Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (346.4 KB, 65 trang )
Có hai mối quan hệ rủi ro và sinh lợi trong hoạt động tín dụng ngân
hàng. Trong hoạt động tín dụng có thể rủi ro càng cao, thì sinh lợi kỳ vọng
càng lớn, và ngược lại. Do đó, ngân hàng có thể theo đuổi hoạt động tín
dụng mà mức độ rủi ro cao hoặc thấp trong ngắn hạn, song đều phải tính đến
mối liên hệ giữa rủi ro và sinh lời để đảm bảo gia tăng thu nhập cho ngân
hàng và chủ sở hữu trong dài hạn.
Hiệu quả tín dụng là điều kiện tiên quyết đối với sự tồn tại và phát
triển của ngân hàng, vì hoạt động tín dụng là hoạt động chủ yếu mang lại lợi
nhuận cho ngân hàng, nhưng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro đe doạ hoạt động
kinh doanh ngân hàng. Do vậy việc nâng cao hiệu quả của hoạt động tín
dụng tại các ngân hàng thương mại luôn là một yêu cầu bức xúc, là điều
kiện sống còn cho bản thân mỗi ngân hàng, cho hệ thống ngân hàng và rộng
hơn nữa là cho cả nền kinh tế.
3.2. Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tín dụng
Để đánh giá hiệu quả tín dụng của ngân hàng thương mại, nên kết hợp
phân tích số tương đối và số tuyệt đối, theo dõi tình hình biến động qua các
năm,khi đánh giá hiệu quả tín dụng tại một đơn vị, chi nhánh ngân hàng, có
thể so sánh từng chỉ tiêu với chỉ tiêu bình quân tương ứng trong cùng hệ
thống của ngân hàng thương mại đó. Nếu có điều kiện, có thể so sánh các
chỉ tiêu của ngân hàng đang nghiên cứu với các chỉ tiêu bình quân tương
ứng của các ngân hàng cùng loại, và chỉ tiêu bình quân tương ứng toàn
ngành.
3.2.1. Các chỉ tiêu về nợ quá hạn
Nợ quá hạn là khoản nợ mà khách hàng không hoàn trả được cho
ngân hàng khi đã đến hạn thoả thuận trên hợp đồng tín dụng. Các chỉ tiêu về
nợ quá hạn phản ánh mức độ an toàn của hoạt động tín dụng ngân hàng.
* Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ: là tỷ lệ giữa khoản nợ gốc quá
hạn trên tổng dư nợ
16
Tổng dư nợ quá hạn(gốc hoặc gốc + lãi)
Tỷ lệ quá hạn =
-----------------------------------------------Tổng dư nợ
Tỷ lệ nợ quá hạn thấp tức là độ an toàn tín dụng tại ngân hàng hiện tại
cao và ngược lại. Phần lớn các khoản nợ quá hạn là các khoản nợ “ có vấn
đề”, có thể bị mất toàn bộ vốn cho vay hoặc mất một phần. Đây là chỉ tiêu
quan trọng để đánh giá độ an toàn tín dụng và hiệu quả tín dụng của ngân
hàng thương mại.
Tỷ lệ nợ quá hạn cho thấy rủi ro đối với các khoản cho vay và hậu quả
của các khoản nợ quá hạn, có thể là nguy cơ gây mất vốn toàn bộ hoặc một
phần cho ngân hàng trên tổng dư nợ. Tuy nhiên, tỷ lệ nợ quá hạn chỉ xét đến
việc hoàn trả khi đã quá hạn chứ không xét đến tổng dư nợ có nguy cơ quá
hạn.
