Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.23 MB, 45 trang )
Trang 3
bức xạ trong bất kỳ hệ thống ghi nhận nào và liên quan đến quá trình thống kê phân
rã hoạt độ phóng xạ.
5.1. CÁC NGUYÊN TẮC GHI NHẬN
Hiện nay, có hai phương pháp ghi nhận bức xạ chính sử dụng các detector, đó
là dựa vào sự ion hóa của chất khí (detector tỉ lệ và G-M), các tinh thể được kích
thích do sự phát quang (detector nhấp nháy) hoặc sự ion hóa của vật rắn (detector
bán dẫn). Nguyên tắc của sự ion hóa trong chất bán dẫn thì tương tự như trong chất
khí, ngoại trừ, điện tích được di chuyển nhờ các electron và proton trong tinh thể
thay vào đó là các electron và các ion dương trong nguyên tử khí. Các chất bán dẫn
ngày càng được sử dụng rộng rãi nhất trong detector ghi nhận bức xạ khi công nghệ
ngày càng phát triển.
Các hệ thống đo hoạt độ phóng xạ dạng xung, mà đầu ra của detector được
xem như một chuỗi tín hiệu điện độc lập trong thời gian ấn định. Mỗi tín hiệu đặc
trưng cho sự tương tác của một đơn vị bức xạ với detector. Hệ thống không tín hiệu
thì thông thường được sử dụng trong những thiết bị đo bức xạ loại khảo sát và
không được sử dụng rộng rãi cho việc đo hạt nhân phóng xạ, được xem như một hệ
thống phát hiện ở mức trung bình.
Các phương pháp đo hoạt độ phóng xạ hiện đại không chỉ xác định số bức xạ
ghi nhận được trên đơn vị thời gian (tốc độ đếm) nhưng ngoài ra chúng còn cho
phép tách các bức xạ theo loại và năng lượng ở những mức độ khác nhau. Các hệ
thống với sự phân giải năng lượng được gọi là phổ kế và có thể dùng đo bức xạ tia
alpha, beta và gamma, phổ kế tia gamma thì sử dụng đặc biệt cho sự phân tích hạt
nhân phóng xạ. Trong phổ kế tia gamma, sự khuếch đại của mỗi tín hiệu điện thì
tương ứng với năng lượng tia gamma còn lại trong detector. Thiết bị phân loại (kỹ
thuật phân tích biên độ xung) có thể tách các loại xung nhờ biên độ và tần số.
Kỹ thuật phân tích biên độ xung đa kênh, hoạt động trong sự liên kết với thiết
bị biến đổi số tương tự (ADC), một thiết bị lưu trữ phù hợp (bộ nhớ) và sự cung cấp
thiết bị dữ liệu thông thường được sử dụng để phân tích hỗn hợp phức tạp của hạt
Trang 4
nhân phóng xạ phát tia gamma mà không cần sự phân tích hóa học của hỗn hợp
nguyên tố. Khi được yêu cầu phân tích nhiều loại nguyên tố cùng lúc, thông tin
trong bộ nhớ được máy tính xử lý dữ liệu một cách hoàn chỉnh. Sự ghi nhận đặc
tính điện của các bức xạ đặc biệt từ nhiều hạt nhân phóng xạ riêng biệt cũng có thể
được thực hiện nhờ sử dụng phép đo trùng hợp ngẫu nhiên. Đối với một sự kiện
được thu nhận khi một hạt nhân phóng xạ riêng biệt phân rã. Sự ảnh hưởng của hai
bức xạ liên tiếp và đồng thời phải được khảo sát trong một thời gian xác định trước.
Thông thường hai ghi nhận có thể là một tia beta và tia gamma theo sau như trong
2.3-m
28
Al, hai tia gamma liên tiếp như trong 60Co hoặc hai photon phân rã xảy ra
trong bất kỳ sự phát positron nào. Vì vậy, hạt nhân phóng xạ phù hợp nhất cho sự
đo lường bằng phương pháp ngẫu nhiên thì thông thường cũng được sử dụng cho sự
phân rã hóa học phức tạp hơn. Hệ thống này được bàn luận trong chương 6.
