1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Kinh tế - Thương mại >

Nhóm giải pháp vĩ mô

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (602.63 KB, 103 trang )


xuyên của các ngành, các cấp, tránh tình trạng tranh mua, tranh b¸n, Ðp gi¸ cđa c¸c doanh nghiƯp nh»m thao túng thị trờng và thu lợi cao nhất.
31.2.2. Định hớng và mục tiêu xuất khẩu gạo
Cơ chế mới ban hành trong thời điểm chúng ta bớc sang thế kỷ mới với những cơ hội và thách thức mới là một công cụ để thực hiện các mục tiêu đặt
ra với sản xuất gạo, tăng lợng gạo xuất khẩu, mở rộng thị trờng và nâng cao chất lợng đảm bảo hiệu quả hơn trong xuất khẩu. Thực chất mục tiêu này hớng
vào tăng số lợng, cải thiện chất lợng có nghĩa là tăng tổng kim ngạch gạo xuất khẩu. Bên cạnh đó việc mở rộng thị trờng cũng đợc các nhà hoạch định chiến
lợc coi trọng vì thị trờng là cái đích mà các nhà xuất khẩu hớng đến. Ba mục tiêu trên đợc tiến hành song song đảm bảo cho gạo sản xuất ra có thể xuất
khẩu tạo thành một quá trình thông suốt đồng thời phù hợp với các mục tiêu của sản xuất lúa và xu thế phát triển chung của nền kinh tế thị trờng trong giai
đoạn mới.
Cũng nh trong sản xuất lúa gạo, trong xuất khẩu để thực hiện các mục tiêu đã đặt ra cần có các định hớng. Cụ thể là:
- Thứ nhất: đa dạng hoá chủng loại gạo cấp cao nhập khẩu đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trờng thế giới.
- Thứ hai: đa phơng hoá thị trờng tiêu thụ gạo trong đó tập trung vào những thị trờng tơng đối ổn định về số lợng và chất lợng.
- Thứ ba: đa dạng hoá hình thức tổ chức tham gia xuất khẩu gạo để có thể đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và phức tạp của khách hàng.
3 .2. Những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu gạo

3.2.1. Nhóm giải pháp vĩ mô


3.2.1.1. Các giải pháp hoàn thiện hệ thống tổ chức xuất khẩu Những năm gần đây, gạo Việt Nam đã có mặt trên 80 nớc và Việt Nam là
nớc xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới sau Thái Lan. Tuy nhiên, sản xuất lúa gạo xuất khẩu còn thiếu quy hoạch, cha đa dạng hoá chủng loại hàng, hệ
thống chế biến, bảo quản phục vụ xuất khẩu còn nhiều yếu kém, lại phân bổ không hợp lý. Hệ thống nhà máy xay xát, đánh bóng còn ít, tập trung chủ yếu
tại TP Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Mỹ Tho. Đầu mối xuất khẩu bó hẹp trong khu vực TP Hồ Chí Minh, làm tăng chi phí vận chuyển và các chi phí trung gian.
Bên cạnh đó, chúng ta vẫn cha xác định đợc chiến lợc về thị trờng và chiến lợc sản phẩm rõ ràng, cha thiết lập đợc hệ thống thị trờng, bạn hàng lớn ổn định và
vẫn còn tình trạng bán qua trung gian, tranh mua, tranh bán ở thị trờng nớc
73
ngoài. Khâu điều hành xuất khẩu tầm vĩ mô còn nhiều lúng túng, không kịp thời, gây khó khăn cho doanh nghiệp xuất khẩu về nguồn hàng và ký kết hợp
đồng.
Để nâng cao khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam trên thị trờng thế giới thì vấn đề đặt ra hiƯn nay chÝnh lµ hoµn thiƯn hƯ thèng tỉ chøc xuất khẩu
gạo. Năm 2001, với cơ chế bãi bỏ hạn ngạch và đầu mối xuất khẩu có thể tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát huy đợc u thế của mình, giải quyết đợc
những vớng mắc trong vấn đề quản lý, tránh tình trạng độc quyền nhng cũng gây nhiều khó khăn mới cho các cơ quan chức năng về kiểm soát lợng gạo
xuất khẩu, đảm bảo an ninh lơng thực quốc gia.
