Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (346.4 KB, 65 trang )
- Một đặc trưng riêng có của hoạt động tín dụng ngân hàng là: trong
quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng, ngân hàng nhận nhiều rủi
ro về phía mình hơn khách hàng. Khách hàng khi vay vốn của ngân hàng để
sử dụng, có thể gặp rủi ro không trả được nợ cho ngân hàng, nhưng phần lớn
những rủi ro đó xảy ra là do chính khách hàng như trình độ, năng lực quản
lý, kinh doanh còn yếu kém,…Nhưng đối với ngân hàng, rủi ro có thể xảy ra
với ngân hàng có thể do nguyên nhân bên ngoài, mà ngân hàng khó có thể
kiểm soát và khống chế. Trong hoạt động tín dụng, ngân hàng thương mại
chấp nhận rủi ro và hạn chế thấp nhất những rủi ro có thể xảy ra đối với
ngân hàng.
- Đặc trưng khác của quan hệ tín dụng ngân hàng là: tiền mà ngân
hàng thương mại sử dụng để cấp tín dụng chủ yếu là tiền của người
khác(nguồn tiền huy động). Khi thành lập, mỗi ngân hàng thương mại đều
phải có một số vốn là vốn điều lệ, vốn này phải tối thiểu bằng số vốn pháp
định. Số vốn này không nhỏ, với ngân hàng thương mại thì không thể dùng
số vốn đó để kinh doanh, mà phải chủ yếu dựa vào tiền gủi của khách hàng,
để thực hiện các hoạt động tín dụng và các hoạt động khác.
2.2. Các hình thức tín dụng ngân hàng
2.2.1. Căn cứ theo hình thức phân cấp tín dụng
Căn cứ vào hình thức cấp tín dụng, tín dụng ngân hàng gồm các hình
thức:
- Chiết khấu thương phiếu: là việc ngân hàng ứng trước tiền cho
khách hàng ứng với giá trị thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng
để sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn. Về mặt pháp lý, ngân hàng
không phải đã cho vay đối với chủ thương phiếu. Đây là hình thức trao đổi
trái quyền. Tuy nhiên đối với ngân hàng, hiện tại bỏ ra một khoản tiền để
thu về một khoản lớn hơn trong tương lai với lãi suất định trước được coi là
hoạt động tín dụng.
10
Thương phiếu được hình thành từ quá trình mua bán chịu hàng hoá
và dịch vụ giữa người mua và người bán trong quan hệ tín dụng thương mại.
Người bán giữ thương phiếu đến hạn để đòi tiền người mua, hoặc mang tới
ngân hàng để xin chiết khấu trước thời hạn. Chiết khất thương phiếu là hình
thức cấp tín dụng trong đó ngân hàng cấp cho người giữ thương phiếu một
số tiền, khi người này đem thương phiếu còn hạn đến ngân hàng, giao cho
ngân hàng đó. Đến hạn, ngân hàng có quyền đòi tiền người mua; nếu người
mua không trả, ngân hàng có quyền truy đòi đối với các bên ký tên trên
thương phiếu.
- Cho vay: là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết
khách hàng phải hoàn trả cả gốc và tiền lãi trong một thời gian xác định với
các điều kiện đã được thoả thuận trước trong hợp đồng.
Là hình thức cấp tín dụng trong đó tiền là đối tượng tín dụng. Có
nhiều hình thức cho vay như: cho vay thấu chi, cho vay trực tiếp từng lần,
cho vay theo hạn mức, cho vay luân chuyển,…
- Bảo lãnh: là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính
hộ khách hàng của mình. Mặc dù không phải xuất tiền ra, song ngân hàng đã
cho khách hàng sử dụng uy tín của mình để thu lợi.
Là cam kết của ngân hàng dưới các hình thức phát hành thư bảo lãnh,
mở thư tín dụng, ký hối phiếu nhận nợ về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính
thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ đó như
cam kết với bên thứ ba.
- Cho thuê: là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng
thuê theo những thoả thuận nhất định. Sau thời gian nhất định, khách hàng
phải trả cả gốc lẫn lãi cho ngân hàng.
2.2.2. Căn cứ theo thời hạn cho vay
Căn cứ vào thời hạn cho vay, tín dụng ngân hàng gồm các hình thức:
11
- Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn đến 12 tháng được
sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các
nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân.
- Tín dụng trung hạn: có thời hạn trên 12 tháng đến 60 tháng. Loại tín
dụng này chủ yếu được doanh nghiệp sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố
định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh
doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời hạn thu hồi vốn
nhanh.
- Tín dụng dài hạn: có thời hạn trên 60 tháng. Loại tín dụng này chủ
yếu để đáp ứng nhu cầu dài hạn của doanh nghiệp như: Xây dựng nhà
xưởng, các thiết bị phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các xí
nghiệp mới. .