5.2. DETECTOR CHỨA KHÍ
Detector ghi nhận bức xạ chứa khí là một trong những loại cũ nhất của
detector ghi nhận bức xạ có thể sử dụng được và vẫn được sử dụng một cách rộng
rãi. Các loại detector bao gồm buồng ion hóa, buồng tỉ lệ, ống G-M. Các loại
detector này có đặc điểm chung là một buồng chứa khí với điện cực ở giữa, cách
nhiệt với thành buồng. Một điện thế cung cấp cho điện cực ở giữa tạo ra một trường
tĩnh điện ngang qua buồng. Do đó, các cặp ion là kết quả từ sự bức xạ ion hóa được
gia tốc hướng về các điện cực. Sơ đồ hệ thống của cửa sổ cuối đặc trưng cho
detector G-M và ống tỉ lệ được trình bày trong hình 5.1.
Sự tập trung các ion đã gây ra sự ion hóa các nguyên tử khí trong buồng tạo ra
một tín hiệu điện. Tín hiệu này có thể gồm các electron tự do hoặc các cặp ion, đó là
các electron và các ion dương. Trạng thái của các electron tự do và các ion dương
phụ thuộc vào tính chất của khí trong buồng và điện thế cung cấp. Vì thậm chí sự
dịch chuyển ion trong chất khí tương đối chậm so với sự dịch chuyển các electron,
các detector thu nhận tín hiệu ion để cho sự tập trung nhanh của các electron.
Trang 5
Hình 5.1: Sơ đồ hệ thống của các Detector ion hóa khí: (a) Buồng tỉ lệ dòng
khí. (b) Ống G-M cửa sổ cuối [From Bernard G. Harvey, Introduction to
Nuclear Physic and Chemistry, 2nd Ed (Prentice-Hall Inc, Englwood Cliffs,
N. J, 1969) By permission of the publisher]
Điều đó được ghi chú trong phần 4.3.2, rằng độ hụt trung bình theo năng lượng của
một hạt tích điện trong sự ion hóa nguyên tử khí khoảng 34 eV/ip. Vì vậy, nếu tổng
năng lượng của một hạt beta được dùng cho sự ion hóa kích thích trong detector
chứa khí thì số hạt electron tạo ra sẽ là:
n=
Eβ (ev)
34
Nếu tổng các hạt electron này được tích tụ tại điện cực ở giữa thì điện tích sẽ
là:
Q = en = 1.6. 10-19n (C)
Nếu N(hạt/giây) được dừng lại hoàn toàn trong detector dẫn đến cường độ
dòng sẽ là:
I = QN = 1.6.10-19nN (A)
Ví dụ, một nguồn beta có N=100 (hạt/giây) đi vào detecter với năng lượng
trung bình là 1 MeV. Sẽ tạo ra một cường độ dòng là
Trang 6
I = 1,6.10-19.106/34.102 = 4,7.10-13 A.
Như vậy, cường độ dòng dễ dàng được đo nhờ một thiết bị đo điện. Thiết bị đo
điện gồm nhiều loại có thể đo cường độ dòng trong phạm vi từ 10 -8 đến 10-14 (A) và
là những thiết bị đọc thông thường cho buồng ion hóa loại dòng trung bình.
Giả sử, số hạt electron đã tập trung trong buồng ion hóa thì tương ứng với số
hạt như thế đã dừng trong buồng trên một đơn vị thời gian. Tuy nhiên, số hạt
electron tồn tại đã tập trung nhiều với điện thế cung cấp cho buồng. Tại điện thế
thấp sự tích điện tại điện cực đối lập với sự mất dần của các cặp ion bằng sự kết
hợp, biến thành nguyên tử trung hòa. Tại điện thế cao, sự ion hóa sơ cấp các
electron tự do là nguyên nhân để bức xạ đạt động năng đủ trong suốt quá trình gia
tốc chúng hướng tới điện cực làm phát sinh những hạt electron thứ cấp (cái thêm
vào để tích điện) quá trình này được gọi là khuếch đại khí.