Vì vậy, cùng với quyết định này cần đa ra các giải pháp đồng bộ để ngăn chặn những vớng mắc mới phát sinh. Cụ thể là:
Thứ nhất: khi bãi bỏ đầu mối hạn ngạch các cơ quan có trách nhiệm cần đánh giá sản lợng thóc để định hớng và công bố ngay tổng mức dự định sẽ
xuất khẩu ở năm sau từ cuối năm trớc để doanh nghiệp dựa vào đó xác định thời gian và tiến độ, chủ động điều tiết các hoạt động của mình cho phù hợp
với hoàn cảnh cụ thể. Chính phủ chỉ đạo giao cho Uỷ ban nhân dân các tỉnh và các ngành có liên quan theo dõi, tạo điều kiện hỗ trợ về vốn, tổ chức tốt hơn
nữa việc mua lúa cho nông dân vào đúng thời điểm thu hoạch nhằm có những biện pháp bảo quản hàng hoá tốt và ngăn chặn không cho giá xuống.
Thứ hai: vì không còn hạn ngạch và đầu mối, số lợng doanh nghiệp tham gia xuất khẩu sẽ tăng. Nhà nớc cần có biện pháp sắp xếp một cách hợp
lý, khuyến khích những doanh nghiệp có đủ khả năng, hạn chế sự ồ ạt quá mức của các doanh nghiệp còn non kÐm vỊ kinh nghiƯm, u vỊ tµi chÝnh. Nhµ
níc có thể quy định một số quy định đối với doanh nghiệp đợc kinh doanh xuất khẩu gạo nh phải cã giÊy phÐp kinh doanh, ph¶i cã sè vèn tèi thiểu quy
định, có kho hàng đủ điều kiện và thuận tiƯn cho xt khÈu vµ viƯc cho kiĨm tra cđa các cơ quan thuế, cơ quan thơng mại, đồng thời có một lợng tồn kho
nhất định thờng xuyên.
Thứ ba: đối với một số hợp đồng nhất là hợp đồng mua bán gạo cấp Chính phủ nên duy trì trong cơ chế quy định khuyến khích doanh nghiệp tham
gia đấu thầu và chỉ định tham gia đấu thầu khi cần thiết. Đối với các trờng hợp doanh nghiệp phải dừng hoặc hủy hợp đồng để đảm bảo lợi ích của quốc gia
thì nên có các hỗ trợ về tài chính khi có thiệt hại.
Thứ t: Chính phủ cần quản lý chặt chẽ các gian lận trong xuất khẩu gạo bằng cách phối hợp các ngành có liên quan. Hiện nay, gian lận thơng mại đợc
74
giấu dới các hình thức tinh vi có sự phối hợp giữa các bên đối tác nhằm mục đích kiếm lời. Việc hạn chế này sẽ đảm bảo chênh lệch giá gạo xuất khẩu của
Việt Nam và thế giới.
Thứ năm: tích cực xúc tiến hình thành các trung tâm giao dịch và xuất khẩu gạo để hỗ trợ cho việc điều hành xuất khẩu không theo đầu mối tạo điều
kiện nâng cao trình độ xuất khẩu gạo, là cơ sở để Nhà nớc điều tiết các hoạt động này.
Các giải pháp hoàn thiện hệ thống tổ chức trên mới chỉ bao quát đợc tình hình quản lý xuất khẩu của Chính phủ ta trong giai đoạn mới. Thực hiện các
giải pháp trên đòi hỏi sự cố gắng nỗ lực của các ngành các cấp đồng thời phải có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ nhằm đạt đợc hiệu quả tối u nhất.
3.2.1.2. Các giải pháp về luật pháp, chính sách
Để hớng tới một ngành gạo xuất khẩu đồng bộ, ổn định trong tơng lai gần, chúng ta cần có một hệ thống luật pháp với các quy định đợc ban hành cụ
thể rõ ràng tạo một môi trờng kinh doanh lành mạnh với khả năng cạnh tranh cao của mặt hàng. Cụ thể là:
Thứ nhất: thủ tơc hµnh chÝnh trong lÜnh vùc xt nhËp khÈu nh xin giấy phép xuất khẩu, các thủ tục hải quan, thuế... cần đợc cải cách triệt để, tránh
phiền hà sách nhiễu, tạo sự thông thoáng trong hoạt động và các bớc đi của các doanh nghiệp, giảm thiểu thời gian, chi phí không cần thiết và các hiện t-
ợng tiêu cực khác. Cần quy định rõ chức năng, quyền hạn của các cán bộ quản lý các cấp từ Trung ơng tới địa phơng, nâng cao chất lợng làm việc trong các
cơ quan nhà nớc, xoá bỏ tệ hách dịch, cửa quyền trong xuất nhập khẩu, đồng thời đẩy mạnh công tác trau dồi trình độ chuyên môn và ngoại ngữ cho cán bộ
công chức hành chính Nhà nớc trong lĩnh vực xuất nhập khẩu cũng nh đạo đức và trách nhiệm trong công việc.
