1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Kinh tế - Quản lý >

II. Sự cần thiết phải đổi mới cơ chế chính sách đối với DNVVN ở Việt Nam.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.46 KB, 39 trang )


Đề án kinh tế chính trị



Ngô Anh Dũng



nghiệp lớn. Xuất phát từ vai trò của DNVVN rất thấp so với các nớc trong khu

vực và các nớc trên thế giới, đòi hỏi cần thiết phải có cơ chế quản lý mới phù

hợp có hiệu quả cao, tạo ra đợc hành lang pháp lý và môi trờng kinh tế - xã

hội thuận lợi, để thúc đẩy DNVVN phát triển.

Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng cơ chế quản lý cũ

không tự mất đi, cơ chế quản lý mới không tự nhiên hình thành mà nó phải

trải qua một quá trình đấu tranh để cơ chế quản lý mới từng bớc loại bỏ cơ chế

quản lý cũ. Thực tế hơn 8 năm chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều

thànhphần, vận hành theo cơ chế thị trờng, cha đủ thời gian, kinh nghiệm để

hoàn thiện cơ chế quản lý mới, ảnh hởng của cơ chế cũ vẫn còn dai dẳng đan

xen và đấu tranh với các cơ chế quản lý mới.

Nền kinh tế thị trờng với những quy luật kinh tế khách quan vốn có của

nó, chính những quy luật ấy điều chỉnh nền kinh tế phát triển và phát triển một

cách bền vững. Song không phải không có những hạn chế, vớng mắc, khó

khăn, trái ngợc với mục tiêu phát triển của xã hội, đó là sự độc quyền cá ớn

nuốt cá bé, sự phân hoá giàu nghèo giữa các tầng lớp Trong điều kiện nớc ta

hiện nay, với xu hớng nền kinh tế mở, bên cạnh sự tồn tại hàng trăm nghìn

DNVVN là hàng ngàn doanh nghiệp lớn của mọi thành phần kinh tế, đặc biệt

là doanh nghiệp lớn t nhân, kể cả t nhân trong nớc và t nhân nớc ngoài. Mà

các doanh nghiệp đều có quyền tự chủ sản xuất - kinh doanh sản xuất cái gì ?

sản xuất nh thế nào ? sản xuất cho ai là do doanh nghiệp tự định đoạt. Điều đó

dẫn đến sự bất lợi với nguồn vốn lớn, công nghệ, kỹ thuật hiện đại sẽ tạo ra

sản phẩm mới chi phí thấp, ngợc lại các DNVVN mà đặc biệt là các doanh

nghiệp nhỏ, với nguồn vốn hạn hẹp, công nghệ, kỹ thuật lạc hậu, lao động thủ

công là chủ yếu, sẽ tạo ra cùng loại sản phẩm, với chi phí lớn hơn mà chi phí

của ccs doanh nghiệp lớn bỏ ra.

Để thực hiện đợc mục tiêu dân giàu nớc mạnh, xã hội công bằng, văn

minh, thì trớc hết phải phát triển sản xuất. Nớc ta cũng nh một số nớc đang

phát triển khác, nguồn vốn hạn hẹp, nhân lực dồi dào, công nghệ kỹ thuật lạc

hậu, thị trờng cha phát triển, do vậy việc phát triển DNVVN là phù hợp nhất,

đáp ứng đợc mục tiêu công ăn việc làm nâng cao thu nhập cho ngời lao động,

đáp ứng nhu cầu cấp bách của đất nớc. Về lâu dài, sự phát triển của DNVVN

sẽ đóng góp một tỷ trọng lớn trong thu nhập quốc dân. Nhng thực tế hơn 8

năm đổi mới, DNVVN gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là DNVVN thuộc sở

hữu của Nhà nớc và các doanh nghiệp siêu nhỏ.

1. Thực trạng của các DNVVN.



Đề án kinh tế chính trị



Ngô Anh Dũng



Theo ớc tính của việc quản lý kinh tế trung ơng, nếu xét theo tiêu chí về

vốn đợc 5 tỷ đồng thì có 88,2% trong tổng số các DNVVN. Trong đó, đối với

khu vực doanh nghiệp thuần túy Việt Nam thì tỷ lệ này là 89,8% và khu vực

doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài là 33,6%.

