Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (565.84 KB, 27 trang )
Bọ xít bắt mồi(Orius sauteri P):
Bọ xít bắt mồi (Orius sp.) sẵn trong mơi trường tự nhiên, nó ăn tất cả các mồi
như bọ trĩ, nhện đỏ, trứng sâu, rệp và những lồi cơn trùng nhỏ.
Hình 6: Bọ xít bắt mồi (Orius sauteri P) trưởng thành
(Nguồn: http://khoahoc.tv/dung-thien-dich-thay-thuoc-tru-sau-6670 ).
Việc thả bọ xít bắt mồi (Orius sauteri P) vào ruộng dưa chuột được thực hiện
tại xã Văn Đức ( Gia Lâm- Hà Nội) cho thấy số lượng bọ trĩ bị khống chế,
không tăng vượt quá ngưỡng gấy hại (không cần phun thuốc hóa học), năng
suất khơng kém vụ trước, mã quả đẹp, không bị quăn queo, biến dạng. Khả
năng tiêu diệt con mồi của nó cũng rất lớn, ấu trùng tuổi 4, 5 của Orius sp. có
khả năng tiêu diệt 58 – 59 con và trưởng thành tiêu diệt 497 con bọ trĩ T.
palmi. Kết quả thử nghiệm ngoài đồng cũng cho thấy, bọ xít bắt mồi Orius
sauteri được thả với mật độ 1 con/cây, tương đương với tỉ lệ so với bọ trĩ là
1/200. Kết quả cho thấy sau 30 ngày thì mật số bọ trĩ trưởng thành giảm và
giảm mạnh nhất ở thời điểm 60 ngày.
Việc sử dụng bọ xít bắt mồi để quản lí sâu hại đã được sử dụng lâu đời trên thế
giới. Tại Đan Mạch đã sử dụng Orius minutus để phòng trừ bọ trĩ khi trồng
cây trong nhà kính (Remaker, 1978). Theo Rejesus (1986) bọ xít bắt
mồi Orius tantillus là thiên địch bắt mồi của bọ trĩ non và trưởng thành trên
cây dưa hấu. Ngoài ra thì ở Suisse, lồi bọ xít bắt mồi Orius majusculus là tác
nhân sinh học có hiệu quả trong việc phòng trừ 2 lồi bọ trĩ Thrips spp. trên
cây dưa leo trong nhà kính (Fischer và ctv, 1992).
Kiến ba khoang (Paederus fucipes):
Loài P.fuscipes xuất hiện phổ biến trên tất cả các hệ sinh thái đồng ruộngở các
vùng nhiệt đới (Shepard vàct, 1999). P.fuscipes phân bố rộng trên toàn
thế giới và được tìm thấy sống trên ruộng lúa ở miền Tây Malaysia. Chúng là
một lồi ăn thịt, tấn cơng rầy nâu gây hại trên lúa,chúng xuất hiện trên lúa từ giai
đoạn lúa non và di chuyển rất nhanh (Manley,1977).
Hình 7: kiến ba khoang Kiến ba khoang (Paederus fucipes) đang bắt mồi.
(nguồn: http://khoahoc.tv/dung-thien-dich-thay-thuoc-tru-sau-6670)
Kiến ba khoang (Paederus fucipes) có màu nâu đỏ, giữa lưng có một vạch lớn
màu đen chạy ngang qua tạo thành 1 khoang đen. Chúng thường trú ẩn trong
bờ cỏ, đống rơm rạ mục nát ngoài ruộng, chúng làm tổ dưới đất và đẻ trứng.
Ở ruộng lúa, bắp, khoai lang và đậu bắp ở Thành phố Cần Thơ và tỉnh Vĩnh
Long, đã sử dụng P.fuscipes làm thiên địch để phòng trừ rầy nâu trên ruộng cà
tím và cho được kết quar nghiên cứu sau đây. P.fuscipes cái đẻ trung bình
76,8 trứng với tỷ lệ trứng nở trung bình là 99,8% và tỷ lệ thành trùng vũ hóa
(tính từ ấu trùng) là 84,5%. Ấu trùng rầy nâu ở các tuổi 1, 2 và 3 bị thành
trùng P.fuscipes ăn nhiều hơn (từ 11- 16 con/ngày) so với ấu trùng tuổi 4 và
tuổi 5 (từ 4,2-5 con/ngày); rầy nâu cánh dài bị ăn nhiều hơn (từ 5,2-5,5
con/ngày) so với rầy nâu cánh ngắn (từ 3,3-4,1 con/ngày).
