Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (870.1 KB, 108 trang )
- Tỉa cành
- Phun thuốc cỏ
- Thu hoạch gia đình
Tổng CP LĐ
3. Chi phí dịch vụ
- Khấu hao TSCĐ
Tổng
291,67
1.101,67
3.675,83
7.358,5
280,33
1.230,91
2.944,55
6.602,67
307,33
1.184,00
3.291,33
6.954,66
289,33
1.193,33
3.177,50
6.843,61
955
1.093,79
997,33
1.048,05
80.793,38
68.886,35 62.338,79 69.638,77
(Nguồn: Tổng hợp và tính tốn từ phiếu điều tra, 2017)
Qua bảng trên ta thấy chi phí thâm canh 1ha keo bình qn là
69.638,77 nghìn đồng. Trong đó chi phí trung gian (IC) là 61.747,11 nghìn
đồng (chiếm 88,67%), chi phí lao động là 6.843,61 nghìn đồng (chiếm
9,83%), chi phí phân chuồng là 23.073,00 nghìn đồng chiếm 33,13% tổng IC.
Ngồi ra sản xuất keo lấy gỗ cần đầu tư về vốn lớn ngồi ra còn đầu tư
lớn về máy móc, thiết bị phục vụ sản xuất. Ngồi các yếu tố khí hậu, thời tiết,
năng suất cây keo còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: phân bón, chăm sóc
và phòng trừ sâu bệnh chính là các mức đầu tư thâm canh cho cây trồng. Việc
thay đổi mức đầu tư đều ảnh hưởng đến năng suất và HQKT do cây trồng mang
lại, vì đầu tư cao quá hay thấp quá cho cây trồng đều có năng suất thấp.
Mặt khác, cây keo là loại cây lâu năm nên giữa các tuổi cây khác nhau
cho năng suất và chất lượng khác nhau. Tiến hành nghiên cứu trên các hộ điều
tra được nhận trên cùng một lô đất và tiến hành điều tra trên cây trồng có độ
tuổi 6 – 8 tuổi. Chi phí sản xuất của các nhóm hộ có sự chênh lệch nhau rõ rệt.
Nhóm hộ giàu đầu tư đối với keo là 80.793,38 nghìn đồng/ha, đối với nhóm hộ
khá là 68.886,35 nghìn đồng/ha, nhóm hộ trung bình là 62.338,79 nghìn đồng/ha.
Nếu đem so sánh với các loại cây trồng ngắn ngày khác như: lúa, ngơ, khoai, sắn...
thì chi phí sản xuất của keo lớn hơn rất nhiều.
Trong khi đó chi phí trung gian (IC) của keo kinh doanh của nhóm hộ
trung bình là 54.386,80 nghìn đồng/ha (chiếm 87,24%), chi phí lao động
6.954,66 nghìn đồng/ha (chiếm 11,16%), chi phí về phân chuồng là 19.438,00
nghìn đồng/ha (chiếm 31,2%) tổng IC. Chi phí trung gian ( IC) của hộ khá và
hộ giàu lần lượt là 61.189,89 nghìn đồng/ha và 72.479.88 nghìn đồng/ha
42
chênh lệch nhau 11.289,99 nghìn đồng/ha. Chi phí lao động của hộ khá và hộ
giàu là 6.602,67 nghìn đồng/ha và 7.358,5 nghìn đồng/ha. Như vậy, ta có thể
nhận thấy rõ một điều tổng chi phí đầu tư của hộ giàu là lớn nhất cả về IC lần
chi phí lao động.
3.1.5.2. Kết quả và thu nhập từ sản xuất kinh doanh keo
Đối với người nông dân trồng keo để có thu nhập từ những rừng gỗ keo
trong vườn của mình là cả một một quá trình dài với khơng biết bao nhiêu mồ
hơi cơng sức chi phí cả những sự biến động rủi ro từ thị trường tác động từ
thiên nhiên.
Giữa các nhóm nhóm hộ việc đầu tư cho sản xuất khác nhau thì kết quả
của quá trình sản xuất ra sản phẩm gỗ keo cũng có sự khác biệt.