Nếu xét theo quy mô lao động trung bình đợc 200 ngời thì 96% trong

tổng số các doanh nghiệp Việt Nam kể cả doanh nghiệp có vốn đầu t của nớc

ngoài, là các DNVVN. Nh vậy xét theo hai tiêu chí (vốn, lao động) thì khoảng

88 - 90% doanh nghiệp ở Việt Nam là các DNVVN. Trong đó có khoảng gần

400 doanh nghiệp thuộc sở hữu của Nhà nớc và khoảng trên 35000 doanh

nghiệp ngoài quốc doanh. Trong đó, ngành thơng mại, dịch vụ sửa chữa chiếm

một số lợng rất lớn là 40,2%, gần 18% số DNVVN của cả nớc hoạt động

trong các ngành công nghiệp và xây dựng, khoảng 10% DNVVN hoạt động

trong các lĩnh vực vận tải, dịch vụ kho tải. Riêng Đông Nam Bộ và khu vực

Đồng Bằng Sông Hồng chiếm 18,1% và Duyên Hải Miền Trung là 10,1%.

Thách thức lớn nhất đối với các DNVVN ở nớc ta và các nhà quản lý kinh tế

Việt Nam, đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế đang trong quá trình chuyển

đổi theo xu hớng, lộ trình AFTA và WTO và làm thế nào để các DNVVN có

thể cạnh tranh đợc với các Công ty, các tập đoàn xuyên quốc gia khi chúng ta

thực hiện cam kết của các tổ chức này. Trong khi đó, các DNVVN gặp phải

nhiều khó khăn, hạn chế và vớng mắc một phần do xuất phát từ chính bản thân

các DNVVN, do các yếu kém về tổ chức, quản lý điều hành và một phần từ cơ

chế, chính sách, đờng lối và quan điểm của Nhà nớc đối với các DNVVN. Nó

cha đợc các DNVVN phát triển một cách có hiệu quả mà còn cản trở, hạn chế

sự phát triển của các DNVVN theo cơ chế thị trờng. Mặt khác, cơ chế quản lý

DNVVN cha dựa trên nền tảng lý luận về quản lý doanh nghiệp nói chung,

cha biết thừa kế tinh hoa của nhân loại, có sự mặc cảm t bản và chủ nghĩa

trong khoa học quản lý. Do đó, trong quá trình hình thành và phát triển của

mình các DNVVN đã gặp phải những khó khăn, thách thức lớn.

a) Về tình hình sản xuất - kinh doanh :

Theo số liệu thống kê năm 1992, trong phạm vi cả nớc công nghiệp nông

thôn đã thu hút trên một triệu lao động, thu hút khoảng 1000 tỷ đồng trong

dân, tăng thêm cho thu ngân sách Nhà nớc 70 - 80 tỷ đồng, thu nhập của ngời

lao động hàng tháng tăng hơn 20-60% so với lao động thiếu nông nghiệp.

Trong công nghiệp chế biến nông sản sơ chế, sản xuất - vật liệu xây dựng

thông thờng (gạch ngói, đá, sỏi), hàng mộc dân dụng, thì sản xuất của công

nghiệp nông thôn kém u thế gần nh tuyệt đối.



Đề án kinh tế chính trị



Ngô Anh Dũng



Tuy công nghiệp và dịch vụ nông thôn đã có những mốc phát triển đáng

kể, kết quả đạt đợc có ý nghĩa rất to lớn ở nhiều mặt cả kinh tế và xã hội, nhng

hiệu quả còn thấp. Năm 1992 so với khu vực thành thị, tổng doanh thu bình

quân của một DNVVN ở nông thôn chỉ bằng 30%. Trung bình một doanh

nghiệp t nhân ở thành thị tạo ra đợc giá trị tăng thêm lớn hơn 2 lần so với loại

DNVVN này ở nông thôn, đối với doanh nghiệp hộ gia đình mức chênh lệch

này tới 3 lần. Đây là sự chênh lệch rất lớn giữa các DNVVN ở nông thôn so

với thành thị, làm cho một số DNVVN ở nông thôn sản xuất - kinh doanh kém

hiệu quả, nhiều lúc còn dẫn tới phá sản, không có khả năng thanh toán.

Sản phẩm của các DNVVN ở thành thị nói chung và ở khu vực nông thôn

nói chng mới chỉ đáp ứng đợc một cách hạn chế nhu cầu tiêu dùng liên tục

chất lợng cha ổn định, quy cách mẫu mã, chậm thích ứng với thị hiếu của ngời

tiêu dùng, nên chủ yếu phục vụ cho thị trờng tại chỗ : 66% tiêu thụ tại huyện;

21% tại xã, 12% tại làng. Chính vì vậy, mà sản phẩm làm ra kém sức cạnh

tranh, thị trờng tiêu thụ hạn chế, cuối cùng là hiệu quả sản xuất - kinh doanh

thấp, hoạt động chủ yếu là tự phát, không ổn định. Số DNVVN hoạt động

không thu đợc lãi hoặc bị phá sản trong những năm gần đây là 60% 70%trong tổng số các DNVVN.