Mối quan hệ giữa số hạt electron đã tập trung trên sự kiện hoặc biên độ xung
và điện thế cung cấp trong một buồng đặc trưng hình trụ được mô tả trong hình 5.2
cho hạt alpha và hạt beta. Giới hạn điện thế thích hợp được chia thành 5 miền. Hai
miền đầu thiết lập phạm vi của sự ion hóa sơ cấp hoặc ion hóa đơn. Trái lại, miền
tập trung.
Biên độ xung tương đối
cuối thứ 3 bao phủ vùng khuếch đại khí mà các electron thứ cấp thêm vào điện tích
Điện thế cung cấp
Hình 5.2: Kích thước tương đối của biên độ xung trong buồng ion hóa như một
hàm đặc trưng của điện áp cung cấp cho hạt alpha và beta
Trang 7
Trong miền tái hợp, vận tốc trung bình của các ion đã gia tốc hướng về điện
cực tăng lên cùng với điện thế, thời gian sử dụng cho sự tái hợp giảm và hiệu suất
của điện tích tăng. Do vậy, chiều cao tín hiệu đi ra tăng với điện thế cung cấp.
Trong miền bão hòa, sự tái hợp yếu hơn trở nên không đáng kể vì thời gian
cần thiết cho sự tập trung của tất cả các ion trong buồng trở nên rất ngắn. Điện tích
tập trung được xác định bởi (2) và độ cao xung tỉ lệ với năng lượng bức xạ đã sử
dụng trong buồng. Vì sự còn lại của năng lượng đàn hồi cùng số cặp ion được tích
tụ. Do vậy, độ cao tín hiệu không phụ thuộc vào điện thế cung cấp. Ngoài ra, miền
này được gọi là miền buồng ion hóa, do tại điện thế này, dòng bão hòa tương ứng
với năng lượng trung bình còn lại trong buồng ion hóa. Buồng ion hóa hoạt động
như một hệ thống detector ghi nhận bức xạ mức trung bình. Cũng thế, do quãng
đường hạt alpha tương đối ngắn, thậm chí trong chất khí buồng ion hóa có thể được
sử dụng kết hợp với một kỹ thuật phân tích độ cao xung như phổ kế hạt alpha. Điều
đó cũng không liên quan đến sự đo lường của những hạt nhân phóng xạ vì thế
buồng ion hóa thường không được sử dụng trong kỹ thuật phân tích kích hoạt.
Hai miền đầu này được trình bày trong hình 5.2 là các miền ion hóa đơn giản.
Khi điện thế cung cấp một trường vượt quá mức trong khoảng 200V/cm, điện tích
tích tụ được tăng lên nhờ quá trình khuếch đại khí, trong đó, các electron gia tốc đạt
động năng phù hợp để tạo ra sự ion hóa nhờ va chạm. Hệ số nhân trong miền tỉ lệ
tăng nhanh với điện thế cung cấp tăng. Do đó, nó không phụ thuộc vào sự ion hóa
ban đầu, kích thước xung vẫn tương ứng với cường độ còn lại ban đầu. Tuy nhiên,
khi điện thế tiếp tục được tăng sang miền giới hạn tỉ lệ, mật độ của điện tích thứ cấp
làm cản trở quá trình khuếch đại. Sự khác nhau trong độ cao tín hiệu ra không còn tỉ
lệ với sự ion hóa ban đầu nữa. Mối quan hệ giữa độ cao xung và năng lượng bị khử
chậm.
Trong miền G-M, detector tạo ra một xung liên tục vì độ lớn của điện tích tích
tụ trở nên độc lập với sự ion hóa sơ cấp. Một hạt anpha và một hạt beta phát ra cùng
một kích thước xung cuối, bất chấp số ion hóa sơ cấp đã tạo ra trong ống G-M. Vì
vậy, ống G-M không hiệu quả cho kỹ thuật phân tích biên độ xung nhưng bởi vì nó
Trang 8
tương đối đơn giản và tín hiệu ra với biên độ lớn, nó vẫn là một detector có ích cho
kỹ thuật phân tích hạt nhân phóng xạ của các nguyên tố hóa học riêng lẻ.
