Quốc gia xố đói giảm nghèo. Nguồn vốn hoạt động của Ngân hàng chủ yếu do Trung tâm điều hành tác nghiệp Ngân hàng Chính sách xã hội
Việt nam cấp và Ngân sách của huyện chuyển sang để cho hộ nghèo vay. Với các lạo nguồn vốn trên để mở rộng đầu tư tín dụng, đáp ứng nhu cầu vay vốn
phát triển sản xuât của các hộ nghèo trên địa bàn huyện. Đến cuối năm 2004 tổng nguồn vốn hoạt động là 165.255 triệu đồng, tốc độ tăng bình quân là 43.
Đến nay Ngân hàng Chính sách xã hội huyện đã khơng ngừng mở rộng cho vay các đối tượng hộ nghèo trên địa bàn huyện, lượng vốn mỗi năm rải ngân
ngày một lớn, con số dư nợ ngày cang cao. Doanh số cho vay 7 năm là 289.254 triệu đồng tương ứng với 138.742
lượt hộ vay. Số dư nợ tính đến ngày 31122004 là 137.197 triệu đồng. Qua số liêu trên ta thấy, mặc dù doanh số cho vay và số hộ được vay hàng
năm ln tăng, nhưng mức cho vay bình qnhộ còn thấp. Năm thấp nhất đạt 1,51 triệu đồnghộ, năm 2004 là năm cao nhất mới chỉ đạt 3,9 triều đồnghộ. Vì
vậy chúng ta cần phải có biện pháp khuyến khích người nghèo mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh phát triển, để tăng mức vay bình quân của mỗi hộ lên cao
58
hơn. Từ khi có chính sách hỗ trợ vay vốn cho người nghèo phát triển sanr xuất đã có rất nhiều hộ nghèo thốt nghèo. Theo báo cáo của Ngân hang Chính sách
xã hội huyện trong 7 năm từ năm 1998 đến năm 2004, nhờ chính sách cho hộ nghèo vay vốn đã giúp cho 15.556 lượt hộ thốt nghèo, góp phần hạ tỷ lệ hộ
nghèo của huyện xuống còn 6,1 vào năm 2004. Ngồi chính sách chung của Nhà Nước, từ năm 2001 huyện Như Thanh -
Thanh Hố còn thực hiện chính sách hỗ trợ lãi suất cho hộ nghèo vay vốn với lãi suất bằng 0 đối với các xã nghèo và lãi suất cho hộ nghèo vay với lãi suất bằng
50 cho các xã vùng 3. Năm 2004 hỗ trợ lãi suất cho 11.084 hộ nghèo với số tiền khoảng 1.500 triệu đồng.
Theo số liệu điều tra của Phòng Nội vụ- Lao động Thương binh và Xã hội huyện Như Thanh - Thanh Hoá năm 2003, thì có khoảng 60,2 trong tổng số
hộ nghèo trong huyện thiếu vốn làm ăn phát triển sản xuất, nhưng chỉ có khoảng 30,3 số hộ nghèo vay vốn, số còn lại chưa được vay vốn do nhiều nguyên nhân
khác nhau, nhưng chủ yếu là do người nghèo không biết sử dụng đồng vốn vay vào việc gì. Trongn số hộ nghèo được vay vốn chỉ có khoảng 59,8 vay từ
nguồn quỹ Xố đói giảm nghèo, còn lại là từ các nguồn khác như từ Hội phụ nữ, Hội nơng dân... Vì vậy, để nhiều người nghèo có cơ hội được tiếp cận với dịch
vụ tín dụng hơn nữa chúng ta nhất là ngân hàng chính sách xã hội phải đẩy mạnh khâu quảng bá, tuyên truyền đến từng thôn bản nơi tập trung nhiều người nghèo
để họ biết và hiểu rõ chính sách tín dụng hộ nghèo. Người nghèo hiện nay đang trong tình trạng thiếu vốn nhưng lại khơng dám vay vì khơng biết sử dụng đồng
vốn vay vào việc gì, tâm lý sợ vay rồi khơng trả được. Ngân hang chính sách xã hội nên kết hợp việc rải ngân với việc hướng dẫn cách làm ăn. Cụ thể là xuống
59
trực tiếp địa bàn dân cư hướng dẫn, định hướng cho người nghèo trồng , ni cây gì, chăm sóc như thế nào...