Thứ hai: hớng dẫn các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp mới tham gia xuất khẩu gạo tham gia ký kết các hợp đồng kinh doanh gạo, tránh
tình trạng bị giá quy định quá cao hoặc quá thấp. Thứ ba: tích cực có những chính sách hỗ trợ và khuyến khích các doanh
nghiệp xuất khẩu gạo mà hỗ trợ tín dụng xuất khẩu là biện pháp hữu ích nhất. Hiện nay, Nhà nớc đã có quy định về quy chế hỗ trợ tín dụng xuất khẩu qua
quyết định số 133TTG của Thủ tớng Chính phủ. Các hoạt động cho vay vốn l- u động, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng... của Quỹ về mặt
nghiệp vụ giống nh các Ngân hàng thơng mại nhng với lãi suất cho vay là lãi suÊt u ®·i l·i cho vay vèn lu ®éng b»ng 80 lãi suất tín dụng đầu t phát triển
75
trong thời gian 720 ngày. Gạo xuất khẩu là mặt hàng khuyến khích xuất khẩu, đặc biệt trong trờng hợp xuất sang thị trờng mới hoặc để duy trì thị trờng
truyền thống theo quy định của Thủ tớng Chính phủ. Quỹ cho vay vốn dới hai hình thức là cho vay trớc khi giao hµng vµ cho vay sau khi giao hµng. Đối với
cho vay trớc khi giao hàng, các doanh nghiệp đợc vay vốn ngắn hạn mua gạo để thực hiện hợp đồng xuất khẩu với mức vay không quá 80 giá trị LC hoặc
không quá 70 giá trị hợp đồng xuất khẩu. Việc cho vay sau khi giao hàng đ- ợc thực hiện sau khi đơn vị đã có hối phiếu hợp lệ với mức cho vay tối đa bằng
90 trị giá. Để cho vay trớc khi giao hàng, các doanh nghiệp phải có tài sản cầm cố, thế chấp trị giá tối thiểu 30 số vốn vay. Đối với cho vay hối phiếu
hợp lệ, đơn vị phải xuất trình hối phiếu kèm theo bộ chứng từ hàng xuất. Năm 2000 võa qua, nghiƯp vơ cho vay tríc khi giao hàng đã phải chịu rủi ro khi
Chính phủ giao cho các ngân hàng cho vay dự trữ 1 triệu tấn l¬ng thùc, khi kiĨm tra míi thu mua cã 66, doanh nghiệp đóng ở Hà Nội, nhng thu mua ở
khắp mọi nơi, tận đồng bằng sông Cửu Long. Chính vì vậy, trong hoạt động năm tới cần phải quản lý đảm bảo chặt chẽ, hạn chế rủi ro ở mức độ tối đa.
Trên tổng thể, Nhà nớc vẫn cần hỗ trợ để đảm bảo cho doanh nghiệp xuất khẩu gạo cạnh tranh và chiếm lĩnh đợc thị trờng trong và ngoài nớc.
Thứ t: Nhà nớc cần hoàn thành luật thuế về kinh doanh lơng thực đảm bảo bình đẳng trong nghĩa vụ nộp thuế giữa các doanh nghiệp kinh doanh trên thị
trờng phải tuân thủ, tránh trốn thuế và đầu cơ gây các cơn sốt lơng thực trên thị trờng. Khi trong nớc ta đã đảm bảo đợc an ninh lơng thực thì có thể cho
rằng xuất khẩu càng nhiều gạo càng tốt. Chúng ta chấp nhận giá gạo trong nớc tăng lên một chút để khuyến khích sản xuất lúa gạo, giảm bớt đợc phần nào
chênh lệch giữa thu nhập của nông dân và thành thị vì chi tiêu vỊ l¬ng thùc chØ chiÕm tû träng nhá trong chi tiêu đời sống hàng ngày của dân thành thị. Trong
tơng lai kh«ng xa, chóng ta cã thĨ b·i bá th xuất khẩu gạo vì cho dù thuế có làm tăng thu ngân sách nhng vẫn cản trở thơng mại tự do.