Như vậy, nếu khoản cho vay tăng nhanh thì việc sử dụng tỷ lệ nợ quá
hạn có thể phản ánh rủi ro không chính xác. Số dư nợ cho vay ra tăng cùng
với số tiền cho vay được giải ngân, trong khi đó số nợ đến hạn chỉ tăng khi
các khoản nợ đến kỳ hạn phải trả. Như vậy tốc độ tăng cho vay tăng nhanh
có thể che dấu đi vấn đề nợ quá hạn, không tính đến các chỉ số đánh giá an
toàn tín dụng có được sử dụng hay không. Do đó ngân hàng thương mại cần
thận trọng khi đánh giá độ an toàn tín dụng bằng việc xác định kỳ hạn như
thế nào thì coi là quá hạn.
* Tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ quá hạn
Khi đến hạn mà khách hàng không trả được nợ, ngân hàng thường
phải gia hạn nợ cho khách hàng, tạo điều kiện để họ có thể trả được nợ cho
ngân hàng. Nợ khó đòi là khoản nợ quá hạn sau khi ngân hàng thương mại
đã ra hạn nợ. Ngoài tỷ lệ nợ quá hạn, các ngân hàng còn sử dụng chỉ tiêu tỉ
lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ quá hạn hoặc tỉ lệ nợ quá hạn có khả năng thu
hồi trên tổng dư nợ quá hạn. Nhờ có các chỉ tiêu đó mà ngân hàng thương
mại có thể biết được bao nhiêu phần trăm trong tổng nợ quá hạn có khả năng
17
thu hồi, bao nhiêu phần trăm không có khả năng thu hồi. Việc kết hợp giữa
các chỉ tiêu này cho phép đánh giá chi tiết hơn về độ an toàn tín dụng.
Khi sử dụng các chỉ tiêu về nợ quá hạn để đánh giá hiệu quả tín dụng,
cần chú ý rằng các chỉ tiêu này có thể bị thay đổi do định kì hạn nợ không
đúng; do đảo nợ, giãn nợ; hoặc do chính sách cho vay,…, khi đó sẽ không
phản ánh chính xác về các mức độ an toàn của hoạt động tín dụng.
3.2.2. Tỷ lệ mất vốn
Hiệu quả tín dụng chịu ảnh hưởng trực tiếp của chính sách xoá nợ của
ngân hàng thương mại. Nếu khoản nợ quá hạn không được theo dõi mà được
xoá nợ thì khoản nợ đó được xem như không có khả năng thu hồi. Từ đó,
nếu các khoản vay được xoá nợ quá nhanh thì tỷ lệ nợ quá hạn thấp một
cách không thực tế và hiệu quả tín dụng dường như là tốt. Do vậy, chỉ tiêu
này được sử dụng để phân tích song song với các chỉ tiêu về nợ quá hạn ở
trên, cùng phản ánh mức độ an toàn của hoạt động tín dụng.
Tỷ lệ mất vốn là tỷ số giữa số vốn bị mất do xoá nợ cho kỳ báo cáo
trên dư nợ bình quân của kỳ báo cáo. Tỷ lệ này cho biết những khoản vay có
khả năng bị mất và các khoản vay bị mất thực sự của ngân hàng thương mại.
3.2.3. Tỷ lệ thu nhập từ hoạt động tín dụng trên tổng thu nhập
Tỉ lệ này là tỉ số giữa thu nhập từ hoạt động tín dụng với tổng thu
nhập của ngân hàng. Trong chỉ tiêu này, thu nhập từ hoạt động tín dụng và
tổng thu nhập của ngân hàng sử dụng để tính toán phải cùng là thu nhập
trước thuế hoặc cùng là thu nhập sau thuế.
Việc nâng cao hiệu quả tín dụng chỉ có hiệu quả thực sự khi nó góp
phần quan trọng nâng cao khả năng sinh lời của ngân hàng thương mại. Tín
dụng là hoạt động chủ yếu mang lại thu nhập cho ngân hàng, nên hiệu quả
tín dụng cao phải thể hiện ở tỷ trọng của thu nhập từ hoạt động tín dụng
trong tổng thu nhập của ngân hàng là cao và ngược lại.