Khi điện thế qua một detector chứa khí được tăng lên đều, buồng hoạt động
như một ống tiếp tục phóng điện có thể sử dụng cho sự ghi nhận bức xạ. Sự hoạt
động kéo dài của buồng chứa khí trong miền phóng điện có thể nguy hiểm, ảnh
hưởng đến tính hiệu quả của buồng như một thiết bị ghi nhận bức xạ.
5.2.a. Buồng Tỉ Lệ:
Buồng tỉ lệ đã trở thành loại thông dụng nhất của detector cho việc đo hoạt độ
phóng xạ beta trong mẫu chất rắn hoặc khí. Buồng tỉ lệ kết hợp ưu thế của buồng
ion hóa trong sự duy trì tỉ lệ giữa tín hiệu ra và sự ion hóa sơ cấp và ống G-M trong
sự đạt được một xung đủ mạnh khuếch đại khi cho mỗi sự kiện đã tìm ra. Nhiều ống
đếm tỉ lệ thương mại có thể dùng được. Chúng thông thường chứa một ống detector
dạng hình chuông, đã mô tả trong hình 5.1a, thông qua một máy đếm dòng khí.
Thông thường khí được coi là hỗn hợp của 10% methane và 90% Argon. Hỗn hợp
khí đặc biệt này được xem như một sự trung hòa tốt giữa khí Argon tinh khiết và
khí Mathane tinh khiết. Khí Argon tinh khiết không thích hợp với hệ đếm khí vì sự
tồn tại của một trạng thái kích thích lâu dài của các ion mà nó gây ra xung sau và
nồng độ cao hơn của Methane yêu cầu sự hoạt động ở điện thế lên tới 4000V. Tất cả
những điều trên được trình bày trong hình 5.2. Những khí khác đều tốt nhưng đắt
hơn. Các mẫu đếm thông thường được đặt trong một vài dạng hình đĩa hoặc mảnh
kim loại tròn và được đặt dưới cửa mỏng của ống đếm. Các detector có thể dùng
được với độ dày cửa phía cuối mỏng bằng 80 µg/cm2. Như thế những cửa siêu
mỏng (theo hình 4.6) cho phép hạt beta năng lượng xấp xỉ 0.1 MeV đi vào với một
sự giảm cường độ chỉ 50% vì sự phát hạt beta năng lượng rất thấp như 14C (Eβmax =
0.156 MeV) và 3H (Eβmax = 0.018MeV). Buồng tỉ lệ không cửa (ví dụ mẫu được đặt
trực tiếp trong buồng đếm) có thể được sử dụng. Nhiều vấn đề liên quan tới cửa sổ
cuối của các mẫu đếm chất rắn trong mảnh kim loại tròn được ôn lại trong phần
6.32. Ống đếm tỉ lệ được sử dụng cho việc đo hoạt độ phóng xạ của các mức rất
Trang 9
thấp. Điều đó đã tìm trong các mẫu môi trường hoặc trong các mẫu hoạt độ phóng
xạ gần giới hạn nhạy cảm.
Thuật ngữ đếm “phông thấp” thường ám chỉ các hệ thống mà mức đếm phông
bình thường được giảm đáng kể. Các nguồn đếm phông sơ khai phù hợp đến từ bức
xạ vũ trụ bao gồm sự bức xạ hạt mang điện, tia gamma thứ cấp và neutron và đến từ
các bức xạ gamma và beta từ những nguyên vật liệu có tính phóng xạ trưng bày
trong phòng thí nghiệm và detector và các vật che chắn. Những nguồn này được
giảm trong các hệ thống đếm tỉ lệ phông thấp nhờ vật liệu che chắn phóng xạ tự do
dày bao quanh detector và quanh lớp bảo vệ bên trong của detector, mà hoạt động
trong bộ phận đối trùng phùng của detector chuẩn, một tia vũ trụ năng lượng cao mà
xuyên qua vật che chắn và gây ra sự ion hóa trong detector mẫu cũng sẽ gây ra sự
ion hóa trong một detector chắn. Các xung được tạo ra nhờ hai detector, khử lẫn
nhau và sự kiện trong detector chính thì không được ghi nhận. Chỉ các sự kiện đó
Tốc độ đếm
mà xảy ra độc lập với detector chính được đếm.