Bảng 3.7: Hiệu quả sản xuất kinh doanh cây keo lấy gỗ của các nhóm hộ
điều tra (tính trên 1 ha keo cho thu hoạch).
ĐVT: 1.000 đồng
Chỉ tiêu
Năng suất
Giá thành TB
GO
IC
VA
MI
Pr
ĐVT
Hộ giàu
Hộ khá
Hộ TB
Tạ/ha
144,78
100,66
82,44
1000 đ
16.58
15,05
14,39
1000 đ
240.045,24
151.493,3
118.631,16
1000 đ
77.213,64
65.152,32
58.169,59
1000 đ
162.831,6
86.340,98
60.461,57
1000 đ
161.876,64
85.247,19
59.464,24
1000 đ
150.716,64
75.527,19
49.204,24
(Nguồn: Tổng hợp và tính tốn từ phiếu điều tra, 2017)
Qua bảng số liệu cho ta thấy các chỉ số thể hiện trồng cây keo mang lại
hiệu quả kinh tế cao. Với năng suất trung bình đối với hộ giàu là 144,78
m3/ha, hộ khá là 100,66 m3/ha, hộ trung bình là 82,44 m3/ha với giá sản
phẩm giao động 850 nghìn – 1200 nghìn đồng/m3 thì khi thu hoạch cho giá
trị sản xuất bình quân đối với hộ giàu là 240.045,24 nghìn đồng, hộ khá là
151.493,3 nghìn đồng, hộ trung bình là 118.631,16 nghìn đồng. Các chỉ tiêu
43
hiệu quả kinh tế đều đạt ở mức cao, thu nhập hỗn hợp với hộ giàu là
161.876,64 nghìn đồng.
Nhìn chung trong ba nhóm hộ điều tra hộ giàu đạt được hiệu quả sản
xuất cao nhất, hộ trung bình thấp nhất, nguyên nhân do có sự đầu tư về IC của
nhóm hộ này là cao nhất do vậy năng suất bình quan cao hơn hẳn đồng thời
chất lượng quả tươi đẹp hơn nên giá bình quân cao hơn.
Hộ trung bình là những hộ khó khăn về cả vốn đầu tư ban đầu lẫn cơ
sở vật chất vì vậy năng suất thấp hơn so với hộ khá và hộ giàu.
3.1.6. Đánh giá HQKT và nâng cao HQKT sản xuất cây keo của xã
3.1.6.1. Đánh giá HQKT sản xuất cây keo các nhóm hộ trong xã
Hiệu quả luôn là mục tiêu quan trọng của bất cứ một hoạt động sản
xuất kinh doanh nào, nghề trồng keo cũng vậy. Việc đánh giá đúng HQKT sẽ
là cơ sở để đề xuất được các giải pháp phù hợp kích thích sự phát triển của
nghề trồng keo. Một điều dễ nhận thấy là hộ có quy mơ lớn thường là những
hộ sản xuất chuyên canh, ở nhóm hộ này cây keo được đầu tư tốt hơn, được
chú trọng hơn trong đầu tư sản xuất kinh doanh.
Để đánh giá HQKT sản xuất cây keo tôi tiến hành nghiên cứu các chỉ
tiêu GO/IC, VA/IC, MI/IC, GO/kg quả, VA/kg quả và GO/ công lao động. Kết
quả cụ thể:
Bảng 3.8: HQKT sản xuất cây keo các hộ trong xã năm 2017
Chỉ tiêu
GO
IC
VA
GO/IC
VA/IC
IC/1kg quả
VA/1 kg quả
GO/công lđ
VA/công lđ
ĐVT
Hộ giàu
Hộ khá
Hộ TB
1000 đ
240.045,24
151.493,3
118.631,16
1000 đ
77.213,64
65.152,32
58.169,59
1000 đ
162.831,6
86.340,98
60.461,57
Lần
3,11
2,33
2,04
Lần
2,11
1,33
1,04
1000 đ
5,33
6,47
7,06
1000 đ
12,25
8,58
7,33
1000 đ
3.871,70
2.805,43
2.081,25
1000 đ
2.626,32
1.598,91
1.060,73
(Nguồn: Tổng hợp và tính tốn từ phiếu điều tra, 2017)
44
So với IC: GO/IC của cá hộ giàu, hộ khá, hộ trung bình lần lượt là :
3,11; 2,33; 2,04 lần. Mặc dù IC của nhóm hộ giàu cao nhất, hộ trung bình thấp
nhất nhưng phụ thuộc vào GO của các nhóm hộ khác nhau chính vì vậy
GO/IC của hộ giàu sẽ được thu GO cao nhất, còn nhóm hộ trung bình thu
được giá trị thấp nhất.