Thứ năm: Nhà nớc tích cực áp dụng các quy chế thởng xuất khẩu cho các doanh nghiệp làm tốt công tác này nhằm mục đích động viên khuyến khích
những thành tích xuất sắc và hiệu quả cao. Căn cứ theo tiêu chuẩn của Quy chế quản lý và sử dơng q thëng xt khÈu, c¸c doanh nghiƯp xt khÈu gạo
có thể đợc khen thởng theo hai tiêu chuẩn: mở rộng thị trờng xuất khẩu đã có hoặc mở thêm thị trờng mới có hiệu quả với mức tăng trởng kim ngạch xuất
khẩu năm sau so với năm trớc là 20 và mức tăng trởng tuyệt đối từ 500.000 USD trở lên tiêu chuẩn 5.2; mặt hàng gạo xuất khẩu đạt chất lợng quốc tế
76
tiêu chuẩn 5.3. Đây là những tiêu chuẩn khá cao, để đạt đợc cần sự nỗ lực của doanh nghiệp. Trớc năm 2001, khi còn quy định về đầu mối, hạn ngạch thì
gạo xuất khẩu không đợc xét thởng, nay bỏ cơ chế này thì gạo đợc coi nh các mặt hàng khác và có thể đợc xét thởng nếu đạt những thành tích cao trong xuất
khẩu. Việc tổ chức khen thởng hàng năm đợc thực hiện một cách công khai, công bằng và đúng với những quy định tại các quyết định, quy chế đã ban
hành. Việc lấy ý kiến của công luận trên các phơng tiện thông tin đại chúng phối hợp với cơ quan hải quan của hội đồng xét thởng khi kiểm tra hồ sơ phải
đảm bảo không để xảy ra sai sót đáng tiếc. Có những doanh nghiệp xuất khẩu gạo vẫn cha hiểu đúng, thậm chí cha biết những nội dung cơ bản trong Quy
chế do việc hớng dẫn thông tin còn cha thật đầy đủ. Chính vì vậy, Quy chÕ th- ëng xt khÈu thêi gian tíi vÉn cÇn có sự bổ sung, hoàn thiện để phát huy
mạnh mẽ hơn nữa, tác dụng động viên khuyến khích doanh nghiệp, phù hợp với cơ chế mới về xuất nhập khẩu gạo đã có sự thay đổi.
Nhìn chung, Nhà nớc nên nhÊt qu¸n chÝnh s¸ch, cã biƯn ph¸p khun khÝch mäi thành phần kinh tế trong sản xuất và xuất khẩu gạo, tăng cờng khả
năng cạnh tranh, khả năng thích ứng linh hoạt với thị trờng gạo thế giới của doanh nghiệp Việt Nam.
3.2.1.3. Các giải pháp về đầu t
Cũng nh tất cả các ngành nghề khác trong nền kinh tế, ngành sản xuất và xuất khẩu gạo Việt Nam muốn phát triển cần có chính sách đầu t thoả mãn,
hợp lý. Hơn nữa, gạo là mặt hàng xuất khẩu quan trọng, vì vậy cần đợc đầu t xứng đáng với vị trí chiến lợc của nó trong nền kinh tế hiện nay của đất nớc ta.
Để tăng cờng đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu gạo trong những năm tới, Nhà nớc cần tập trung đầu t trong các lĩnh vực sau:
Thứ nhất, đầu t cho hệ thống cơ sở vật chất phục vụ cho sản xuất. Đây là điều kiện tiên quyết để sản xuất có thể hiệu quả. Hệ thống này cần phải đợc
trang bị hiện đại, đồng bộ, phù hợp với môi trờng môi sinh, đảm bảo cho sức cạnh tranh của lúa gạo. Cơ sở hạ tầng cần đợc chú trọng nhất ở các khâu sản
xuất, chế biến bằng việc lắp đặt, sử dụng các máy móc mới, công suất cao, cải tiến hệ thống điện nớc, hệ thống cơ sở vật chất phục vụ công tác quản lý chất
lợng gạo.
Thứ hai, đầu t phát triển nguồn nhân lực phục vụ sản xuất lúa gạo. Các nhà khoa học, kỹ s nông nghiệp và nông dân trực tiếp sản xuất chính là những
ngời quyết định sự phát triển ngành lúa gạo của nớc ta nên cần có chính sách đầu t một cách hợp lý, đội ngũ này về cả chất lợng và số lợng. Nhà nớc cũng
77
cần hỗ trợ giáo dục đào tạo trong ngành nông nghiệp để có đợc những cán bộ có trình độ, tâm huyết với nghề, đem kiến thức của mình vËn dơng trong
nghiªn cøu khoa häc, cung cÊp thêng xuyªn cho họ những sách báo, tạp chí khoa học, những thông tin cập nhật về các thành tựu khoa học mới ở trong và
ngoài nớc, tạo điều kiện cho họ nâng cao kiến thức, tiếp cận với nền sản xuất lúa gạo của các nớc có kỹ thuật tiên tiến.