Vấn đề tương đối quan trọng, đó là người nghèo thường có nguy cơ rủi ro cao, chẳng hạn như ốm đau, tai nạn, mất mùa, dịch bệnh, thiên tai... Điều này
phần nào hạn chế khả năng trảnợ vay của họ và có thể làm cho họ đã nghèo lại càng nghèo hơn. Vì vậy ngồi việc hỗ trợ bù lãi suất cho vay hộ nghèo, Nhà
nước ta nên có hình thức mua bảo hiểm tài chính cho người nghèo nhằm giảm tác động xấu đến người nghèo và bảo toàn được quỹ cho Nhà nước khi có rủi ro
về thiên tai, bệnh dịch xảy ra. 5.3. Chính sách hỗ trợ người nghèo về nhà ở.
Thực hiện Quyết định 1432001QĐ-TTg ngày 27092001 của Thử tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chương trình Quốc gia Xố đói giảm nghèo- việc
làm giai đoạn 2001-2005. Cùng với việc trợ giúp hộ nghèo về phát triển sản xuất, tiếp cận các dịch vụ xã hội, tăng thu nhập, cải thiện và nâng cao đời sống,
giảm tỷ lệ hộ nghèo. Vấn đề hỗ trợ người nghèo về nhà ở là một nôịi dung của chương trình và được coi là một trong những chính sách đối với người nghèo.
Triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia Xố đói giảm nghèo- việc làm của Chính phủ Nghị quyết số 07NQ-TU ngày 29112001 của
huyện uỷ Như Thanh - Thanh Hoá về việc tăng cường đầu tư và phát triển kinh tế xã hội miền núi, hải đảo giai đoạn 2001-2005. Chương trình hành động số 14
CTrTU ngày 08052003 của huyện uỷ, thực hiện Nghị quyết trung ương 7 khoá IX về công tác dân tộc đã đưa ra nhiều mục tiêu giải pháp, tích cực về Xố đói
giảm nghèo, trong đó đề ra mục tiêu đến năm 2005 huyện xoá cơ bản nhà tạm, nhà dột nát cho hộ nghèo. Uỷ ban Nhân dân huyện đã ban hành Quyết định số
60
1402002QĐ-UB ngày 29042002 phê duyệt Chương trình Xố đói giảm nghèo- việc làm giai đoạn 2001-2005.
Trong những năm qua, Sở Lao động- Thương binh và Xã hội tỉnh, cơ quan thường trực của Ban chỉ đạo xố đói giảm nghèo huyện đã tích cực phối hợp với
các cơ quan thành viên tham mưu nhiều giải pháp hỗ trợ hộ nghèo có khó khăn về nhà ở thơng qua các hình thức huy động các nguồn lực từ xã hội. Cụ thể:
- Tham mưu cho UBND huyện phân công 267 Sở, ngành, đơn vị, doanh nghiệp, địa phương trợ giúp 31 xã nghèo và 2 xã khó khăn, trong đó hướng dẫn
các đơn vị trợ giúp tập trung chủ yếu hỗ trợ trực tiếp cho hộ nghèo xố nhà tạm, nhầdột nát.
- Phối hợp với Mặt trận Tổ quốc huyện và các cấp, ngành địa phương và nhân dân trong toàn huyện đẩy mạnh cuộc vận động ủng hộ Quỹ ngày vì người
nghèo. - Phát động các tổ chức hội, đoàn thể quần chúng và tồn thể nhân dan đẩy
mạnh phong trà xố nhà tạm, nhà dột nát cho hội viên người nghèo. - Xây dựng phương án hỗ trợ hộ nghèo khó khăn về nhà ở hàng năm bằng
nguồn ngân sách. 5.4. Một số phong trào điển hình.