Nếu tính IC/1kg quả thì thu được nhóm hộ giàu, nhóm hộ khá, nhóm hộ
trung bình lần lượt là 5,33; 6,47; 7,06 nghìn đồng/kg. Sở dĩ có sự khác biệt
này do nhóm hộ giàu có nhiều kinh nghiệm trồng và chăm sóc cam hơn, họ
biết áp dụng khoa học kỹ thuật, sử dụng phân bón, thuốc BVTV một cách hợp lý
giúp cây đạt năng suất cao hơn, còn những hộ khá và những hộ trung bình do
chưa có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất đồng thời vốn đầu tư vào khoa học kỹ
thuật, phân bón, thuốc trừ sâu khơng hiệu quả, năng suất thấp nên IC/1kg quả của
hai nhóm hộ này cao hơn nhiều so với hộ giàu. Chính vì vậy mà nhóm hộ giàu sẽ
có VA/1kg quả cao hơn nhiều so với hai nhóm hộ còn lại.
Tính cho một cơng lao động: GO của nhóm hộ giàu đạt 240.045,24
nghìn đồng/ha, nhóm hộ khá là 151.493,3 nghìn đồng/ha, nhóm hộ trung bình
thấp nhất là 118.631,16 nghìn đồng/ha.
Để nâng cao HQKT người nơng dân phải biết đầu tư có kế hoạch, khai
thác triệt để những lợi thế có sẵn: khí hậu, đất đai, nguồn nước hay vấn đề lao
động, cơ sở vật chất.... Người nơng dân khơng ngừng tìm tòi, học hỏi kinh
nghiệm sản xuất, khoa học kĩ thuật tiên tiến để phát triển và nâng cao HQKT
sản xuất cây cam Sành.
3.1.6.2. Hiệu quả xã hội và môi trường sản xuất cây cam Sành của xã Lục Sơn
Phát triển sản xuất cây cam Sành góp phần giải quyết việc làm cho
người lao động tại chỗ trong nông thôn, sản phẩm quả được tiêu thụ lưu thông
trên thị trường tạo điều kiện thúc đẩy các dịch vụ sản xuất phát triển, góp
phần làm thay đổi nơng thơn theo hướng cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa.
Góp phần chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng tổ chức hàng hố. Cải tạo
mơi trường sinh thái theo hướng phát triển môi trường sinh thái bền vững.
45
Nâng cao hiệu quả sử dụng đất, tăng độ che phủ, giữ ẩm, cải tạo đất chống xói
mòn. Xã Lục Sơn có địa hình đồi núi, có các khe suối do vậy việc trồng cây
cam Sành giúp nâng cao độ che phủ, phủ xanh đất trống đồi trọc, bảo vệ đất,
khai thác được diện tích đất có hiệu quả hơn.
Phát triển sản xuất cây cam Sành không những đổi mới cơ cấu sản xuất
nông nghiệp, phát huy lợi thế so sánh của vùng mà còn tăng thu nhập. Với sự
phát triển của cây cam Sành đã mang lại sự thay đổi mới, diện mạo mới cho
xã. HQKT được nâng cao, thu nhập của người dân tăng lên, nhiều hộ gia đình
trở thành tỷ phú trong nơng nghiệp. Trước nơi đây chỉ là khu vực trồng các
loại cây lương thực ngắn ngày mang lại hiệu quả kinh tế kém. Sau khi trồng
cam người nông dân được sống trong điều kiện đầy đủ hơn, con cái được đi
học đúng độ tuổi và tiếp cận với khoa học kĩ thuật hiện đại hơn, đời sống dân
trí được nâng cao.