Với ngời nông dân, cần chuyển giao đến từng hộ những thông tin về kỹ thuật, kinh tế, tạo điều kiện cho họ học hỏi, nâng cao dân trí. Các cấp huyện,
xã cần tổ chức giới thiệu giông lúa mới, cách gieo cấy, chăm sóc có hiệu quả, tránh tình trạng chỉ áp dụng kinh nghiệm lâu năm trong nghề trồng lúa mà coi
nhẹ những ứng dụng khoa học công nghệ mới. Bên cạnh đó, Nhà nớc cần có chính sách hỗ trợ vốn cho nông dân vì để sản xuất lúa gạo xuất khẩu có chất l-
ợng cao cần tuân thủ quy trình kỹ thuật ngặt nghèo và tốn kém. Hỗ trợ vốn dới hình thức tín dụng sẽ bắt ngời nông dân phải hoàn lại vốn dới hình thức lãi
suất u đãi nên buộc họ phải năng động sáng tạo, tìm cách để kinh doanh có hiệu quả cao để hoàn trả lại số vốn đi vay, xoá bỏ thói quen ỷ lại, trông chờ
vào Nhà nớc nh khi hỗ trợ cho họ dới hình thức trợ cấp.
Thứ ba, đầu t vào nghiên cứu các ứng dụng khoa học công nghệ. Cũng nh tất cả các ngành khác, trong sản xuất lúa gạo, khoa học công nghệ là lĩnh vực
cần u tiên đầu t để trở thành động lực mới cho sự phát triển, trong đó cần đầu t cho việc nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu về công nghệ sinh học gắn
với nghiên cứu chuyển giao để giúp nông dân tiếp cận và sử dụng đợc những thành tựu của khoa học kỹ thuật hiện đại về giống, phân bón, thuốc trừ sâu...
nhằm có đợc những sản phẩm có chất lợng cao, sức cạnh tranh với các loại gạo của Thái Lan, Mỹ... trên thị trờng thế giới.
Chúng ta cần khắc phục những khó khăn về vấn đề kinh phí cho nghiên cứu khoa học để phát triển, tránh nguy cơ tụt hậu quá xa so với các nớc khác.
Nhà nớc cần phát huy vai trò chỉ đạo của các cơ sở nghiên cứu chính là các viện, các trờng đại học, đồng thời huy động mọi lực lợng khác tham gia
nghiên cứu trong đó có các doanh nghiệp, nông trờng... Mặt khác, Nhà nớc cần khuyến khích đầu t xây dựng các hệ thống trang trại nghiên cứu -thực
nghiệm triển khai về giống, thuỷ nông, bảo vệ thực vật, cải tạo đất ở các khu vực sản xuất.
Thứ t, phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng bến cảng và các dịch vụ phục vụ xuất khẩu gạo.
- Phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng bến cảng cho xuất khẩu.
78
Đồng bằng sông Cửu Long là nơi cung cấp nguồn gạo chủ yếu cho xuất khẩu của nớc ta hiện nay. Gạo đợc thu mua và xuất sang nớc ngoài qua các
cảng khẩu. Tuy nhiên, cơ sở hạ tầng phục vụ cho xuất khẩu ở vùng này nói riêng và cả nớc nói chung có rất nhiều hạn chế. Chính vì vậy, chi phí vận
chuyển gạo của nớc ta bị đẩy lên cao. Dù chi phí này thờng do khách hàng trả vì giá gạo tính theo giá FOB nhng lại bị trừ trong giá sản phẩm nên ngời chịu
thiệt thòi cuối cùng vẫn là các doanh nghiệp xuất khẩu. Gạo xuất khẩu thờng tập trung về Sài Gòn, nơi diễn ra hoạt động xuất, nhập của rất nhiều loại hàng
nên dễ dẫn đến sự ùn tắc. Vấn đề đặt ra cần tạo sự thông suốt về vận tải, khâu cuối cùng của xuất khẩu gạo. Cảng Sài Gòn là cảng quan trọng nhất nên cần đ-
ợc đầu t, nâng cấp, cải tiến lại hệ thống kho bãi, phơng tiện bốc dỡ để đáp ứng nhu cầu vận chuyển xuất khẩu gạo đúng thời gian và tiến độ.