Điện thế cung
cấp(V)
Hình 5.3:Đường cong plateau cho hạt alpha và hạt beta trong
ống đếm tỉ lệ dòng khí
Trang 10
Một ưu thế thêm của buồng tỉ lệ là nó có khả năng đo các bức xạ anpha và beta
một cách độc lập, thậm chí, khi các bức xạ đến từ cùng mẫu. Khả năng này là kết
quả từ sự khác nhau trong sự ion hóa đặc biệt của hạt anpha và beta, như trình bày
trong hình 5.2. Trong miền tỉ lệ, kích thước xung phụ thuộc đáng kể vào điện thế
cung cấp, nhờ sự phân biệt kích thước xung, tốc độ đếm của một loại bức xạ đã cho
có thể được tạo ra không phụ thuộc điện thế cung cấp trên vùng điện thế nhỏ (∼200300V). Vùng điện thế này được gọi là vùng plateau của detector (xảy ra ở khoảng
1000V cho bức xạ anpha và khoảng 2000V cho bức xạ beta). Điện thế hoạt động
của máy đếm được đặt tại một giá trị thích hợp trong vùng này. Với việc điều chỉnh
điện thế, tốc độ đếm của một mẫu có tính phóng xạ được tạo ra không phụ thuộc sự
thay đổi nhỏ trong đường hiệu điện thế. Một đường cong plateau đặc trưng cho một
ống đếm tỉ lệ loại dòng được nhìn thấy trong hình 5.3. Để đếm bức xạ hạt anpha,
máy đếm này sẽ được hoạt động tại một điện thế khoảng 1000V. Tổng số đếm tại
1600V gồm có sự đóng góp từ cả bức xạ anpha và beta. Để đạt được tốc độ đếm của
hoạt độ riêng của beta, tốc độ đếm của bức xạ anpha (được xác định nhờ sự mở
rộng miền plateau anpha tới 1600V với việc sử dụng sự phát hạt anpha) sẽ được trừ
từ tổng số đếm.
5.2.b. Ống Đếm G-M
Ống G-M được sử dụng nhiều nhờ sự đơn giản của detector ghi nhận bức xạ.
Một số sự điều chỉnh hệ thống đếm cần thiết cho sự hoạt động ổn định của detector.
Tuy nhiên, ống G-M đã dần dần được thay thế bởi các loại detector khác vì giới hạn
bên trong của nó thường quá tải, lợi thế của sự đơn giản trong quá trình hoạt động,
đặc biệt cho sự ứng dụng kỹ thuật phân tích hạt nhân phóng xạ. Ấy thế mà, các ống
đếm G-M tiếp tục tồn tại trong nhiều phòng thí nghiệm và cho dù sự hiệu chỉnh máy
đếm đã cần thiết đối với chúng, sẽ tiếp tục cung cấp những phép đo chính xác cho
nhiều thiết bị đo hoạt độ phóng xạ, đặc biệt khi phân ly hóa học là một phần của quá
trình.
Lợi thế của ống G-M là nó có độ nhạy cao, nó có thể phản hồi với nhiều loại
bức xạ, đa dạng cả về kích thước lẫn hình dạng, tín hiệu của đầu ra lớn, và chi phí
Trang 11
thấp về lĩnh vực điện từ học. Mẫu phổ biến nhất được sử dụng trong các phòng thí
nghiệm kích hoạt phóng xạ và hóa học phóng xạ là ống G-M cửa sổ cuối với tính
kinh tế sử dụng một cái giá để giữ những mẫu với những khoảng cách cố định với
cửa sổ, trình bày trong hình 5.1b. Chúng thường được đặt ở trong một lõi chì hoặc
lõi thép với một cửa để đưa mẫu vào sắp xếp trong một cái giá. Hệ thống điện gồm
có một nguồn điện áp cao, một bộ tách sóng, một bộ phận đếm và một đồng hồ đo
thời gian. Toàn bộ hệ thống này được gọi là ống đếm G-M.