3.1.7. Các nhân tố ảnh hưởng tới kết quả, HQKT sản xuất cây cam Sành
của hộ nơng dân tại xã Lục Sơn
3.1.7.1. Phân tích ảnh hưởng của trình độ văn hóa của chủ hộ đến HQKT sản
xuất cây cam Sành
Trình độ văn hóa của chủ hộ là yếu tố chủ quan nhưng ảnh hưởng quan
trọng đến HQKT của việc trồng cây cam Sành nói riêng và hoạt động sản xuất
khác trong kinh tế hộ gia đình nói chung. Trình độ văn hóa của chủ hộ càng
cao càng tạo điều kiện thuận lợi cho chủ hộ có thể tiếp cận tốt hơn với những
kiến thức kỹ thuật cũng như phản ứng nhanh hơn với những thông tin về kinh
tế xã hội có thể ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến quá trình trồng cam. Sự
tác động này rõ ràng hơn khi họ tham gia vào ngành sản xuất nhiêu rủi ro này
Bảng 3.9: Trình độ học vấn của các chủ hộ sản xuất cam Sành
Trình độ văn hóa
Cấp 1
Cấp 2
Cấp 3
Tổng
Số hộ
Độ tuổi TB
chủ hộ
Lao động
TB/hộ
Năng suất
BQ
(tạ/ha)
96,7
103,4
120,9
14
37,64
2,57
27
43,59
3,19
19
44,11
3,21
60
(Nguồn: Tổng hợp tính tốn từ phiếu điều tra, 2017)
46
Qua bảng trên ta nhận thấy trình độ học vấn ảnh hưởng đến năng suất
cam, trình độ học vấn càng cao thì sản xuất cam Sành năng suất càng cao.
Cây cam Sành là một cây trồng lưu niên, cần có kỹ thuật chăm sóc tỉ
mỉ. Việc sản xuất cây cam Sành đòi hỏi vốn đầu tư lớn, đồng thời với đó là
những rủi ro cũng lớn hơn các hoạt động sản xuất nơng nghiệp thuần túy
khác. Do vậy đòi hỏi người chủ hộ phải có tầm nhìn xa và có kế hoạch chiến
lược thực sự.
3.1.7.2. Phân tích ảnh hưởng của tiếp cận khoa học kỹ thuật đến hiệu quả sản
xuất cam Sành.
Khoa học kỹ thuật là yếu tố quan trọng hàng đầu đối với mỗi ngành sản
xuất trong thời kỳ cơng nghiệp hóa hiện đại hóa hiện nay.
Bất kỳ một ngành sản xuất nào nếu muốn phát triển và mang lại hiệu
quả kinh tế cao đều cần đến KHKT. Khi người chủ đã quyết định sử dụng một
lượng vốn lớn để đầu tư thì đồng thời họ cũng phải nhận thức được cần phải
làm sao để số vốn đó sinh lời hay nói cách khác là mang lại hiệu quả kinh tế
cao. Vì vậy người chủ hộ rất quan tâm tới việc học hỏi các kiến thức kỹ thuật
và tham gia các buổi tập huấn kĩ thuật.