Bọ rùa (Menochilus sexmaculatus, Micraspis discolor)
Để phòng trừ cây lúa bị bệnh vàng lùn - lùn lúa cỏ tại Châu Thành, An Giang
đã thả hai loại Bọ rùa Menochilus sexmaculatus, Micraspis discolor tiêu diệt
rầy nây. Kết quả cho ta thấy khả năng ăn Rầy nâu của Bọ rùa (Menochilus
sexmaculatus) thành trùng cái có khả năng ăn mồi cao nhất (56,2 con/ngày),
kế đó là ấu trùng tuổi 4 (46,2 con/ngày) và thành trùng đực (44,8 con/ngày).
Còn Bọ rùa (Micraspis discolor) thành trùng cái có khả năng ăn mồi cao nhất,
kế đó là ấu trùng tuổi 4 và thấp nhất là ấu trùng tuổi 3. Trong một ngày, thành
trùng cái có thể ăn trung bình 30,4 con, trong khi thành trùng đực chỉ tiêu thụ
được trung bình 19,6 con. Từ đó số lượng rầy nâu giảm đáng kể, người dân
cũng hạn chế sử dụng thuốc trừ sâu hóa học.
3.3.2. Nhóm thiên địch ký sinh:
Ong mắt đỏ:
Ong mắt đỏ gồm 3 loài (Trichogramma chilonis, Trichogramma japonicum và
Trichogramma dedrolimi) là các lồi ký sinh trứng đóng vai trò quan trọng
trong việc điều hòa số lượng sâu hại ngoài tự nhiên. Từ lâu, ong mắt đỏ
(OMĐ) được sử dụng như biện pháp chính để diệt trừ trứng của một số lồi
sâu hại như sâu đục thân ngơ, sâu cuốn lá lúa, sâu tơ, sâu róm thơng…
Hình 8: Ong mắt đỏ Trichogramma brassicae ký sinh trứng sâu đục thân lúa,bắp
( Nguồn: http://nongnghiep.vn/nhung-loai-ky-sinh-co-ich-tren-dong-ruong.html).
Tại Lĩnh Nam (Hà Nội), tổng số ong Trichogramma chilonis thả giao động
114.600-740.000 cá thể/ ha cây trồng. Kết quả, tỷ lệ trứng sâu tơ bị ong mắt đỏ
ký sinh 73-83%. Tại Tiền Phongthả hỗn hợp hai lồi ong mắt đỏ
Trichogramma chilonis và Trichogramma japonicum phòng trừ sâu tơ hại bắp
cải với tổng số ong thả 10.250 cá thể ở khu ruộng thí nghiệm (tương đương
854.000 cá thể ong/ ha). Kết quả cho thấy, tỷ lệ trứng sâu tơ bị ong mắt đỏ ký
sinh trung bình 75%, điều này cho thấy tầm quan trọng của việc thả ong mắt
đỏ giúp hạn chế số lượng lớn sâu tơ so với ruộng phun thuốc hóa học trừ sâu.
Về mặt sinh thái, qui trình nhân ni và sử dụng một số lồi Ong mắt đỏ
(T.minubum, T.cacaeccae,...) để phòng trừ những loại sâu hại (Sepetilnikova
1968, Telenga 1950, Meyer 1911, Flander 1937,...). Ngày nay ở một số nước
(TQ, Mỹ, Pháp) nhân nuôi trên các loại trứng nhân tạo để có một lượng Ong
mắt đỏ đủ sức dập tắt dịch hại.
Ong ký sinh Anagyrus lopezi:
Ong ký sinh này có nguồn gốc từ Nam Mỹ và được phát hiện ở Thái Lan.
Chúng được ni và phóng thích bởi các nước Lào, campuchia, Thái lan,... để
phòng trừ Rệp sáp bột hồng và đạt được hiệu quả lên đến 80%.
Hình 9: Ong ký sinh Anagyrus lopezi ký sinh trứng Rệp sáp bột hồng
( nguồn: http://nghien-cuu-mot-so-dac-diem-sinh-hoc-cua-ong-ki-sinh)
Tại Tây Ninh, Việt Nam đã phóng tích Ong ký sinh Anagyrus lopezi để phòng
trừ Rệp sáp bột hồng trên các ruộng sắn. Theo kết quả cho thấy, một ngày một
con cái ký sinh được khoảng 10-25 con rệp sáp bột hồng, còn con đực ký sinh
khoảng 20-30 con. Một con ong cái có thể ký sinh 50-100 quả trứng. Ong
trưởng thành vừa chít hút, vừa đẻ trứng trên Rệp sáp bột hồng khoảng 50 con,
còn con đực chít hút khoảng 20-30 con/ngày. Qua kết quả trên đã thể hiện sự
thành cơng của việc phóng thích Ong ký sinh Anagyrus lopezi trên ruộng sắn
tại Tây Ninh, người dân đã hạn chế sử dụng thuốc hóa họ và đạt được năng
suất cao.