Những năm vừa qua huyện Như Thanh - Thanh Hoá đã triển khai hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở và đã có nhiều phong trào tiêu biểu đạt được hiệu quả như :
- Phong trào Xoá nhà tranh, dành nhà ngói của Hội cựu chiến binh huyện. Phong trào đã huy động được tất cả hội viên, bằng tình đồng đội bằng khả
năng hiện có của mình, với tinh thầnlá lành đùm lá rách, góp tiền, vật liệu, cơng sức để giúp đỡ làm mới và sữa chữa nhàcho hội viên khó khăn về nhà ở.
61
Vói cách làmcuốn chiếu và tập trung làm dứt điểm từng nhà dột nát cho hội viên trên địa bàn.
- Mơ hình xố nhà tạm, nhà dột nát có sự chỉ đạo tập trung từ cấp uỷ và huy động mọi nguồn lực của huyện đã tạo ra một sức mạnh tổng hợp của tất cả
các cấp uỷ Đảng, chính quyền, đồn thể, khơi dậy tinh thần đoàn kết twong thân, tương ái giúp đỡ người nghèo cuả các đơn vị, thôn bản, khu phố góp sức làm cho
mọi cán bộ, đản viên và các tầng lớp nhân dân nâng cao nhận thức và tích cực hưởng ứng để trong thời gian ngắn xố cơ bản nhà dột nát cho hộ nghèo trên địa
bàn. Với cách làm này cho đến nay huyện đã tập trung toàn lực phối hợp với các đơn vị để xố gần 500 nhà.
- Mơ hình cải tạo, sữa chữa, nâng cấp nhà chính sách, tách cơng trình vệ sinh ra khỏi nhà của bộ đọi Lâm trường K626 đã làm thay đổi thói quen ngàn
đời từ ăn ở thiếu vệ sinh chuyển sang ăn ở có vệ sinh, thay đổi nhận thức từ sản xuất tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hoá phát triển, tạo thu nhập xố đói giảm
nghèo của một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số. III. Một số biện pháp nhằm nâng cao cơng tác xố đói giảm nghèo ở huyện Như
Thanh - tỉnh Thanh Hố. 1. Nhóm giải pháp cơ bản thực hiện chương trình xố đói giảm nghèo.
1.1. Nhóm giải pháp về cơ chế, chính sách. Cần nghiên cứu hồn chỉnh chính sách cơ chế, chính sách liên quan đến
nghèo đói, tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến người nghèo, xã nghèo nhằm tạo môi trường thực hiện chương trình xố đói giảm nghèo có hiệu quả.
1.1.1. Chính sách hỗ trợ về kinh tế.
62
Trợ giúp người nghèo trong việc chăm sóc sức khoẻ ban đầu, miễn giảm phí khám chữa bệnh bằng các hình thức như mua thẻ Bảo hiểm Y tế, cấp
thẻgiấy chứng nhận khám chữa bệnh nhân đạo từ thiện... tăng cường mạng lưới y tế cơ sở.
1.1.2. Chính sách hỗ trợ về giáo dục. Nhằm đảm bảo cho con em các hộ nghèo đặc biệt là trẻ em gái có các điều
kiện cần thiết trong học tập và sinh hoạt trong nhà trường giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miêng núi...
1.1.3. Chính sách hỗ trợ đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn. Hỗ trợ gia đình dân tộc đặc biệt khó khăn nhằm ổn địn đời sống, hỗ trợ
phát triển sản xuất, tiếp cận phương thức sản xuất mới, nâng cao dân trí, bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc, thực hiện xố đói giảm nghèo bền vững.
1.1.4. Chính sách hỗ trợ người nghèo về nhà ở. Nhằm hỗ trợ xoá nhà dột nát, nhà ổ chuột, nhà tranh tre nứa lá, nhà xiêu
vẹo, nhà ở nằm trong khu vực ô nhiễm môi trường ảnh hưởng đến sức khoẻ và tính mạng người dân nghèo.
1.1.5. Các chính sách an sinh xã hội. `
Hỗ trợ trực tiếp cho các gia đình bị rủi ro do thiên tai, bão lũ gây ra nhằm giúp họ khắc phục những tổn thất và dần ổn định cuộc sống.