Điều này cho thấy, nhiều DNVVN đang ở trong tình trạng khó khăn. Bên

cạnh các yếu tố trợt giá do chất lợng sản phẩm thấp và tăng tỷ giá ngoại tệ và

việc phát triển chậm của nền kinh tế nói chung các DNVVN còn thiếu chủ

động trong hoạt động sản xuất kinh doanh, tìm kiếm thị trờng tiêu thụ cũng

nh nguồn lực đầu vào.

b) Về vốn tài chính và tín dụng :

Trong những năm gần đây, tuy nguồn vốn chính thức ngày càng tăng,

năm 1991 : 7% trên tổng số vốn, năm 1995 : 50% trên tổng số vốn. Riêng

DNVVN ngoài quốc doanh chỉ đáp ứng 25% so với nhu cầu chủ yếu là vốn

ngắn hạn, khó có khả năng đầu t, chuyển hớng sản xuất - kinh doanh. Mọi

hoạt động sản xuất kinh doanh đều cần có vốn là chính. Qua sự vận động, luân

chuyển của vốn có thể bắt mạch đợc trạng thái hoạt động của các DNVVN.

Điều kiện về vốn của các DNVVN Việt Nam đang rất hạn hẹp và gặp rất

nhiều khó khăn có trên 58% DNVVN thiếu vốn điều kiện sự thiếu vốn của các

DNVVN đều rất khó, hạn hẹp, không đủ sức tài trợ cho các hoạt động sản

xuất - kinh doanh có chất lợng và hiệu quả đặc biệt đối với các DNVVN muốn

mở rộng, phát triển quy mô và đổi mới nâng cấp chất lợng công nghệ, sản

phẩm. Hạn chế tài chính đối với các DNVVN đợc bộc lộ qua sự không hoàn

thiện, không linh hoạt của thị trờng tài chính ở nớc ta, đặc biệt là hoạt động



Đề án kinh tế chính trị



Ngô Anh Dũng



của hệ thống ngân hàng, các tổ chức tín dụng, khả năng hạn hẹp về tích tụ vốn

bên trong và huy động nguồn vốn ngoài doanh nghiệp. Phần lớn các DNVVN,

cơ sở sản xuất cá thể để đáp ứng nhu cầu tín dụng của mình, các DNVVN

phải vay vốn từ các tổ chức phi tài chính, thông t bạn bè, ngời thân với mức lãi

suất vay không chính thức gấp từ 3 đến 6 lần lãi suất của ngân hàng. Nớc ta

cha có những hình thức tín dụng chuyên cho các DNVVN nh ở Hàn Quốc,

Nhật Bản, Singapore, Inđônêxia, lãi suất cho vay đối với các doanh nghiệp còn

có sự phân biệt lớn. Năm 1991, lãi suất cho vay áp dụng thông thờng với

doanh nghiệp ngoài quốc doanh khoảng 4%, với doanh nghiệp Nhà nớc chỉ

khoảng 2,7%. Điều này cho ta thấy còn có sự u tiên, u đãi quá nhiều đối với

các DNVVN thuọc sở hữu Nhà nớc. Đến nay, lãi suất cho vay đối với tất cả

các DNVVN nói riêng và ccs doanh nghiệp nói chung đã thống nhất nhng các

DNVVN vay khó khăn hơn các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp ngoài quốc

doanh tức là doanh nghiệp không thuọc sở hữu của Nhà nớc vay khó khăn hơn

đối với các doanh nghiệp thuôcj sở hữu Nhà nớc. Do đó các DNVVN nói

chung có doanh nghiệp t nhân, hộ gia đình, cá thể có nguồn vốn rất nhỏ, trong

đó vốn cố định chiêm quá 2/3 tổng số vốn. Thiếu vốn là một khó khăn rất lớn

đối với các DNVVN, thiếu vốn dẫn tới hạn chế sản xuất - kinh doanh, chiếm

dụng vốn của nhau, nợ vòng vo, khó có khả năng thanh toán đúng hạn, làm

mất cả quyền mà cơ chế đề ra, thậm chí phải đóng cửa doanh nghiệp.