18
Khi sử dụng chỉ tiêu này để phân tích, cần phải phân tích thêm chỉ
tiêu tỉ lệ số lãi thực thu được từ cho vay so với tổng số lãi phải thu từ cho
vay.
Nếu như tỉ lệ này càng cao càng phản ánh biểu hiện tốt hơn của hiệu
quả tín dụng.
3.2.4. Mức sinh lời vốn tín dụng (MSLVTD)
Thu nhập sau thuế từ hoạt động tín dụng
MSLVTD= ----------------------------------------------------------Dư nợ bình quân
Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng dư nợ bình quân sẽ tạo ra bao nhiêu
đồng thu nhập sau thuế cho ngân hàng.
Chỉ tiêu này phản ánh trực tiếp hiệu quả tín dụng, cho biết khả năng
sinh lời của hoạt động tín dụng. Đối với mọi ngân hàng thương mại mục tiêu
cuối cùng là tăng lợi nhuận. Với mức sinh lời vốn tín dụng càng lớn thì khả
năng sinh lời của hoạt động tín dụng càng cao, phản ánh hiêu quả tín dụng
càng cao và ngược lại.
Tuy nhiên, không phải lúc nào mức sinh lời vốn tín dụng cao cũng có
thể làm cho ngân hàng thương mại hoàn toàn yên tâm về hoạt động của
mình, nhất là trong tương lai, trong dài hạn. Chỉ tiêu này là rất quan trọng,
nhưng nó cần được phân tích cùng với các chỉ tiêu khác, đặc biệt là các chỉ
tiêu về độ an toàn tín dụng.
3.3. Nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tín dụng của ngân hàng
thương mại
3.3.1. Yếu tố thuộc về ngân hàng
3.3.1.1. Trình độ cán bộ ngân hàng
Con người là nhân tố quyết định đến sự thành bại trong hoạt động
kinh doanh của ngân hàng thương mại và nâng cao hiệu quả hoạt động tín
dụng tại ngân hàng thương mại. Chất lượng nhân sự ngày càng được đòi hỏi
19
cao để có thể đáp ứng kịp thời với sự thay đổi nhanh chóng của môi trường
kinh doanh và hoạt động tín dụng của ngân hàng.
Trên thực tế, hiệu quả tín dụng cao hay thấp phụ thuộc khá nhiều vào
việc tuyển chọn và đào tạo đội ngũ cán bộ của mỗi ngân hàng thương mại.
Một ngân hàng thương mại với đội ngũ cán bộ công nhân viên có trình độ
nghiệp vụ chuyên môn cao, phẩm chất đạo đức tốt, thì việc quản lý hoạt
động tín dụng cũng như những hoạt động khác, thực hiện các nghiệp vụ
ngân hàng nói chung và nghiệp vụ tín dụng nói riêng sẽ đạt kết quả cao. Hơn
nữa, nó còn giúp cho ngân hàng tránh được những rủi ro có thể xảy ra do
trình độ cán bộ, nhờ đó mà hiệu quả tín dụng luôn được đảm bảo.
3.3.1.2. Chiến lược kinh doanh
Để đạt được mục tiêu của mình mỗi ngân hàng đã tự đề ra cho mình
những chiến lược kinh doanh phù hợp với tiềm lực và thế mạnh của mình để
đạt được những mục tiêu nhất định mà ngân hàng đã đề ra.
Chiến lược kinh doanh là một nhân tố ảnh hưởng đầu tới hiệu quả tín
dụng. Ngân hàng thương mại cần có chiến lược kinh doanh để không rơi vào
thế bị động trong hoạt động kinh doanh của mình. Dựa trên chiến lược kinh
doanh dài hạn đúng đắn, ngân hàng thương mại mới có thể có những kế
hoạch đúng đắn cho từng thời kỳ để bảo đảm thực hiện mục tiêu đề ra.