Một giải pháp nữa cho sự tắc nghẽn là Chính phủ nên tập trung đầu t, xây dựng, cải tạo lại một số cảng ở đồng bằng sông Cửu Long theo phơng pháp
dàn trải, tránh tập trung vào một cảng nh hiện nay. Cần có những sửa chữa, nâng cấp để biến một số cảng nh Long An, Mỹ Tho, Cần Thơ... thành những
cảng có chất lợng tốt, có thể là cảng chuyên dùng cho xuất khẩu. Đặc biệt là cảng Cần Thơ, một cảng khẩu có vị trí chiến lợc, nếu đợc đầu t xây dựng sẽ tác
động tích cực đến sản xuất lúa gạo đồng bằng sông Cu Long, đẩy nhanh tiến độ CNH - HĐH khu vực này, tạo sự lu thông lúa gạo thuận tiện cho vùng sản
xuất lúa và cho xuất khẩu, ®ång thêi chi phÝ vËn chun tõ ®ång b»ng lªn cảng Sài Gòn sẽ giảm đáng kể. Ngoài ra, cần nâng cấp các cảng khẩu ở khu vực
miền Bắc nhằm phục vụ cho gạo xuất khẩu ở đồng bằng sông Hồng, tránh tình trạng phụ thuộc quá nhiều vào khu vực phía Nam.
Song song với các cầu cảng, các doanh nghiệp xuất khẩu gạo cần ký kết hợp đồng với các cơ quan của bộ giao thông vận tải, bảo đảm đúng tiến độ vận
chuyển từ nơi sản xuất, dự trữ và xuất khẩu. - Phát triển dịch vụ bảo hiểm và vận tải hàng hải phục vụ xuất khẩu gạo.
Hiện tại, giá gạo bán của ta cho các nhà nhập khẩu là giá FOB, tạo cho chúng ta tâm lý an toàn khi xuất khẩu, tránh những rủi ro có thể xảy ra trên đ-
ờng vận chuyển. Tuy nhiên chúng ta không phát triển đợc đội hàng hải và bảo hiểm, giá lại cao so với CIF. Vì vậy cần đa ra giải pháp đẩy mạnh dịch vụ bảo
hiểm và vận tải hàng hải bằng cách liên doanh với các hãng bảo hiểm danh tiếng quốc tế tạo tâm lý yên tâm, tín nhiệm với khách hàng, phát triển khả
năng vận tải hàng hải. Mục tiêu của Chính phủ đến năm 2010 là xây dựng một đội tàu quốc gia đủ sức chở 99 khối lợng hàng nội địa, 40 khối lợng hàng
79
nhập khẩu và tham gia chở thuê cho nớc ngoài. Với những thế mạnh trên, nhà xuất khẩu gạo của Việt Nam có thể chào hàng theo giá CIF và thu đợc lợi
nhuận từ những dịch vụ bảo hiểm, hàng hải đồng thời tạo điều kiện phát triển ngành nghề, giải quyết công ăn việc làm cho nhân công trong ngành trên.
3.2.1.4. Các giải pháp về thị trờng
Thứ nhất: nghiên cứu và xây dựng thị trờng. Thị trờng là yếu tố quyết định đầu ra của sản phẩm. Nghiên cứu thị trờng
là nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam. Công tác nghiên cứu thị trờng cần đợc tổ chức tập trung, khách quan và khoa học. Vì vậy,
chúng ta có thể hiểu biết về các đặc tính, thói quen tiêu dùng, thị hiếu của các khu vực thị trờng cũng nh nắm bắt thông tin về các biến động trên thị trờng,
đồng thời cho phép đánh giá tiềm năng và quy mô thị trờng. Từ đó thực hiện xâm nhập và thích ứng với thị trờng, tạo thế cạnh tranh để mở rộng thị phần
của mình.
Để nghiên cứu thị trờng gạo - mặt hàng có thị hiếu tiêu dùng đa dạng- Nhà nớc cần hình thành các trung tâm chuyên trách cho ngành gạo để khai
thác, cung cấp thông tin về giá cả thị trờng, tình hình hoạt động của các thành viên trong và ngoài nớc, phổ biến kịp thời các chính sách mới của Nhà nớc cho
các nhà xuất khẩu. Hệ thống thông tin phải thật chính xác, cập nhật để có những phản ứng linh hoạt trớc những biến động của thị trờng.
