1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Kinh tế - Thương mại >

Thực trạng về môi trường và phát triển bền vững

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (634.67 KB, 117 trang )


Luận văn tốt nghiệp Khoa Kế hoạch và Phát triển triệu đôla từ mấy năm trước lên hàng trăm triệu đơla trong vòng hai năm
sau và đạt 953 triệu USD năm 2001 tức là gần 10 xuất khẩu của các nước ASEAN vào Mỹ, gấp 20 lần doanh số của Việt Nam năm 2001. Năm 2002,
kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Mỹ đạt 975 triệu USD, năm 2003 đạt khoảng 1,4 tỷ USD. Tuy nhiên một trong những trở ngại mà
cả nhà xuất khẩu Việt Nam và nhà nhập khẩu Mỹ phải đối mặt là nguy cơ bị hạn chế quota từ khoảng giữa năm 2003.

5. Thực trạng về mơi trường và phát triển bền vững


Nói đến chất lượng tăng trưởng, một khía cạnh vơ cùng quan trọng không thể không đề cập đến là vấn đề về đảm bảo môi trường.
Trong các công đoạn của ngành dệt may thường phát sinh các loại bụi bông, các loại hơi hố chất như: hơi axít, xút, hơi thuốc nhuộm v.v…
Những khí thải này thường làm cho tiêu chuẩn khơng khí trong nhà xưởng khơng đạt các tiêu chuẩn vệ sinh lao động. Những tác động tới môi trường
phải kể đến là: - Ngành dệt may sử dụng một lượng nước lớn cho giặt, nhuộm, hồn tất,
nồi hơi…Nước thải của ngành dệt nhuộm có chứa các loại hố chất, thuốc nhuộm khơng tận trích được của các công đoạn hồ sợi, tẩy và nhuộm vải,
các loại dầu mỡ, các loại bông xơ... Theo số liệu thống kê tồn ngành dệt may thải ra mơi trường khoảng 20 – 30 triệu m3
nước thảinăm. Trong đó mới có khoảng 10 tổng lượng nước thải đã qua xử lý, số còn lại đều thải
thẳng ra cống thốt hoặc mương tiêu thốt. - Bụi bẩn trong cơng đoạn kéo sợi, dệt vải, may có thể gây ra cho người
lao động những bệnh liên quan đến đường hô hấp. Theo các số liệu đo được, thông thường nồng độ bụi ở công đoạn kéo sợi từ 1,10 – 3,44
mgm3; ở công đoạn dệt từ 1,16 – 1,50 mgm3; ở công đoạn may từ 0,93 – 1,15 mgm3.
Lê Thị Nhật Phương - Lớp KTPT 44A Trang
58
Luận văn tốt nghiệp Khoa Kế hoạch và Phát triển - Các thiết bị làm lạnh và điều hồ trung tâm trong các cơng nghệ kéo sợi,
cơng nghệ dệt và trong các dây chuyền may thường sử dụng các môi chất lạnh như acmôniác, CFC…Do thiết bị đã cũ nên trong quá trình vận hành
và bảo dưỡng lượng mơi chất lạnh rò rỉ tới 15 – 20, gây tác động ngay đến sức khoẻ của con người và làm suy giảm tầng ơzơn…
Ngồi ra còn do một số nguyên nhân gây phát thải các chất độc hại ra môi trường như:
- Do thiết bị, công nghệ lạc hậu, quy trình bất hợp lý còn chứa tỷ lệ cao những loại hoá chất - thuốc nhuộm dư.
- Chi phí đầu tư, chi phí vận hành các hệ thống xử lý còn quá lớn so với tiềm lực của các doanh nghiệp.
- Nhận thức của các doanh nghiệp còn hạn chế, chưa có biện pháp chế tài đủ mạnh đối với các cơ sở vi phạm về bảo vệ môi trường.
- Về nhiên liệu, ngành dệt may thường sử dụng 2 loại nhiên liệu cho lò hơi là than hoặc dầu FO và xăng dầu cho phương tiện vận tải, nâng hạ, bảo