3.3.1.3. Chính sách tín dụng
Huy động nguồn vốn và uy tín và tìm kiếm lợi nhuận và đặc biệt là
mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận luôn là mục tiêu hàng đầu đối với mỗi ngân
hàng thương mại, để đạt được mục tiêu đã đề ra mỗi ngân hàng thương mại
có những chính sách tín dụng khác nhau để đạt được những mục đích đó.
Chính sách tín dụng của một ngân hàng thương mại là một hệ thống
những biện pháp liên quan đến việc tăng cường khả năng tín dụng hoặc hạn
chế tín dụng để đạt được mục tiêu đã đề ra của ngân hàng thương mại.
Chính sách tín dụng bảo đảm cho hoạt động tín dụng đi đúng hướng,
nó quyết định đến sự thành công hay thất bại của hoạt động tín dụng nói
20
riêng và toàn bộ hoạt động của một ngân hàng thương mại nói chung. Một
chính sách tín dụng đúng đắn sẽ thu hút được nhiều khách hàng, bảo đảm
khả năng sinh lời từ hoạt động tín dụng trên cơ sở phân tán rủi ro, tuân thủ
pháp luật, đường lối, chính sách của nhà nước và bảo đảm công bằng xã hội.
3.3.1.4. Quy trình tín dụng
Đảm bảo quy trình tín dụng là một việc rất quan trọng đối với mỗi hệ
thống ngân hàng, nó đảm bảo sự thống nhất trong quá trình hoạt động tín
dụng của ngân hàng thương mại.
Quy trình tín dụng bao gồm những bước phải thực hiện trong quá
trình cho vay, thu nợ nhằm đảm bảo an toàn vốn tín dụng; được bắt đầu từ
khi chuẩn bị cho vay, phát tiền vay, kiểm tra quá trình sử dụng vốn đến khi
thu hồi được nợ. Hiệu quả tín dụng có được bảo đảm hay không tuỳ thuộc
vào việc thực hiện tốt các qui định ở từng bước và sự phối hợp nhịp nhàng
giữa các bước trong quy trình tín dụng.
3.3.1.5. Hệ thống thông tin tín dụng
Hiệu quả của hoạt động tín dụng không những ảnh hưởng tới lợi ích
của cả ngân hàng thương mại và lợi ích của người cho vay, để hạn chế rủi ro
có thể xảy ra ngân hàng thương mại cần có một hệ thống thông tin đầy đủ
đối với mỗi khách hàng.
Cấp tín dụng không phải là một vấn đề đơn giản. Trên thực tế không
phải khách hàng nào cũng sử dụng vốn tín dụng đúng mục đích và có hiệu
quả, ngoài ra còn có những khách hàng chủ định lừa ngân hàng để chiếm
đoạt tài sản gây rủi ro, tổn thất cho ngân hàng.Vì vậy, hoạt động tín dụng
muốn tăng trưởng, đảm bảo an toàn vốn, đạt hiệu quả cao đòi hỏi phải có hệ
thống thông tin hữu hiệu phục vụ công tác này. Nắm bắt kịp thời, chính xác
các luồng thông tin về khách hàng là điều kiện để xem xét, phân tích tìm ra
những cơ hội tốt trong kinh doanh cũng như để đề phòng những rủi ro có thể
xảy ra trong hoạt động của mỗi ngân hàng thương mại.
21
Trên thương trường, với nhiều đối thủ cạnh tranh, người nào nắm bắt
được những thông tin cần thiết một cách nhanh nhất, chính xác nhất sẽ nắm
được đa phần thắng. Rõ ràng việc xây dựng hoàn chỉnh một hệ thống thông
tin tín dụng với nhiều kênh, nhiều nguồn cung cấp cùng với việc đào tạo đội
ngũ cán bộ có đủ năng lực có chọn lọc, xử lý thông tin kịp thời là một trong
những điều kiện quyết định sự thành công trong công tác kinh doanh và thực
hiện nâng cao hiệu quả tín dụng của ngân hàng thương mại.