Xây dựng thị trờng xuất khẩu gạo là một đòi hỏi mang tính cấp thiết và chiến lợc. Nhà nớc cần tạo lập và đặt mối quan hệ thơng mại với các nớc có
nhu cầu lớn về xuất khẩu gạo, tranh thủ khai thác các mối quan hệ để ký các hiệp định xuất khẩu gạo hoặc các bản thoả thuận phối hợp, hợp tác với các nớc
để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động đồng thời có thể hỗ trợ cho các doanh nghiệp tìm kiếm thị trờng bên ngoài. Trong quá trình xuất
khẩu gạo, cần tranh thủ gây dựng uy tín thơng mại quốc tế đối với các bạn hàng, từng bớc tạo thói quen a chuộng, tiêu dùng gạo Việt Nam, từ đó đẩy
mạnh xuất khẩu chiếm lĩnh thị trờng.
Thứ hai: các thị trờng mục tiêu.
Việc lựa chọn các thị trờng mục tiêu cho xuất khẩu gạo trong những năm tới là vấn đề khá nan giải. Điều quan trọng đối với Việt Nam hiện nay là sắp
xếp các phân đoạn thị trờng xuất khẩu gạo theo thứ tự u tiên và hiệu quả kinh tế, đầu t vốn cho sản xuất, chế biến, xây dựng cơ sở hạ tầng cho nông nghiệp,
tạo tiền đề cho xuất khẩu gạo trong tơng lai.
80
Những năm sắp tới, chúng ta tập trung xuất khẩu gạo vào những thị trờng tiêu biểu sau:
Một, thị trờng gạo phẩm cấp thấp. Đây là thị trờng tập trung những nớc nghèo tiêu thụ gạo chất lợng thấp tấm 25-35 nh ấn Độ, Philippin, các quốc
gia châu Phi... + Thị trờng ổn định gạo bao gồm các nớc ASEAN nh Philippin, Malayxia...
Đây là một thị trờng quan trọng cần hớng tới. Về cơ bản giữa nớc ta và các n- ớc ASEAN, cơ cấu hàng xuất khẩu tơng tự nh nhau. Tuy nhiên ta cần khai thác
những u thế và giá nhân công rẻ so với nhiều nớc trong khu vực địa lý, và trong tơng lai nằm trên hệ thống đờng bộ và đờng sắt xuyên á và chế độ u đãi
thuế quan trọng nội bộ các nớc ASEAN để tăng mức xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ vào thị trờng này đặc biệt là các mặt hàng nông sản nh gạo. Mặc dù
chúng ta gặp sự cạnh tranh gay gắt với Thái Lan về gạo nhng chúng ta có chỗ đứng tại các nớc Inđônêxia, Singapo, Philippin... Chúng ta đã có hớng đi đúng
khi liên doanh với các nớc trồng lúa cao sản để cung cấp ổn định cho thị trờng thế giới với hiệu quả cao. Chúng ta nhận định rằng trong thời kỳ đến năm
2010 thì ASEAN vẫn là thị trờng tiêu thụ gạo chủ yếu của Việt Nam.
+ Thị trờng không ổn định là những thị trờng nhập gạo của Việt Nam với số lợng không đồng đều nh Trung Quốc và các nớc Châu Phi. Với số dân 1,3 tỉ
ngời và vị thế địa lý thuận lợi, Trung Quốc hứa hẹn là nớc nhập khẩu gạo lớn của Việt Nam. Tuy nhiên xuất khẩu gạo sang nớc này gặp nhiều khó khăn do
sự đồng nhất về mùa vụ. Những năm nhu cầu nhập khẩu gạo của Trung Quốc lớn do mất mùa thì chúng ta không đáp ứng đủ với nguyên nhân các tỉnh miền
Bắc gặp thiên tai. Năm 1995, khi Trung Quốc cần nhập nhiều lơng thùc nhÊt, nhng chÝnh phđ ta cã lƯnh cÊm xt khẩu bằng đờng tiểu ngạch qua biên giới
vì khó khăn về lúa gạo ở miền Bắc. Ngợc lại, năm 1997, khi chúng ta thừa gạo cần cho tiêu thụ, Chính phủ ta đã cho phép địa phơng đợc giao dịch để bán cho
Trung Quốc nhng không thực hiện đợc. Điều ®ã chøng tá tÝnh chÊt bÊp bªnh trong quan hƯ thơng mại với Trung Quốc là thị trờng lớn nhng không ổn định.