trì…khi cháy cũng phát thải các chất gây tác động xấu tới môi trường. Ngoại trừ một số nồi hơi có hệ thống xử lý tách bụi và một số phương tiện
vận tải nhập khẩu có tiêu chuẩn khí thải phù hợp với quy định ở một số nước cơng nghiệp phát triển, còn lại phần lớn thường chưa được xử lý
trước khi phát thải vào môi trường nên khi hoạt động đều thải ra mơi trường các khí thải vượt quá nồng độ cho phép, gây tác động xấu tới môi
trường. Hiệp hội Dệt May Việt Nam cho biết, quản lý môi trường là một trong
những lĩnh vực quản lý yếu nhất của ngành dệt may. Cho đến nay, trong ngành vẫn có doanh nghiệp dệt chưa có hệ thống xử lý nước thải. Cả nước
hiện chưa có phòng thí nghiệm xác nhận sản phẩm đạt nhãn mác sinh thái, chưa có doanh nghiệp nào được chứng nhận nhãn mác sinh thái trên sản
phẩm xuất khẩu. Tồn ngành chỉ có 5 doanh nghiệp được cấp chứng nhận quản lý môi trường theo tiêu chuẩn ISO 14000.
Lê Thị Nhật Phương - Lớp KTPT 44A Trang
59
Luận văn tốt nghiệp Khoa Kế hoạch và Phát triển 6. Tác động của tăng trưởng ngành Dệt May đến người lao động
Một lợi thế của ngành Dệt May là khả năng tạo ra nhiều việc làm cho
người lao động, đặc biệt là những lao động phổ thông và những lao động nữ. Đồng thời với tốc độ tăng trưởng của sản lượng cũng như tốc độ xuất
khẩu tăng cao trong những năm qua, thu nhập của cơng nhân tại các doanh nghiệp DMVN vì thế cũng được cải thiện.
Tuy nhiên nếu phân tích một cách kỹ càng có thể thấy rõ cuộc sống của lao động dệt may còn nhiều khó khăn. Tốc độ tăng trưởng cao trong những
năm qua mang về cho người lao động một khoản tiền lương cao hơn so với trước đây. Nhưng đó chỉ là tiền cơng danh nghĩa, còn tiền công thực tế lại
không đủ để bù đắp cho giá cả sinh hoạt ngày một leo thang. Một thực trạng mang tính thời sự nổi cộm trong thời gian qua là tình
trạng một số lượng lớn cơng nhân dệt may nghỉ việc sau thời gian về nhà nghỉ Tết Nguyên đán. Kinh nghiệm nhiều năm cho thấy cứ sau khi ăn Tết
xong việc trở lại nhà máy của các công nhân rất ì ạch. Theo các doanh nghiệp dệt may, họ mất khoảng 30-40 nhân công sau kỳ nghỉ Tết này.
Mặc dù đã dự báo trước tình hình lao động sẽ khan hiếm sau Tết nhưng nhiều doanh nghiệp vẫn bất ngờ vì số lượng cơng nhân bỏ việc q cao.
Nhiều đơn vị lo lắng, nếu tình trạng này kéo dài sẽ rất khó khăn, do thời gian giao hàng cho đối tác đã cận kề.
Một điều đáng lo ngại là thường xun có tình trạng số lao động tuyển vào lại ít hơn số lao động xin nghỉ.
Tình trạng này không chỉ xảy ra tại các công ty tư nhân, cơng ty mới thành lập mà còn ở cả những cơng ty Nhà nước đã có bề dày phát triển hàng chục
năm nay. Do thiếu công nhân nên nhiều doanh nghiệp đang ở trong tình trạng dở
khóc dở cười bởi họ đã lỡ ký đơn hàng. Ông Lê Văn Đạo, Tổng thư ký Hiệp hội Dệt may Việt Nam
cho biết, có những thời điểm, nhiều doanh nghiệp mong muốn có cơ hội được ký hợp đồng xuất khẩu để mong tìm
kiếm cơng ăn việc làm cho người lao động nhưng có khi lại thiếu quota. Lê Thị Nhật Phương - Lớp KTPT 44A
Trang 60