Hỗ trợ các đối tượng xã hội như: ngưòi già cơ đơn khơng người nương tựa, tre em có hồn cảnh đặc biệt khó khăn, người tàn tật... để họ sớm ổn định
cuộc sống, từng bước hoà nhâp cùng cộng đồng. Miễn giảm thuế sử dụng đất ở cho hộ nghèo và nhân dân vùng đặc biệt
khó khăn.
63
2. Nhóm giải pháp thơng qua thực hiện các dự án. 2.1. Nhóm các dự án giảm nghèo chung.
2.1.1. Dự án tín dụng ưu đãi hộ nghèo. Đa dạng hố các hình thức cung cấp tín dụng cả tín dụng ưu đãi và tín
dụng theo lãi xuất thị trường. Phấn đấu trong 5 năm cho 12.000 lượt hộ nghèo được vay vốn xố đói giảm nghèo với tổng số tiền trên 30 tỷ đồng.
2.1.2. Hướng dẫn hộ nghèo cách làm ănvà khuyến nông, khuyến ngư. Hướng dẫn người nghèo sản xuất, quản lý chi tiêu trong gia đình kết hợp
với hộ trợ giống mới, trang bị kiến thức, áp dụng các tiến bộ khoa học trong sản xuất kinh doanh. Tăng cường đội ngũ cán bộ khuyến nông, khuyến lâm thôn bản
nhằn nâng cao năng suất lao động cho hộ nghèo. Tập huấn kiến thức sản xuất các loại cây trồng, con nuôi cho trên 12.000
lượt người nghèo bằng nhiều hình thức như đi tham quan mơ hình tiên tiến, hội nghị hội thảo đầu bờ, tập huấn, chuyển giao khoa học kỹ thuật...
2.1.3. Xây dựng mơ hình xố đói giảm nghèo ở các xã nghèo. Xây dựng và nhân rộng một số mơ hình xố đói giảm nghèo bền vững ở
một số xã dặc biệt khó khăn, qua đó nhân rộng ra tồn huyện. Kiện tồn lại Ban chỉ đạo các cấp, phân cơng các thành viên Ban chỉ đạo
Xố đói Giảm nghèo của huyện, theo dõi, giúp đỡ các địa phương trên các lĩnh vực còn yếu.
2.2. Nhóm các dự án ngồi chương trình 135. 2.2.1. Cho vay vốn tín dụng ưu đãi.
Phấn đấu trong 5 năm cho 12.000 lượt hộ nghèo vay vốn Xố đói giảm nghèo với tổng số tiền trên 30 tỷ.
64
2.2.2. Hướng dẫn cách làm ăn cho hộ nghèo. Tập huấn kiến thức sản xuất các loại cây trồng, con ni cho trên 12.000
lượt nghèo bằng nhiều hình thức như đi tham quan các mơ hình tiên tiến, hội nghị, hội thảo đầu bờ, tập huấn, chuyển giao khoa học kỹ thuật...
2.2.3. Nhân rộng các điển hình sản xuất có hiệu quả, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương.
Kiện toàn lại Ban chỉ đạo các cấp, phân công các thành viên Ban chỉ đạo Xố đói giảm nghèo của huyện theo dõi, giúp đỡ các điaj phương những lĩnh vực
có liên quan 2.3. Nhóm các dự án ngồi chương trình 135.
Hồn chỉnh hệ thống hạ tầng cơ sở thiết yếu, ưu tiên đần tư cho các xã có tỷ lệ hộ nghèo cao.
Khai hoang phục hố mở rộng diện tích đất sản xuất, cấp cho các hộ thiếu đất sản xuất.
Hỗ trợ, tập huấn kiến thức chế biến, bảo quản sản phẩm sau thu hoạch. Chuyển đổi ngành nghề, hỗ trợ phát triển ngành nghề truyền thống.
Đẩy mạnh công tác xuất khẩu lao động, tuyển lao động đi làm việc trong nước
Tập huấn nâng cao năng lực cho cán bộ làm công tác Xố đói giảm nghèo các cấp, hàng năm tập huấn cho 80-100 trưởng thơn về cơng tác Xố đói giảm
nghèo. Chăm sóc sức khoẻ cho người nghèo: 100 người nghèo được hỗ trợ mua
thẻ Bảo hiểm Y tế, xây dựng y tế cấp xã có đủ các trang thiết bị thiết yếu, y- bác
65
sỹ có đủ trình độ chun mơn. Trang bị tủ thuốc y tế thôn bản để chăm sóc sức khoẻ thường xuyên, tại chỗ cho người nghèo.