Đặc trưng tốc độ đếm của ống đếm G-M đơn giản hơn so với đặc trưng này
của ống đếm tỷ lệ, vì xung của ống G-M về bản chất là độc lập với sự ion hóa sơ
cấp là tác nhân gây ra các xung. Miền plateau của một ống G-M tốt là khoảng 300V
và sự tăng tốc độ đếm với điện áp được cung cấp thường tăng ít hơn 3%/100V.
Một trong những đặc trưng giới hạn tổng quát của ống đếm G-M là thời gian
khôi phục tương đối dài phụ thuộc vào máy đếm để phân biệt được khoảng thời
gian giữa hai lần phóng điện liên tiếp bên trong ống. Thời gian “chết” này (khoảng
250.10-6 giây so với khoảng 0,5.10-6 giây cho một máy đếm tỉ lệ) dẫn đến sự chồng
chéo đáng kể các sự kiện ion hóa (sự trùng hợp ngẫu nhiên) nó lần lượt dẫn đến sự
giảm tốc độ đếm đáng kể đối với những mẫu phóng xạ mạnh hơn. Ảnh hưởng này
trở nên quan trọng hơn khi tốc độ đếm vượt quá 10 4 cpm. Sự hiệu chỉnh để giảm
“thời gian chết” có thể được quyết định từ thời gian phân giải τ. Nếu n là tốc độ
đếm thực với τ = 0 và m là tốc độ đếm quan sát được, khi đó:
n=
m
1 − mτ
Ví dụ, cho một ống đếm có thời gian phân giải của nó là 250.10 -6 giây một
mẫu với tốc độ đếm thu được m = 525 cps sẽ có một tốc độ đếm thực
n=
5.25 ×102
= 605
1 − (5.25 ×102 × 250 ×10−6 )
cps
Tốc độ đếm thu được thấp hơn 13%. Trong ống đếm tỉ lệ, độ hụt tương ứng sẽ
nhỏ hơn 0.03%. Ống đếm G-M có điểm chung với ống đếm tỉ lệ cần để xác định
toàn bộ hiệu suất cho mẫu đếm dưới ống đếm cửa số cuối để thay đổi tốc độ đếm đo
Trang 12
được thành tốc độ phân hủy tuyệt đối cho nuclit phóng xạ. Toàn bộ hiệu suất của hệ
thống detector cửa sổ cuối phụ thuộc vào nhiều nhân tố trong đó bao gồm detector,
một vài linh kiện máy đếm và chính nguồn của nó.
5.3. DETECTOR NHẤP NHÁY
Điểm chú ý của Detector nhấp nháy là nó đóng góp một phần quan trọng trong
sự phát triển ngành phân tích kích hoạt phóng xạ, nó cũng là một trong những loại
Detector cũ nhất được dùng trong đo lường bức xạ. Kính nhấp nháy được phát triển
năm 1908, là dựa trên sự phát huỳnh quang khi hạt alpha tác động vào một màng
mỏng tinh thể kẽm sunfua. Sự tương tác được quan sát với một kính hiển vi trong
một phòng tối bằng “máy đếm nhân tạo” tốc độ đếm của máy này bị giới hạn,
khoảng 60 nhấp nháy trên một phút. Sự phát triển của máy đếm điện tử hoặc những
máy đếm gộp trong những năm 1930 đã làm cho máy đếm bằng hình ảnh lỗi thời.