Bảng 3.10: Thông tin về các nhóm hộ điều tra sản xuất cam Sành
STT
Chỉ tiêu
Hộ giàu
Hộ khá
Hộ TB
1 Độ tuổi TB
42,52
42,37
43,93
2 Lao động TB/hộ
3,08
3,06
3
3 Nhân khẩu
4,42
4,24
4,2
Cấp 1
2 hộ
9 hộ
3 hộ
Trình độ
4
Cấp 2
4 hộ
15 hộ
8 hộ
học vấn
Cấp 3
6 hộ
9 hộ
4 hộ
(Nguồn: Tổng hợp và tính toán từ phiếu điều tra, 2017)
Để đánh giá sự ảnh hưởng của tiếp cận khoa học kỹ thuật đến HQKT
sản xuất cam Sành, tơi phân loại thành nhóm hộ theo kết quả phiếu điều tra:
Nhóm hộ được tập huấn và nhóm hộ khơng được tập huấn kỹ thuật:
Bảng 3.11: Số lượng các hộ tham gia lớp tập huấn của các hộ điều tra
Chỉ tiêu
Hộ được tập huấn
Hộ không được tập huấn
Năng suất BQ Số lượng hộ
111,9
45
76,6
15
47
Cơ cấu (%)
75
25
Tổng
60
100
(Nguồn: Tổng hợp và tính tốn từ phiếu điều tra, 2017)
Qua bảng số liệu trên cho thấy sự khác biệt và ảnh hưởng của tiếp cận
khoa học kĩ thuật đến HQKT sản xuất cây cam Sành. Số hộ tham gia tập huấn
là 45 hộ chiếm số đông là 75%, đối với các hộ không tham gia tập huấn kĩ
thuật là 15 hộ chiếm 25% do điều kiện một số hộ gia đình còn gặp nhiều khó
khăn, bận việc đồng áng khơng được thơng báo thông tin một cách đầy đủ và
một số cũng chưa nhận thức được tầm quan trọng của công tác khuyến nơng.
Năng suất bình qn khi các hộ khơng tham gia tập huấn kĩ thuật chỉ
bằng 68,45% so với các hộ không tham gia tập huấn. Bởi lẽ khi được tập huấn
các hộ nông dân được học về kỹ thuật bón phân, phun thuốc, sử dụng thuốc
BVTV và phòng trừ sâu bệnh hai cho cây vì vậy cam của những hộ này sai
quả hơn những hộ không được tập huấn kỹ thuật. Với năng suất bình quân/ha
cao hơn cùng với việc chăm sóc có kỹ thuật tốt hơn nên chất lượng, mẫu mã
đẹp hơn, giá bán cao hơn nên HQKT là cao hơn. Nhóm hộ khơng được tập
huấn hạn chế hơn trong việc phòng trừ sâu bệnh hại cũng như kinh nghiệm
sản xuất chính vì vậy mà HQKT khơng được cao. Tuy nhiên việc tham gia các
lớp tập huấn không hồn tồn quyết định về HQKT vì khơng phải tất cả các
thông tin kĩ thuật đưa ra đều phù hợp với điều kiện của tất cả các hộ sản xuất
cam Sành và cũng có trường hợp do người tham gia tập huấn do có trình độ
học vấn thấp khả năng tiếp nhận thơng tin của mỗi người khơng giống nhau.
Vì vậy mà đối với những hộ tham gia tập huấn HQKT của các hộ cũng khơng
hồn tồn đồng đều và HQKT còn phụ thuộc vào rất nhiều các yếu tố khách
quan và chủ quan khác.
Hộp 1: Ảnh hưởng khoa học kĩ thuật đến hiệu quả sản xuất cam
Sành tại xã Lục Sơn
Cam Sành là cây trồng quan trọng mang lại thu nhập chính cho gia đình
chúng tơi. Gia đình chúng tôi bắt đầu trồng cam từ năm 2010 nhưng chủ yếu
phục vụ nhu cầu gia đình chứ khơng bán, đến năm 2015 gia đình tơi mạnh dạn
48
đầu tư mở rộng trồng thêm 7 ha cam nữa.
Những năm đầu gia đình tơi trồng và chăm sóc cây khơng đúng cách,
sử dụng phân và thuốc hóa học nhiều nên đất đai khơ cằn, cây thường bị thiếu
nước, năng suất, sản lượng không cao, mẫu mã xấu. Từ khi có các cán bộ
khuyến nông về thôn hướng dẫn giúp đỡ và mở cho chúng tơi các lớp tập
huấn về quy trình kĩ thuật sản xuất cây cam Sành, cách phòng trừ sâu bệnh
hại, chúng tôi học hỏi được rất nhiều kinh nghiệm và lại khơng tốn kém. Ví
dụ như sử dụng thiên địch ni kiến vàng đồng thời tăng lượng phân bón hữu
cơ theo hướng giảm phân bón hóa học..v.v.