3.3.1.6. Hiệu quả công tác huy động vốn
Hoạt động huy động vốn của ngân hàng đóng một vai trò quan trọng
quyết định sự thành công của ngân hàng, từ nguồn vốn có được từ việc huy
động ngân hàng sẽ dùng nguồn tiền đó để cho vay và kinh doanh để thu lời.
Hoạt động tín dụng cũng như tất cả các hoạt động khác của ngân hàng
thương mại chỉ có thể thực hiện được tốt nếu công tác huy động vốn được
tiến hành hiệu quả. Nếu một ngân hàng thương mại có chiến lược khách
hàng tốt, thu hút được nhiều khách hàng tín dụng làm ăn có hiệu quả, có nhu
cầu vốn lớn về xác lập quan hệ tín dụng với ngân hàng, nhưng số vốn huy
động được không đủ để ngân hàng cung cấp tín dụng cho những khách hàng
đó, thì hoạt động tín dụng của ngân hàng không thể đạt hiệu quả cao. Huy
động vốn có hiệu quả luôn là bước đệm cho việc nâng cao hiệu quả tín dụng
của ngân hàng thương mại.
3.3.1.7. Công tác tổ chức ngân hàng
Để tạo điều kiện cho việc nâng cao hiệu quả tín dụng, cần có sự phối
hợp nhịp nhàng giữa các phòng ban, có sự đoàn kết thống nhất từ trên xuống
dưới, từ ban lãnh đạo đến toàn bộ cán bộ công nhân viên của ngân hàng
thương mại. Công tác tổ chức ngân hàng được thực hiện tốt chính là cơ sở
để tiến hành các nghiệp vụ tín dụng lành mạnh. Hơn nữa, thực hiện tốt công
tác này ngân hàng đã làm cho guồng máy hoạt động của mình được uyển
chuyển, nhịp nhàng, linh hoạt. Chính vì vậy, trong quá trình hoạt động ngân
22
hàng nên chú trọng mặt này để ngày càng hoàn thiện, phát triển toàn bộ hoạt
động của mình và tạo điều kiện cho việc nâng cao hiệu quả tín dụng.
3.3.1.8. Vấn đề kiểm tra, giám sát, thanh tra
Kinh doanh tiền tệ là một lĩnh vực chịu nhiều rủi ro, mà chủ yếu là rủi
ro xảy ra đối với ngân hàng là chính, và xuất phát từ nhiều yếu tố cả chủ
quan và khách quan.
Mở rộng quy mô hoạt động tín dụng, tăng cường cho vay mà không
tính đến những rủi ro, bất trắc có thể xảy ra thì sụp đổ và phá sản là những
mối đe doạ thường trực đối với mỗi ngân hàng thương mại.
Một trong những nghịêp vụ hoạt động nhằm mục đích giúp cho ngân
hàng tránh được rủi ro trên là công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm soát. Công
tác này không chỉ thực hiện đối với khách hàng mà còn được thực hiện với
bản thân ngân hàng, kiên quyết loại trừ những cán bộ mất phẩm chất, tiêu
cực, tham ô, tham nhũng gây thất thoát tài sản làm mất uy tín của ngân
hàng.
Nâng cao hoạt động tín dụng cũng đồng thời là việc đòi hỏi ngân hàng phải
ngăn chặn, phát hiện được những hành vi vi phạm pháp luật có ảnh hưởng
đến hoạt động tín dụng nói riêng và tất cả các mặt hoạt động nói chung của
ngân hàng cũng như bảo vệ được tài sản, đội ngũ cán bộ, uy tín của ngân
hàng. Muốn vậy, việc bố trí những cán bộ có năng lực, trình độ và trách
nhiệm cao, phẩm chất tốt, trung thực, khách quan thực hiện công tác kiểm
tra, thanh tra giám sát là vấn đề mà không một ngân hàng nào được coi nhẹ.