2.4. Các chính sách về giáo dục cho người nghèo. Thực hiện miễn học phí, hỗ trợ sách vỡ, đồ dùng học tập... theo quy định
của Nhà nước, các khoản đóng góp của địa phương cho con em hộ nghèo. Đóng góp xây dựng quỹ khuyến học để hỗ trợ học sinh nghèo vượt khó
trong học tập. 3. Dự kiến kết quả.
Với những biện pháp nêu trên, dự kiến kế hoạch giảm nghèo hàng năm trong giai đoạn 2006-2010 như sau:
• Giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 5-7, phấn đấu đến năm 2010 còn 20 hộ
nghèo theo tiêu chí mới. •
Phấn đấu đến năm 2007 khơng còn hộ nghèo thuộc diện chính sách và đến năm 2010 khơng còn xã nghèo có tỷ lệ trên 40 hộ nghèo.
• Tốc độ tăng trưởng kinh tế mỗi năm 16 trở lên. Đến cuối năm 2007
khơng còn hộ nghèo ở nhà tranh tre dột nát, 95 hộ dân sử dụng nước sạch trong sinh hoạt hàng ngày.
• Phấn đấu cơ cấu Nơng- Lâm nghiệp còn dưới 45; Cơng nghiệp - tiểu
thủ cơng nghiệp chiếm 30 trở lên; Thương mại, dịch vụ, du lịch chiếm 25 trở lên.
• Mỗi năm giảm tỷ lệ lao động khơng có việc làm thường xun từ 5-
10. •
Tạo việc làm mới cho người lao động mỗi năm từ 5-10. •
Nâng tỷ lệ sử dụng quỹ lao động trong các năm ở nơng thơn từ 5-10.
66
• Có 80-90 hộ nghèo được tiếp cận đầy đủ các dịch vụ xã hội cơ bản.
• Nâng cao tỷ lệ lao động có chun môn lỹ thuật từ 15 năm 2006 lên
25 năm 2010. Dựa vào những chỉ tiêu và đã đặt ra trong kế hoạch thực hiện chương trình
Quốc gia Xố đói giảm nghèo.Năm 2007 dự kiến có kết quả sau đây:
Bảng 12.2:Dự kiến kết quả đạt được trong năm 2007. Số
TT Đơn vị
Tổng số hộ
Hộ nghèo năm 2006
Kế hoạch giảm hộ nghèo
năm2007
Ghi chú
Số hộ Tỷ lệ
Số hộ Tỷ lệ
1 Thanh Kỳ 768
539 70,2
50 6.5
2 Thanh Tân 1244
714 57,4
70 5.6
3 Yên Lạc 998
606 60,7
78 7.8
4 Xuân Thái 680
483 71,0
40 5.8
5 Xuân Thọ 417
226 54,1
25 5.9
6 Yên Thọ 1847
713 38,6
95 5.1
7 Xuân Phúc 717
542 75,6
55 7.6
8 Phúc Đường 406
97 23,9
20 4.9
9 Hải Vân 784
60 7,6
12 1.5
10 Hải Long 748
98 13,0
13 1.7
11 Xuân Khang 1269
644 50,7
80 6.3
12 Phú Nhuận 1630
658 40,3
100 6.1
13 Mậu Lâm 1664
651 39,1
78 4.7
14 Phượng Nghi 838 606
72,3 50
5.9 15 Xuân Du
1397 513
36,7 80
5.7 16 Cán Khê
1104 584
52,9 60
5.4 17 TT. Bến Sung 1171
79 6,7
13 1.1
Tổng cộng 17682
7813 44,19
919 5.2
Ngu
ồn số liệu Sở LĐTBXH năm 2006.