2.2.3. Căn cứ theo hình thức bảo đảm tín dụng
Căn cứ vào hình thức bảo đảm tín dụng, tín dụng ngân hàng gồm các
hình thức:
- Cầm cố: là hình thức tín dụng theo đó người nhận tài trở của ngân
hàng phải chuyển quyền kiểm soát tài sản đảm bảo sang cho ngân hàng
trong thời gian cam kết
- Thế chấp: là hình thức tín dụng theo đó người nhận tài trợ của ngân
hàng phải chuyển các giấy tờ chứng nhận sở hữu các tài sản đảm bảo sang
cho ngân hàng nắm giữ trong thời gian cam kết.
- Đảm bảo bằng sự bảo lãnh của người thứ ba: là hình thức đảm bảo
đối nhân, trong đó người thứ ba cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính đối
với ngân hàng thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện được
nghĩa vụ đó.
- Tín chấp: là hình thức cấp tín dụng không đòi hỏi có tài sản thế
chấp, cầm cố hoặc có sự bảo lãnh của người thứ ba mà việc cấp tín dụng chỉ
dựa vào uy tín của bản thân khách hàng.
12
2.2.4. Căn cứ vào phương thức hoàn trả
Căn cứ vào phương thức hoàn trả, tín dụng ngân hàng gồm các hình
thức:
- Tín dụng trả góp: là loại tín dụng mà khách hàng phải hoàn trả gốc
và lãi theo định kỳ.
- Tín dụng phi trả góp: là loại tín dụng mà khách hàng phải hoàn trả
gốc và lãi một lần theo kỳ hạn đã thoả thuận.
- Tín dụng không xác định thời hạn: là loại tín dụng mà người vay có
thể hoàn trả bất cứ lúc nào khi có thu nhập, ngân hàng thường không ấn định
thời hạn cụ thể đối với hình thức tín dụng này.
2.2.5. Căn cứ xuất xứ tín dụng
Căn cứ vào xuất xứ tín dụng, tín dụng ngân hàng gồm các hình thức:
- Tín dụng trực tiếp: ngân hàng cấp tín dụng trực tiếp cho người đi
vay, đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho ngân hàng.
- Tín dụng gián tiếp: là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc
mua lại các khế ước hoặc những chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời
hạn thanh toán.
2.3. Vai trò hoạt động tín dụng ngân hàng
Tín dụng là hoạt động cơ bản của ngân hàng, chiếm tỷ trọng lớn trong
toàn bộ các hoạt động, và là hoạt động mang lại thu nhập chủ yếu cho ngân
hàng thương mại. Hoạt động tín dụng góp phần tạo điều kiện cho ngân hàng
thương mại mở rộng được các hoạt động kinh doanh khác nhằm tăng thu
nhập cho ngân hàng.
Tín dụng quyết định sự tồn tại, phát triển của mọi ngân hàng thương
mại. Một ngân hàng thương mại chỉ có thể tồn tại và phát triển khi xác định
được phạm vi, giới hạn và mức độ tín dụng phù hợp với thực lực của bản
thân họ, đảm bảo được tính cạnh tranh trên thị trường với nguyên tắc hoàn
trả đúng thời hạn và có lãi.
13
Ta biết rằng hoạt động tín dụng ngân hàng đóng vai trò quan trọng đối
với bản thân ngân hàng thương mại, khách hàng và nền kinh tế. Vai trò của
nó thể hiện:
- Là công cụ, đòn bẩy mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế và
điều hành nền kinh tế thị trường.
- Là công cụ tài trợ có hiệu quả cho nền kinh tế.
- Góp phần điều tiết vĩ mô nền kinh tế từ đó góp phần làm ổn định và
tăng trưởng kinh tế.
- Tín dụng ngân hàng còn thúc đẩy các doanh nghiệp tăng cường chế
độ hạch toán kế toán giúp các doanh nghiệp khai thác có hiệu quả tiềm năng
kinh tế trong hoạt động kinh doanh vì các ngân hàng chỉ cho vay vốn khi
doanh nghiệp làm ăn có lãi.
Như ta thấy tín dụng ngân hàng có một vai trò quan trọng đối với nền
kinh tế. Hoạt động tín dụng có chất lượng sẽ góp phần thúc đẩy sản xuất
kinh doanh phát triển, tạo ra sự ổn định lưu thông tiền tệ, góp phần thúc đẩy
nền kinh tế phát triển.