3.3.2. Yếu tố bên ngoài
3.3.2.1. Khách hàng
Những nhân tố thuộc về khách hàng ảnh hưởng tới hiệu quả tín dụng
của ngân hàng thương mại là:
- Năng lực sản xuất kinh doanh, trình độ quản lý của khách hàng
Nếu năng lực sản xuất kinh doanh, trình độ quản lý của khách hàng yếu,
chưa đủ sức cạnh tranh trên thị trường, có thể dẫn đến tình trạng khách hàng
23
không trả được hoặc không trả đủ nợ cho ngân hàng, hoặc ngân hàng phải
co cụm trong đầu tư, khiến hiệu quả tín dụng tại ngân hàng bị giảm sút.
- Những kiến thức cơ bản của khách hàng trong việc vay vốn
Nếu khách hàng không biết những kiến thức cơ bản cần có trong việc vay
vốn cũng có thể gây khó khăn cho ngân hàng, thậm chí đẩy ngân hàng vào
tình thế tiến thoái lưỡng nan. Những kiến thức này tuy đơn giản, nhưng nếu
khách hàng không nắm được, thì sẽ ảnh hưởng không tốt tới hiệu quả tín
dụng của ngân hàng thương mại.
- Tính trung thực, chính xác của những thông tin mà khách hàng cung
cấp cho ngân hàng
Có những khách hàng cố tình cung cấp thông tin không chính xác, không
trung thực cho ngân hàng. Điều này gây khó khăn cho ngân hàng trong việc
nắm bắt tình hình sản xuất kinh doanh cũng như việc theo dõi, giám sát,
quản lý vốn vay của khách hàng để từ đó có thể đưa ra những quyết định
đầu tư đúng đắn, hoặc những biện pháp tình thế kịp thời, điều này làm hiệu
quả tín dụng ngân hàng bị giảm sút.
- Sự chây ì của khách hàng
Có những trường hợp khách hàng kinh doanh có lãi nhưng họ vẫn
không trả nợ cho ngân hàng đúng hạn. Họ chây ì với hy vọng co thể quỵt nợ
hoặc sử dụng vốn vay càng lâu càng tốt. Hành vi này sẽ ảnh hưởng xấu tới
hiệu quả tín dụng tại ngân hàng thương mại.
- Tính đúng mục đích của việc sử dụng vốn
Việc sử dụng vốn đúng mục đích là một trong những yêu cầu cơ bản
của ngân hàng đối với khách hàng cho vay, và ngân hàng nào cũng có
những biện pháp để giám sát mục đích sử dụng vốn của khách hàng. Tuy
vậy, việc sử dụng vốn sai mục đích vẫn có thể xảy ra và ảnh hưởng tới hiệu
quả tín dụng của ngân hàng. Chẳng hạn, khách hàng là doanh nghiệp sử
dụng vốn ngân hàng không đúng đối tượng kinh doanh, không đúng với
phương án, mục đích xin vay, thậm chí có khách hàng sử dụng vốn vay ngắn
24
hạn sử dụng đầu tư vào tài sản cố định hoặc kinh doanh bất động sản…Đây
rất có thể là những nguyên nhân cho việc họ không trả được nợ đúng hạn,
thậm chí phá sản, không trả được nợ cho ngân hàng.
- Việc bị chiếm dụng vốn hoặc bị lừa đảo
Khi doanh nghiệp vay vốn bị chiếm dụng vốn, trong đó có vốn vay
ngân hàng, thậm chí bị lừa đảo, sẽ khiến cho doanh nghiệp đó không trả
được nợ cho ngân hàng, làm hiệu quả tín dụng của ngân hàng thương mại bị
giảm sút.
3.3.2.2. Yếu tố khác
*Những chủ trương, chính sách của NHNN
Những chủ trương, chính sách của NHNN – cơ quan quản lý vĩ mô
trực tiếp của các ngân hàng thương mại có tác động hết sức lớn lao tới hoạt
động tín dụng của ngân hàng thương mại. NHNN đưa ra những định hướng
lớn và đôi khi cả những hướng dẫn chi tiết cho hoạt động của các ngân hàng
thương mại, đặc biệt là hoạt động tín dụng, nhằm thực hiện mục tiêu điều
tiết vĩ mô và quản lý. Hiệu quả tín dụng tại ngân hàng thương mại cũng chịu
ảnh hưởng của những chủ trương, chính sách đó, khi mà một ngân hàng
thương mại không thể đi ngược lại chúng.