Ống nhân quang xuất hiện trong những năm 1940 khởi đầu cho máy đếm nhấp nháy
hiện đại. Detector nhấp nháy đã trở nên quan trọng cho việc đo phổ tia gamma, đặc
biệt trong phân tích kích hoạt phóng xạ, với việc phát hiện ra những tinh thể với mật
độ cao đặc trưng nhạy với bức xạ Gamma và sự phát triển đồng thời các thiết bị đo
điện tử, các thiết bị này nó có thể tách và chọn xung điện bằng biên độ (chiều cao
xung).
5.3.a. Nguyên Tắc Ghi Nhận Nhấp Nháy
Detector nhấp nháy phụ thuộc vào đặc tính của những tinh thể rắn, nó có thể
tiêu hao năng lượng bởi sự ion hóa và sự kích thích dưới dạng phát quang. Sự phát
xạ của ánh sáng nhìn thấy hoặc tia tử ngoại nói chung là dưới dạng huỳnh quang
(với thời gian sống khoảng 10-8 giây) hoặc hiện tượng lân quang (có bước sóng dài
hơn với thời gian sống khoảng 10-4 giây). Tinh thể nhấp nháy có thể bao gồm những
hợp chất hữu cơ hoặc vô cơ. Sự phát sáng của hợp chất hữu cơ (ví dụ như antraxen)
là một đặc tính cố hữu của phân tử hữu cơ, trong khi hợp chất vô cơ, sự phát sáng là
một đặc tính của trạng thái kết tinh. Vì hầu hết các detector nhấp nháy được dùng
cho quang phổ bức xạ được làm bằng tinh thể vô cơ, sự tìm hiểu của chúng ta bị
giới hạn trong những tinh thể như vậy. Lý thuyết dải bước sóng trong giới hạn nhất
Trang 13
định của chất rắn được phát biểu năm 1928 được áp dụng cho tính dẫn điện của kim
loại, chất bán dẫn và chất cách điện kết tinh. Sự phân loại này nói chung được tạo
bởi sự khác biệt về điện trở suất. các giá trị gần đúng được cho trong bảng 5.1.
Bảng 5.1: Điện trở của vật rắn
Chất
Điện trở suất
Vật dẫn.
~10–5
Chất bán dẫn.
10–2 tới 109
Chất cách điện.
1014 tới 1022
Lý thuyết về chất rắn coi sự phân chia cơ lượng tử trong một mạng tinh thể về
các mức năng lượng điện bên trong và bên ngoài của nguyên tử liên kết. Mặc dù các
electron bên trong liên kết chặt chẽ với hạt nhân nguyên tử, các electron phía ngoài
(electron hóa trị) chịu ảnh hưởng của các nguyên tử ở gần đủ để tạo thành một dãy
các dải năng lượng “chấp nhận” liên tục bị tách bởi vùng giá trị năng lượng “lượng
tử bị cấm”. Một sơ đồ biểu diễn sự phân loại vùng năng lượng điện tử trong một
chất cách điện tinh thể ion được trình bày trong hình 5.4. Ở trạng thái cơ bản của
tinh thể, vùng hóa trị bị lấp đầy hoàn toàn bởi các electron, trong khi đó vùng dẫn
điện thì trống. Sự phân chia lượng tử về mặt năng lượng giữa hai vùng được gọi là
vùng năng lượng trống EG và về mặt lý thuyết, nó là năng lượng tối thiểu cần cho sự
ion hóa của một electron từ vùng hóa trị tới vùng dẫn điện. Trong tinh thể của vật
liệu cách điện thì khoảng cách năng lượng là khá lớn nghĩa là số electron trong
vùng dẫn điện ở nhiệt độ phòng là không đáng kể. Sự di chuyển của một electron từ
vùng hóa trị đến vùng bán dẫn tạo ra một “lỗ trống” trong vùng hóa trị và tạo ra cặp
electron-lỗ trống. Khi electron và lỗ trống không còn liên kết với nguyên tử, cả hai
có thể di chuyển tự do qua mạng tinh thể và tạo nên tính dẫn điện trong tinh thể.
Hình 5.4. Vùng năng lượng điện tử trong ion tinh thể cách điện.