Chính vì vậy, trong những năm tới chúng ta cần có những điều chỉnh thích hợp để điều hoà thị trờng đầy tiềm năng này.
Tơng tự nh Trung Quốc, thị trờng các quốc gia châu Phi rất có triển vọng đối với gạo xuất khẩu của Việt Nam nhng cũng gặp nhiều khó khăn. Khu vực
này luôn có những bất ổn định về chính trị, khó có khả năng thanh toán nên l- ợng gạo nhập từ Việt Nam dù nhiều nhng không ổn định. Tuy nhiên khu vực
81
vẫn là bạn hàng rất lớn của Việt Nam và chúng ta phải tập trung khai thác trong những năm tới.
Hai, thị trờng gạo phẩm chất cao bao gồm các nớc nhập khẩu gạo chất lợng cao của Việt Nam bao gồm:
- Thị trờng EU: hiện nay kim ngạch xuất khẩu mặt hàng gạo của Việt Nam vào thị trờng này cha lớn do có sự cạnh tranh gay gắt của gạo Thái Lan.
Tuy nhiên trong tơng lai, khi chúng ta nâng cao đợc chất lợng gạo thì đây là một thị trờng rất có tiềm năng. Các chuẩn mực kinh doanh của EU đòi hỏi các
doanh nghiệp Việt Nam phải thật sự năng động, đảm bảo chất lợng gạo và giữ chữ tín trong giao dịch, buôn bán, từng bớc xuất khẩu trực tiếp gạo Việt Nam
vào khu vực này.
- Thị trờng Mỹ: là nớc xuất khẩu gạo lớn trên thế giới nhng Mỹ cũng có nhu cầu nhập khẩu. Năm 2001, Hiệp định Thơng mại song phơng Việt - Mỹ đ-
ợc ký kết, các doanh nghiệp Việt Nam cã thĨ hëng quy chÕ tèi h qc cđa Mü nên gạo của ta có thể tiếp cận và xâm nhập vào thị trờng này dễ dàng hơn.
Trong tơng lai, chúng ta cần mở rộng quan hệ để có mức xuất khẩu gạo ổn định vào thị trờng Mỹ nói riêng cũng nh các nớc châu Mỹ nói chung.
- Thị trờng Nhật Bản: Nhật Bản là nớc tiêu thụ gạo đòi hỏi chất lợng cao. Do vậy, các doanh nghiệp của ta cần nắm bắt xu thế này để đầu t trang thiết bị
nâng cao chất lợng sản phẩm mới có thể có chỗ đứng trên thị trờng, nhất là khi Nhật Bản giảm mức bảo hộ đối với mặt hàng gạo theo quy định của WTO.
- Thị trờng Trung Đông: đây là khu vực gồm những nớc giàu có trên thế giới, có nhu cầu cũng nh khả năng thanh toán, giao dịch thơng mại quốc tế...
Do cha hiểu biết nhiều về bạn hàng và thị trờng ở khu vực này nên kim ngạch buôn bán giữa Việt Nam và các nớc này không đáng kể. Bớc đầu gạo Việt
Nam đã có chỗ đứng và đợc a dùng tại Iran, Irac... Trong tơng lai, khu vực này sẽ mở ra nhiều cơ hội cho các nhà xuất khẩu gạo của Việt Nam.
Nhìn chung, gạo chất lợng thấp của Việt Nam chiếm tỷ lệ khá cao với thị trờng châu á và châu Phi rộng lớn nên cần khai thác mức độ tối đa. Bên cạnh
đó, Việt Nam tiếp tục thực hiện chính sách thúc đẩy đầu t vào sản xuất nâng cao chất lợng gạo, kết hợp với các chính sách Marketing thị trờng của Chính
phủ để đa mặt hàng cao cấp xâm nhập thị trờng các nớc tiêu thụ loại hàng này với giá cao. Do vậy, chúng ta phải biết kết hợp giữa việc giữ vững các thị phần
đã xuất khẩu, chuyển dần sang sản xuất và xuất khẩu gạo cao cấp và đặc sản để đi vào thị trờng cao cấp, thu đợc giá trị xuất khẩu cao hơn.
82
Nh vậy, thị trờng xuất khẩu gạo còn rộng mở, khả năng tham gia vào thị trờng gạo của Việt Nam ngày càng tăng. Trong những năm tới, chúng ta cần
thực hiện hoạt động xuất khẩu gạo sao cho có thể đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất trong nền kinh tế quốc dân.

3.2.2. Chiến lợc Marketing-mix


Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.doc) (103 trang)

×