Ngồi ra gia đình tơi đầu tư mua máy bơm nước, bộ bình phun thuốc sâu
nên không phải gánh nước tưới, không phải phun thuốc trừ sâu bằng biện
pháp thủ cơng bình đeo như xưa vì vậy hạn chế được sức lao động rất nhiều.
Trước kia khi thu hoạch xong gia đình tơi thường bỏ cây khơng chăm sóc
đến tận vụ sau. Nhưng từ khi tham gia lớp tập huấn tơi đã có kinh nghiệm
hơn, sau mỗi đợt cây cho thu hoạch xong tôi tiến hành làm sạch cỏ dại, cắt tỉa
các cành sâu bệnh; quét vôi vào gốc cây ngăn sự cư trú của sâu bệnh; phòng
trừ sâu bệnh bằng các biện pháp kỹ thuật tổng hợp: bón phân đầy đủ, cân đối,
kịp thời, bón đúng kỹ thuật, phun thuốc đúng lúc, đúng cách để cây tiếp tục
phát triển và cho mùa sau thu được năng suất hơn.
Nhờ những biện pháp trên mà những năm gần đây vườn cam của tơi có
sản lương trên 100 tấn, chất lượng tốt, mẫu mã đẹp nên giá bán cao, trong khi
đó chi phí sản xuất lại giảm. Từ khi mở rộng trồng cam gia đình tơi có thu
nhập tăng lên đáng kể và có hiệu quả cao hơn rất hiều so với việc trồng các
cây hoa màu ngắn ngày khác như lúa, ngô, khoai, sắn..v.v.
Tôi thấy cam là lồi cây cần chế độ chăm sóc cẩn thận và tỷ mỉ, tôi thấy
việc áp dụng KHKT vào sản xuất để nâng cao năng suất và chất lượng cam là
rất quan trọng và cần thiết. Tuy nhiên trong thơn chủ yếu vẫn là đường đất,
mùa mưa thì lầy lội rất khó khăn trong việc đi lại mua bán, vì vậy chúng tơi
mong rằng nhà nước và chính quyền hỗ trợ xây dựng nâng cấp và cải tạo
49
đường xá sao cho thuận tiện việc đi lại, mua bán của người dân chúng tơi
được dễ dàng hơn…
(Anh: Tống Văn Bình. Thôn Vĩnh Tân xã Lục Sơn- Huyện Lục Nam - Tỉnh
Bắc Giang
3.1.8. Các yếu tố khách quan ảnh hưởng đến HQKT đến sản xuất cam
Sành
Các yếu tố khách quan có thể ảnh hưởng đến HQKT sản xuất cam Sành
có rất nhiều, tuy nhiên trong phạm vi nghiên cứu của đề tài tôi chỉ ngiên cứu
và thu thập ý kiến đánh giá của các hộ về những thuận lợi khó khăn.
3.1.8.1. Những thuận lợi
Để sản xuất cam Sành có HQKT cao ngồi việc có kinh nghiệm trong
sản xuất thì cũng phải có những điều kiện tự nhiên thích hợp, thơng qua
phỏng vấn 60 hộ nông dân sản xuất cam Sành tại xã Lục Sơn tơi tổng kết
được những thuận lợi đó như sau:
Giống cam cũng là một nhân tố ảnh hưởng hiệu quả sản xuất cây cam,
giống cam tốt, phẩm chất cao, cho năng suất cao, sản lượng lớn và khả năng
chống chịu với sâu bệnh tốt .