Xét đến bản thân các ngân hàng thương mại, hoạt động tín dụng là
một trong những hoạt động rất quan trọng nhưng cũng rất phức tạp và chứa
đựng nhiều rủi ro. Trong quá trình hoạt động kinh doanh thì hiệu quả hoạt
động tín dụng luôn được quan tâm hàng đầu. Nếu xét về mặt chất thì hoạt
động tín dụng ngân hàng phản ánh trình độ tổ chức quản lý hoạt động kinh
doanh của ngân hàng, xét về mặt lượng thì nó phản ánh hiệu quả kinh doanh
của hoạt động kinh doanh của ngân hàng và hiệu quả tín dụng mà nó mang
lại cho các tổ chức quản lý và điều hành hoạt động kinh doanh. Hoạt động
kinh doanh ngân hàng là hoạt động chứa nhiều rủi ro nhất bởi đặc tính của
nó là kinh doanh tiền tệ – loại hàng hoá đặc biệt và nhạy cảm với sự thay đổi
của nền kinh tế, xã hội, chính trị. Do vậy hoạt động tín dụng là vấn đề sống
còn của các ngân hàng, nếu như hoạt động tín dụng yếu kém thì đồng nghĩa
với đó là sự yếu kém của ngân hàng đó, nó sẽ kéo theo một loạt những tác
14
động tiêu cực không chỉ riêng ngân hàng đó mà với cả hệ thống ngân hàng
và nền kinh tế. Do vậy, trong bất kỳ thời điểm nào, thời kỳ nào thì nâng cao
chất lượng tín dụng là vấn đề tất yếu và cần được quan tâm, cụ thể nó biểu
hiện:
- Nâng cao chất lượng tín dụng góp phần giảm rủi ro trong hoạt động
tín dụng ngân hàng, giúp ngân hàng tránh được những rủi ro do chất lượng
hoạt động tín dụng mang lại, mà hậu quả của nó có thể dẫn tới sự phá sản
phá sản của một số ngân hàng thương mại.
- Nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng góp phần tăng khả năng
sinh lời cho ngân hàng thông qua việc tăng thu nợ tín dụng.
- Nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng là tăng khả năng cung ứng
tiền tệ cho ngân hàng thương mại do tạo thêm được nguồn vốn từ việc tăng
vòng quay tín dụng, thu hút thêm khách hàng bởi đa dạng hoá các hình thức
huy động, tạo một hình ảnh tốt về uy tín của ngân hàng, giúp ngân hàng huy
động vốn có hiệu quả.
- Nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng tạo cho ngân hàng một sự
phát triển bền vững, củng cố uy tín của ngân hàng cũng như những mối
quan hệ xã hội của ngân hàng từ đó tạo ra môi trường thuận lợi cho ngân
hàng.
Do vậy, làm thế nào để nâng cao chất lượng tín dụng đảm bảo yêu cầu
phát triển một cách an toàn, bền vững trở thành vấn đề đã và đang được các
tổ chức tín dụng, các cơ quan quản lý nhà nước như Chính phủ, Ngân hàng
nhà nước đặc biệt quan tâm.
3. HIỆU QUẢ TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
3.1. Khái niệm hiệu quả tín dụng của ngân hàng thương mại
Hiệu quả tín dụng là thuật ngữ phản ánh hiệu quả của hoạt động tín
dụng của ngân hàng thương mại, gồm hai yếu tố:”Mức độ an toàn và khả
năng sinh lời của ngân hàng hoạt động tín dụng mang lại”.
15
Có hai mối quan hệ rủi ro và sinh lợi trong hoạt động tín dụng ngân
hàng. Trong hoạt động tín dụng có thể rủi ro càng cao, thì sinh lợi kỳ vọng
càng lớn, và ngược lại. Do đó, ngân hàng có thể theo đuổi hoạt động tín
dụng mà mức độ rủi ro cao hoặc thấp trong ngắn hạn, song đều phải tính đến
mối liên hệ giữa rủi ro và sinh lời để đảm bảo gia tăng thu nhập cho ngân
hàng và chủ sở hữu trong dài hạn.
Hiệu quả tín dụng là điều kiện tiên quyết đối với sự tồn tại và phát
triển của ngân hàng, vì hoạt động tín dụng là hoạt động chủ yếu mang lại lợi
nhuận cho ngân hàng, nhưng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro đe doạ hoạt động
kinh doanh ngân hàng. Do vậy việc nâng cao hiệu quả của hoạt động tín
dụng tại các ngân hàng thương mại luôn là một yêu cầu bức xúc, là điều
kiện sống còn cho bản thân mỗi ngân hàng, cho hệ thống ngân hàng và rộng
hơn nữa là cho cả nền kinh tế.
3.2. Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tín dụng
Để đánh giá hiệu quả tín dụng của ngân hàng thương mại, nên kết hợp
phân tích số tương đối và số tuyệt đối, theo dõi tình hình biến động qua các
năm,khi đánh giá hiệu quả tín dụng tại một đơn vị, chi nhánh ngân hàng, có
thể so sánh từng chỉ tiêu với chỉ tiêu bình quân tương ứng trong cùng hệ
thống của ngân hàng thương mại đó. Nếu có điều kiện, có thể so sánh các
chỉ tiêu của ngân hàng đang nghiên cứu với các chỉ tiêu bình quân tương
ứng của các ngân hàng cùng loại, và chỉ tiêu bình quân tương ứng toàn
ngành.
3.2.1. Các chỉ tiêu về nợ quá hạn
Nợ quá hạn là khoản nợ mà khách hàng không hoàn trả được cho
ngân hàng khi đã đến hạn thoả thuận trên hợp đồng tín dụng. Các chỉ tiêu về
nợ quá hạn phản ánh mức độ an toàn của hoạt động tín dụng ngân hàng.
* Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ: là tỷ lệ giữa khoản nợ gốc quá
hạn trên tổng dư nợ
16