Ngoài ra, cơ chế, chính sách của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
khác có tác động đến mọi hoạt động của nền kinh tế nên cũng tác động trực
tiếp đến khách hàng vay vốn của ngân hàng. Nếu chính sách của nhà
nước(như chính sách thuế, chính sách tiền tệ, chính sách xuất nhập khẩu…)
không tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, gây khó khăn cho các
doanh nghiệp (gồm các khách hàng của ngân hàng và bản thân ngân hàng )
trong sản xuất kinh doanh, hiệu quả tín dụng chắc chắn sẽ bị giảm sút.
* Môi trường kinh tế
Một nền kinh tế có mức tăng trưởng ổn định sẽ làm giá cả luôn giữ ở
mức ổn định, tình trạng lạm phát ở mức thấp tạo điều kiện cho ngân hàng
thương mại mở rộng quy mô hoạt động của mình và tránh được những thiệt
25
hại cho ngân hàng do sự mất giá của đồng tiền, từ đó hiệu quả tín dụng của
ngân hàng có cơ hội thuận lợi để được nâng cao.
Một trong những nhân tố có tác động lớn tới hiệu quả tín dụng là chu
kỳ phát triển kinh tế. Trong thời kỳ kinh tế phát triển hưng thịnh sẽ có nhiều
cơ hội làm ăn cho các nhà đầu tư, sản xuất kinh doanh được mở rộng, lợi
nhuận các thành phần kinh tế trong xã hội thu được tăng cao. Từ đó, nhu cầu
vay vốn và khả năng trả nợ của khách hàng sẽ tăng. Điều này tạo điều kiện
cho ngân hàng mở rộng cho vay và hiệu quả tín dụng được tăng lên. Ngược
lại, trong thời kỳ nền kinh tế suy thoái, sản xuất kinh doanh bị đình trệ, quy
mô sản xuất thu hẹp, thua lỗ kéo dại dẫn đến các khách hàng của ngân hàng
khó khăn trong việc trả nợ, hiệu quả tín dụng bị giảm sút.
* Môi trường xã hội
Quan hệ tín dụng dựa trên cơ sở tín nhiệm là chủ yếu. Vì vậy, sự tín
nhiệm là cầu nối của mối quan hệ ngân hàng và khách hàng. Uy tín của ngân
hàng trên thị trường tiền tệ cao sẽ thu hút được nhiều khách hàng, ngược lại
khách hàng có uy tín, được ngân hàng tín nhiệm tạo thuận lợi trong việc cấp
tín dụng.
Trong xã hội có nhiều truyền thống tốt đẹp, ít tệ nạn xã hội như lừa
đảo, làm ăn phi pháp cũng góp phần nâng cao hiệu quả tín dụng.
* Tình hình chính trị
Một quốc gia có sự ổn định về chính trị, không có chiến tranh thì đây
là môi trường thuận lợi và yên tâm cho các nhà đầu tư trong nước cũng như
các nhà đầu tư nước ngoài. Chính trị ổn định thì nền kinh tế mới phát triển,
bất cứ sự biến động nào về chính trị cũng dẫn tới xáo động lớn cho toàn bộ
nền kinh tế. Riêng đối với ngân hàng nó có ảnh hưởng trực tiếp tới việc huy
động vốn, tới hiệu quả tín dụng.
* Môi trường pháp lý
Pháp luật là một bộ phận không thể thiếu được ở bất kỳ nền kinh tế
nào, là cơ sở để giải quyết mọi mối quan hệ giữa các chủ thể trong xã hội.
26