Tại Khánh n, Ninh Bình đã phóng thích Ong đa phôi (Copidosomopsis
nacoleiae) ký sinh sâu cuốn lá nhỏ trên lúa.Vào những năm gần đây, người
dân đã phóng thích ong ký sinh (Asecodes hispinarum) ký sinh bọ cánh
cứng hại dừa ở An giang. Ngoài ra, các nhà khoa khoa học đã nghiên cứu và
phóng thích lồi ong Opius phaseoli Fischer ký sinh trên ruồi đục lá đậu rau
Liriomyza sativae Blanchard vụ đông xuân 2008 - 2009 tại Gia Lâm - Hà Nội.
Các loài thiên địch trên đều giúp giảm địch hại, tăng năng suất người dân, chất
lượng sản phẩm đẹp, ít tốt kém, hạn chế lượng thuốc bảo vệ thực vật ra mơi
trường.
Ngồi hai nhóm thiên địch chính trên, còn có nhóm thiên địch gây bệnh sâu
hại:
Virus gây bệnh sâu hại:
Virus gây bệnh cho cồn trùng là hiện tượng khá phổ biến, các nhà khoa học đã
thống kê được trên 700 loại virus gây bệnh trên 800 loài sâu hại. Trong đó loại
virus gây bệnh cho cơn trùng quan trọng nhất là nhóm virus đa diện nhân
(NPV) trừ sâu xanh, sâu khoang, sâu đo xanh, sâu xanh da láng, sâu róm và
virus hạt (GV) trừ sâu tơ hại bắp cải.
Hiện nay người ta đang nghiên cứu sử dụng NPV để diệt sâu bộ cánh phấn,
cánh cứng và nhện đỏ.
Hình 10: Sâu chết do virus NPV
(Nguồn: http://www.thiennhien.net/thien-dich-nhung-chien-binh-tham-lang/).
Vi khuẩn gây bệnh sâu hại:
Loài vi khuẩn được sử dụng rộng rãi trong việc phòng trừ sâu hại là Bacillus
thuringiensis, Bacillus popiliae, Bacillus lentimobrus. Từ loại vi khuẩn này
người ta đã chế ra sản phẩm để phun lên cây trồng.
Ở Việt Nam sử dụng Entobacterin, Biotrol, Thuricide, Xentari,… có chứa vi
khuẩn Bacillus thuringiensis. Khi sử dụng Entobacterin để trừ sâu hại, người ta
nhận thấy các tinh thể chất độc Endotoxin trong thuốc vi sinh vật làm rối loạn
sinh lý trong cơ thể sâu làm cho sâu bị suy yếu và chuyển hóa hệ vi sinh vật
đường ruột của của sâu hại thành những vi sinh vật gây bệnh làm cho sâu chết.
Hình 11: Trực khuẩn Bacillus
(Nguồn: http://khuyennongquangdien.com.vn /mot-so-loai-thien-dich ).
Nấm gây bệnh sâu hại:
Hướng chủ yếu trong việc sử dụng nấm gây bệnh là dự báo đúng thời gian xuất
hiện sâu hại và tính tốn thời điểm để cho nấm thiên địch tích lũy và gây thành
dịch cho sâu hại. Tuy nhiên ở các ổ bệnh sâu do nấm gây ra trong điều kiện tự
nhiên thường không đủ sức gây ra dịch bệnh hàng loạt cho sâu hại nên người ta
đã nuôi, nhân nấm thiên địch trong môi trường nhân tạo để tạo thành chế phẩm
vi sinh vật phun lên cây trồng để gây bệnh cho sâu hại.
Phương pháp để duy trì ổ dịch nấm trên đồng ruộng có hiệu quả là phun mưa
nhân tạo giúp ẩm độ được duy trì tạo điều kiện thuận lợi cho nấm phát triển.
Hình 12: Bọ xít đen bị nấm Beauveria bassiana ký sinh
(Nguồn: http://baovethucvathaiphong.vn/?newsdetails&catID=133&id=639).
Nấm đối kháng gây bệnh sâu hại:
Các chủng nấm Trichoderma thường được sử dụng để phòng trừ bệnh hại như
sau: Trichoderma lignorum,Trichoderma harzianum,...