Bảng 3.12: Một số giống keo đã và đang được trồng ở xã Lục Sơn
Giống keo
Cam Sành
Cam đường
canh
Cam Vinh
Năng suất
Tổng diện
Mức độ đầu
Khả năng
(tạ/ha)
129,5
tích (ha)
926,0
tư
Lớn
kháng bệnh
Tốt
219
260
Rất lớn
Tốt
100,5
50,5
Bình thường
Kém
(Nguồn: UBND xã Lục Sơn)
Qua bảng trên ta nhận thấy người dân đa số là đang trồng cam Sành,
một số ít khi có nhiều vốn họ mạnh dạn chuyển đổi sang trồng cam đường
50
canh với năng suất và giá bán ra thị trường cao hơn. Tuy nhiên cây cam Sành
vẫn là cây chủ lực và là cây phát triển kinh tế chính của xã đã được xây dựng
thương hiệu năm 2007. Người dân chuyển đổi trồng diện tích trồng cam
chanh sang cam Sành vì năng suất cây cam chanh thấp, khả năng chống chịu
sâu bệnh kém và đặc biệt giá cả lại thấp dẫn đến HQKT không cao.
- Điều kiện nguồn lực:
+ Vốn: do thiếu vốn sản xuất nên nhu cầu vay vốn của người dân để
đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh cao. Cam Sành là loại cây trồng lưu niên
và cần một lượng vốn ban đầu lớn chính vì vậy hầu hết các hộ trồng cam đều
vay vốn. Vốn đầu tư cho sản xuất cam Sành qua tìm hiểu thấy rằng các hộ
thường dùng để mua giống, phân bón, thuốc trừ sâu.. Thực trạng về nguồn
vốn vay của các hộ sản xuất cam Sành tại 3 thôn như sau:
51
Bảng 3.13: Tổng các nguồn vay vốn các hộ điều tra xã Lục Sơn
Nguồn vay
NH
Số hộ
vay (hộ)
Lượng tiền
Tỷ lệ
(%)
vay
(1.000đ)
15
48,39
840.0000
NH chính sách
7
22,58
340.000
NH khác
Vay ưu đãi
Vay tư nhân
Tổng
5
2
2
31
NN&PTNT
Lãi
Mức vay
Tỷ lệ
TB
(%)
56.000
25,05
1,00
21,73
0,8
48.571,4
3
54.000
40.000
25.000
suất
(%)
16,13
270.000
24,15
1,00
6,45
80.000
17,89
0,9
6,45
50.000
11,18
3,00
100
1.580.000
100
(Nguồn:Tổng hợp và tính tốn từ phiếu điều tra, 2017)
Trong tổng số 60 hộ điều tra thì có 29 hộ tự túc vốn từ lúc bắt đầu sản
xuất cho đến thời điểm điều tra. Còn lại 31 hộ đều đã từng vay hay đang vay
vốn từ các nguồn trên cho việc sản xuất cây cam Sành. Đối với những hộ có
vay vốn nguồn vay của họ chủ yếu là từ Ngân Hàng Nông nghiệp và Phát
triển Nông Thôn huyện Lục Nam, Ngân Hàng Chính Sách Xã Hội, ngân hàng
khác, vay ưu đãi, vay tư nhân…
Vốn là một trong những nguồn lực quan trọng ảnh hưởng đến HQKT sản
xuất cây cam Sành, khi các hộ sản xuất có đủ vốn đầu tư cho sản xuất thì họ
sẽ có điều kiện đầu tư về giống, phân bón, thuốc trừ sâu, trang thiết bị phục
vụ sản xuất cao hơn hẳn những hộ thiếu vốn sản xuất. Chính vì thế mà năng
suất, chất lượng cam cao hơn những hộ thiếu vốn đầu tư sản xuất.
+ Cơ sở hạ tầng: Cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất (hệ thống giao thông, hệ
thống điện, hệ thống cấp thoát nước, hệ thống các cơ sở vật chất phục vụ sản
xuất nông thôn..) ảnh hưởng đến sự phát triển sản xuất cây cam Sành. Ở xã
Lục Sơn, cơ sở hạ tầng còn nhiều yếu kém, đường chưa được bê tơng hóa
hồn tồn nên rất khó khăn cho việc đi lại mua bán. Việc đầu tư cơ sở hạ tầng
là rất tốn kém,vì vậy để có một hệ thống cơ sở hạ tầng đáp ứng được yêu cầu
sản xuất cây cam Sành cần phải có sự hỗ trợ từ phía nhà nước và cộng đồng.
- Đất đai phù hợp: Cùng một địa phương nhưng chỉ ở một số thôn là
52