4. Những kiến nghị, đề xuất. 4.1. Kiến nghị đối với Nhà nước
67
.Về bộ máy cán bộ. Đây là giải pháp rất quan trọng quyết định đến thắng lợi trong tổ chức
thực hiện chương trình. - Về tổ chức bộ máy: Kện tồn và thành lập Ban chỉ đạo chương trình mục
tiêu quốc gia xố đói giảm nghèo ở các địa phương đủ mạnh để tổ chức thực hiện chương trình.
Phân cơng giúp đỡ hộ nghèo: Cần xác định hộ nghèo cần giúp đỡ, vận động hộ giàu, hộ khá, các đoàn thể giúp đỡ hộ nghèo.
- Về cán bộ: Cần bố trí cán bộ chun trách làm xố đói giảm nghèo: •
Cấp tỉnh : từ 3-5 người. •
Cấp huyện: Từ 1-2 người. •
Cấp xã : 1 người được hưởng phụ cấp từ ngân sách, đủ kiến thức tổ chức thực hiện chương trình
. Ngồi ra, cần tiếp tục tăng cường có thời hạn cán bộ tỉnh, huyện cho các xã để hướng dẫn, đào tạo cán bộ cho xã.
4.2. Kiến nghị đối với tỉnh Thanh hố. Để có cơ sở và điều kiện thực hiện tốt chương trình mục tiêu Xố đói
giảm nghèo trong những năm tới Uỷ ban nhân dân huyện Như Thanh - Thanh Hố cần:
• Đề nghị uỷ ban nhân dân tỉnh cho biên chế cán bộ chun trách làm
cơng tác Xố đói giảm nghèo từ huyện đến xã, thị trấn. Thường xuyên tổ chức tập huấn nghiệp vụ Xố đói giảm nghèo cho cán bộ
từ huyện đến cơ sở, đồng thời quan tâm tạo điều kiện cho cán bộ
68
làm cơng tác Xố đói giảm nghèo được theo học các lớp dài hạn để có nghiệp vụ chun mơn làm cơng tác Xố đói giảm nghèo.
• Bổ sung vốn đầu tư hàng năm cho chương trình mục tiêu Xố đói
giảm nghèo, như vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Vốn đầu tư nên tập trung, không nên dàn trải, phân bố rộng trên nhiều địa bàn.
• Bổ sung nguồn vốn vay 120 Vốn giải quyết việc làm để mở rộng
sản xuất, thu hút lao động, tăng thu nhập phát triển kinh tế Xoá đói giảm nghèo.
• Đầu tư ngân sách để mở các lớp tập huấn, hướng dẫn khoa học kỹ
thuật, cách làm ăn cho người nghèo. •
Tăng cường cơng tác kiểm tra giám sát thực hiện chương trình mục tiêu Xố đói giảm nghèo.
4.3. Kiến nghị đối với Uỷ ban nhân dân huyện Như Thanh - Thanh Hoá. - Nâng cao hơn nữa vai trò, trách nhiệm và sự lãnh đạo của các cấp chính
quyền, các ngành đồn thể đến cơng tác xố đói giảm nghèo, quan tâm hơn nữa đến việc chăm lo đời sống cho người dân nghèo, tránh tình tạng người nghèo rơi
vào cảnh đói khổ kéo dài. - Huyện có những giải pháp thiết thực nhằm hỗ trợ, giúp đỡ, động viên
khích lệ và tạo điều kiện để những hộ nghèo được phát huy những khă năng của họ để vượt lên khắc phục khó khăn vượt qua nghèo đói.
- Việc cho vay vốn tạo việc làm là một điều kiện quan trọng để người nghèo cải thiện đời sống, nâng cao thu nhập. Vì vậy huyện nên chú trọng những
giải pháp cụ thể hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi ưu tiên, quan tâm hơn nữa đến
69
người nghèo. Đặc biệt là Ngân hàng Chính sách xã hội khi cho người dân vay vốn cần phải giảm bớt thủ tục phiền hà khi ký kết với ngân hàng.
- Tăng cường công tác bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ từ huyện đến cấp xã, thị trấn nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả trong cơng tác
Xố đói giảm nghèo.
70
KẾT LUẬN.