Nấm Trichoderma ức chế nhiều loại vi sinh vật gây hại cho cây trồng, trên cây
có múi nấm ức chế tốt đối với nấm Fusarium và nấm còn ức chế một số loại
nấm gây bệnh khác như nấm gây bệnh lở cổ rễ, nấm gây bệnh héo rũ, nấm gây
bệnh đen gốc trên một số cây trồng như rau cải, dưa leo, dưa hấu, khổ qua, cà
chua, đậu phộng,…
Hình 13: Ruộng có xử lý nấm Trichoderma bộ rễ cây phát triển mạnh hơn
(Nguồn: http://moitruong.com.vn/tai-nguyen-thien-nhien ).
Tuyến trùng gây bệnh sâu hại:
Theo từ điển Vikipedia tiếng Việt, Tuyến trùng là một lớp thuộc ngành giun
tròn, đã thích nghi thành cơng gần như tất cả các hệ sinh thái từ biển, nước ngọt,
đất, và từ các vùng cực đến các vùng nhiệt đới, từ độ cao thấp nhất đến cao nhất.
Tuyến trùng có cấu tạo đơn giản, khơng màu, có thể sống tự do, săn mồi hoặc
ký sinh và nhiều loài ký sinh gây bệnh quan trọng của thực vật, động vật và con
người.
Ở Việt Nam đã phân lập được 22 chủng tuyến trùng gây bệnh cho sâu thuộc chi
Streinememna và 11 chủng tuyến trùng thuộc chi Heterohabditis là những chi
tuyến trùng có khả năng gây bệnh cao cho sâu hại và đã tạo ra 4 chế phẩm tuyến
trùng sinh học để phun trừ sâu xanh, sâu xám, sâu keo đó là Biostar-1, Biostar2, Biostar-3, Biostar-4.
Hình 14: Tuyến trùng kí sinh sâu xanh
(Nguồn: http://baovethucvathaiphong.vn/?newsdetails&catID=133&id=639).
4. Bảo vệ thiên địch và tăng cường hoạt động của thiên địch :
Bảo vệ thiên địch tránh bị độc hại do hoá chất bằng cách hạn chế tối đa việc phun
thuốc, chỉ sử dụng thuốc có tính độc thấp, thuốc có nguồn gốc sinh học và tiến
đến khơng sử dụng thuốc trừ sâu trên đồng ruộng.
Tạo nơi cư trú cho thiên địch: để cỏ và trồng cây họ đậu trên bờ ruộng, làm các bờ
rạ cho thiên địch ẩn nấp.
Các kỹ thuật canh tác giúp duy trì và phát triển thiên địch:ln giữ mực nước
ruộng, gieo sạ mật độ thích hợp, biện pháp hợp lý.
Nhập nội các thiên địch mới :
Hoạt động này thường được sử dụng trong những trường hợp sâu hại từ nước
ngồi du nhập vào, chưa có các thiên địch đủ sức khống chế ở trong nước.
ở Việt Nam người ta đang tìm cách nhập nội thiên địch của ốc bươu vàng từ
Nam mỹ vì ốc bươu vàng được đưa vào Việt Nam với mục đích thương mại,
khơng được kiểm dịch nên trong thời gian qua đã gây hại mạnh do khơng có
thiên địch của ốc bươu vàng ở trong nước.
Nuôi nhân và lây thả thiên địch trên ruộng:
Kỹ thuật này được áp dụng với các loại ký sinh chuyên tính hẹp. Khi được
thả trên ruộng, ký sinh sẽ tìm đên vật chủ ưa thích của chúng để tiêu diệt. Việc
lây thả được tiến hành nhiều lần trong vụ, vào những thời gian thích hợp để
ngăn chặn sự bùng phát của sâu hại.
Điển hình ở TP.Huế đã nuôi thành công kiến vàng (Oecophylla smaragdina)
trong vùng trồng cây Thanh Trà, tại xã Văn Đức (Hà Nội) đã nhân nuôi thành
công nhện bắt mồi (Amblyseius. sp)để diệt nhện đỏ gây hại cây đậu Côve.
5. Ưu và nhược điểm của biện pháp đấu tranh sinh học:
Ưu điểm:
Không gây ô nhiễm môi trường,an toàn cho người và động vật ngồi ra còn phù
hợp với phát triển của nền nơng nghiệp.
+ Các thiên địch chỉ tiêu diệt lồi gây hại,có thể tiêu diệt 1 hay nhiều loài gây
hại.
+ Các thiên địch cũng như chế phẩm này an toàn cho người và các động vật,
thực vật có ích.
Hiệu quả kinh tế đem lại cao,sinh vật bổ sung và tồn tại mãi trong quần xã,
kiểm soát sự phá hoại của sinh vật gây hại.
Không ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng sản phẩm và các hiệu ứng
không tốt đối với con người.
Các chế phẩm sinh học và thiên địch tiêu diệt được nhiều lồi sinh vật gây hại,
có sức tàn phá lớn.