Luận văn tốt nghiệp Khoa Kế hoạch và Phát triển Hiện tại nhiều doanh nghiệp có đơn hàng dài hạn, có hợp đồng ổn định
nhưng lại khơng có lao động để làm. Vì thiếu lao động nên có nhiều hợp đồng bị chậm tiến độ, nhiều doanh nghiệp đã phải tính đến chuyện chuyển
hàng bằng đường khơng, chấp nhập lỗ để giữ uy tín. Có thể thấy thực trạng trên khá nghiêm trọng, đặc biệt khi nó có xu
hướng ngày càng gia tăng. Nguyên nhân của thực trạng này xuất phát từ việc thu nhập của người lao động không đảm bảo cuộc sống của họ. Theo
một lãnh đạo của Hiệp hội dệt may, ai đã ở trong ngành dệt may mới hiểu được nỗi khổ của người lao động. Mặc dù phải làm việc trong mơi trường
tập trung cao, tình trạng tăng ca liên tục thường xuyên, có khi làm tăng ca đến tận 8h tối. Môi trường làm việc không tốt như vậy nhưng thu nhập của
công nhân dệt cũng như may rất thấp, trung bình chưa tới 1 triệu đồngtháng. Với mức thu nhập này thì khó có thể đảm bảo cho họ an tâm
gắn bó lâu dài với nghề. Kết hôn, sinh con, ốm đau v.v…là những lý do được đưa ra, nhưng phần lớn lao động cho rằng thu nhập họ nhận thấp so
với công sức bỏ ra. Nhiều chủ doanh nghiệp thừa nhận mức lương hiện thời mà họ trả cho công nhân có phần chưa thỏa đáng, chưa đủ để bù đắp việc
giá cả của hầu hết các mặt hàng đang ngày một leo thang. Tuy nhiên, vì lý do lợi nhuận, các chủ doanh nghiệp đều cho biết không thể trợ cấp thêm
hoặc tăng lương cho người lao động. Thêm vào đó, theo Hiệp hội Dệt May Việt Nam, tốc độ phát triển quá
nhanh của ngành cũng là một nguyên nhân của tình trạng thiếu lao động trầm trọng tại các doanh nghiệp. Ngày càng có nhiều doanh nghiệp sản
xuất hàng dệt may ra đời, đặc biệt tại Tp.HCM, dẫn đến nhu cầu sử dụng lao động ngày càng tăng cao. Trong khi số lao động đào tạo được tuyển từ
các địa phương không đáp ứng đủ so với nhu cầu thực tế. Mặt khác hiện tại các địa phương, nơi cung cấp nguồn lao động cho các
thành phố lớn như Hà Nội hay Tp.HCM cũng đang phát triển rất mạnh về ngành may, nhu cầu sử dụng lao động cũng rất lớn nên đã cắt mất nguồn
Lê Thị Nhật Phương - Lớp KTPT 44A Trang
61
Luận văn tốt nghiệp Khoa Kế hoạch và Phát triển lao động cho Hà Nội hay Tp.HCM và các tỉnh phụ cận ở đây. Với mức thu
nhập bình quân trên dưới 1 triệu đồngtháng thì người lao động chắc sẽ thích chuyển về làm ở các địa phương hơn là tại các thành phố lớn vì mức
chi tiêu ở địa phương thấp hơn. Thực trạng trên cho thấy cuộc sống của lao động ngành dệt may còn
gặp nhiều khó khăn mặc dù trong thời gian qua, các doanh nghiệp dệt may đã gặt hái được khá nhiều thành công với tốc độ tăng trưởng cũng như kim
ngạch xuất khẩu cao. Tốc độ tăng trưởng cao nhưng chưa thực sự cải thiện được phúc lợi cho người lao động. Đó cũng chính là sự yếu kém trong chất
lượng tăng trưởng của ngành Dệt May thời gian qua.
IV. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG NGÀNH DỆT MAY

1. Hiệu quả trong sử dụng lao động


Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.doc) (117 trang)

×