Vấn đề nghèo đói tồn tại gây ra rất nhiều khó khăn cho người dân nghèo nói riêng và cho nhân dân nói chung rất nhiều khó khăn trước mắt cũng như lâu
dài. Việc hoạch định ra những chính sách, giải pháp nhằm Xố đói giảm nghèo không chỉ là vấn đề của riêng một cá nhân nào mà nó đòi hỏi sự chung tay góp
sức của toàn thể nhân dân, các tổ chức và các cấp lãnh đạo. Khơng riêng gì huyện Như Thanh - Thanh Hố mà ở bất cứ một địa phương nào thì Chương
trình Quốc gia Xố đói giảm nghèo đang mang lại những hiệu quả nhất định. Nó góp phần nâng cao chất lượng đời sống trong cộng động nhân dân.
Giai đoạn 2001-2005 đã kết thúc và những phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu cho giai đoạn 2006-2010 đã được đặt ra. Chúng ra hi vọng với những
thành tựu mới của đất nước, Chương trình Quốc gia Xố đói giảm nghèo ngày càng phát huy được những hiệu quả to lớn trong cơng cuộc xây dựng cuộc sống
khơng nghèo đói ở cộng đồng nhân dân. Góp phần đưa đất nước lên những tầm cao mới về mức sống và về chất lượng cuộc sống và những tiêu chí khác về ssời
sống của người dân. Khơng ngừng nâng cao vai trò to lớn của truyền thỗng dân tộc Việt Nam,
Những kiến nghị trong chuyên đề thực tập này mong muốn được góp một phần nhỏ bé vào q trình thực hiện cơng tác Xố đói giảm nghèo của huyện
Như Thanh - Thanh Hoá. Tuy nhiên với những hạn chế về phạm vi, thời gian nghiên cứu và kinh nghiệm thực tế chưa sấu sắc. Chuyên đề thực tập không tránh
khỏi những sai sót, hạn chế. Vì vậy em rất mong được sự đóng góp ý kiến của thầy cơ để em hoàn
thiện bào viết được hiệu quả hơn, phục vụ tốt cho công tác của em sau này.
71
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn của thầy hướng dẫn thực tập tốt nghiệp: PGS.TS. Trần Xuân Cầu và toàn thể các chú, các anh cơng tác tại phòng
Nội vụ-Lao động Thương binh và Xã hội đã giúp em hoàn thành chuyên đề thực tập này.
Em xin chân thành cảm ơn. Như Thanh , ngày 25 tháng 4 năm 2007
Sinh viên thực hiện Phạm Thế Dũng
72
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Tài liệu tập huấn dành cho cán bộ làm cơng tác Xố đói giảm nghèo ở cấp tỉnh và huyện. NXB Lao động Xã hội, Hà Nội: 2001.
2. Tài liệu tập huấn dành cho cán bộ làm cơng tác Xố đói giảm nghèo ở cấp xã. NXB Lao động Xã hội, Hà Nội: 2003.
3.Tài liệu tập huấn dành cho cán bộ làm cơng tác Xố đói giảm nghèo ở cấp thơn.BCĐ Xố đói giảm nghèo tỉnh Thanh Hố: 2004;2005.
4.Pháp lệnh ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sỹ và gia đình liệt sỹ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có cơng giúp đỡ
cách mạng Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Hà Nội ngày 2981994. 5. Nghị định 28CP ngày 29041995 của Chính Phủ.
6. Nghị định 1472005NĐ-CP ngày 30112005 của Chính Phủ. 7. Nghị định 54CP ngày 29112006 của Chính Phủ.
8. Niên giám thống kê huyện Như Thanh - Thanh Hoá- Thanh Hoá từ năm 1997 đến nay.
9. Nghị quyết Hội đồng nhân dân huyện Như Thanh - Thanh Hoá- Thanh Hoá nưm 2005.
10. Số liệu thống kê, lưu trữ tại phòng Nội vụ- Lao động TBXH huyện Như Thanh - Thanh Hoá- Thanh Hoá .
11. Giáo trình Kinh tế Lao động - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. 12. Giáo trình Phân tích Lao động xã hội- - Trường Đại học Kinh tế Quốc
dân. 13.Tạp chí Lao động xã hội, năm 2004,2005,2006.
73
MỤC LỤC
Trang
74
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ Trang
75

Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

×