Khó khăn lớn nhất là vẫn cha tìm đợc tiếng nói chung giữa các ngân

hàng với các DNVVN. Về phía ngân hàng, vì mục tiêu lợi nhuận cao, an toàn,

ngân hàng thờng cho vay đối với các doanh nghiệp lớn có hiệu quả. Các thủ

tục xin vay vốn ngân hàng phải có thế chấp bằng tài sản cố định, nhng không

thừa nhận đất thuê mà phải là nhà cửa hoặc công trình xây dựng trên mảnh đất

đó, trong khi đó thủ tục về chuyển nhợng quyền sử dụng đất đai lại quá phức

tạp. Bên cạnh đó là yêu cầu về luận chứng kinh tế kỹ thuật chi tiết về phơng án

mà các DNVVN đầu t nên thời gian chờ đợi xét duyệt là rất lâu từ 3 tháng - 6

tháng. Nhng các DNVVN phần lớn thiếu tài sản thế chấp và khó xác định giá

trị của tài sản thế chấp nh : máy móc, thiết bị nhà xởng lạc hậu, lâu đời. Bên

cạnh đó, các DNVVN thờng yếu kém về tài chính, cha đủ những khoản vay có

bảo đảm chở cho một số ít các DNVVN vay. Nguyên nhân chính là các thủ

tục tín dụng ngân hàng trung hạn, dài hạn và ngắn hạn của ngân hàng và các

tổ chức tín dụng chính thức rất phức tạp, dẫn đến chi phí giao dịch cao, làm

cho những khoản tín dụng này trở nên quá tốn kém đối với DNVVN. Bên

cạnh đó, những quy chế về việc ký quỹ và các dự án đầu t quá cứng nhắc làm



Đề án kinh tế chính trị



Ngô Anh Dũng



cho nhiều doanh nghiệp trong hệ thống DNVVN không thể đáp ứng đợc khi

muốn vay tín dụng từ các tổ chức tài chính, trong khi các DNVVN lại đợc

muốn việc ký quỹ.

Một tình trạng không kém phần quan trọng là thị trờng vốn dài hạn, thị

trờng chứng khoán về cơ bản ở nớc ta cha có. Và nếu có thì điều kiện tham gia

thị trờng chứng khoán của các DNVVN Việt Nam là hết sức khó khăn, hiếm

hoi và các DNVVN sẽ bị loại ra khỏi cuộc chơi. Đồng thời, khả năng và điều

kiện tiếp cận các nguồn vốn trên thị trờng tín dụng đối với các DNVVN ở nớc

ta còn bị hạn chế và gặp khó khăn lớn là do: không đủ tài sản thế chấp, mức

lãi suất cho vay còn quá cao so với lợi nhuận mà các DNVVN thu đợc khối lợng mà các DNVVN vay đợc là rấ ít, thời gian cho vay quá ngắn. Đặc biệt đối

với khu vực nông thôn còn nghèo nàn và đơn điệu và thực hiện pháp lý không

cao thì tình trạng này lại diễn ra mạnh hon và càng làm cho DNVVN ở nông

thôn ảnh hởng lớn đến việc huy động nguồn vốn cố định và nguồn vốn lu

động. Những khó khăn đó rất cần đợc giải quyết tháo gỡ để tạo điều kiện

thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh và phát triển cuả các DNVVN.

c. Về thị trờng :

Một vấn đề nan giải chung đối với các cơ sở sản xuất - kinh doanh quy

mô nhỏ và luôn đặc biệt là đối với quy mô nhỏ là thiếu chiến lợc về thị trờng,

kế hoạch sản xuất - kinh doanh không bài bản vì các doanh nghiệp này đã

quen theo kiểu hoạt động đánh quả nền văn minh kinh doanh với nền kinh

doanh chân chính cha đợc tập lập. Điều này phụ thuộc vào tình hình phát triển

của đất nớc vào nhận thức của các chủ doanh nghiệp, ở đây còn có khả năng

yếu tố vợt quá khả năng của các chủ doanh nghiệp và họ thiếu thông tin về thị

trờng, thiếu các tổ chức dịch vụ, dịch vụ t vấn về thông tin thị trờng, thiếu các

hiệp hội t vấn và hỗ trợ của chính họ sản xuất và gắn liền với nó là thực hiện

nửa cơ khí, cơ khí hoà toàn phần, toàn bộ quá trình sản xuất. Nhng do nguồn

vốn tài chính bị giới hạn không cho phép các doanh nghiệp có thể tự mình, đỏi

mới cũng nh áp dụng mạnh mẽ công nghệ kỹ thuật tiên tiến. Vì vậy, tỉ lệ đổi

mới trang thiết bị cũng rất thấp, chỉ khoảng 10%/năm tính theo vốn đầu t.

Điều này cho thấy trình độ về thiết bị công nghệ, kỹ thuật của các DNVVN

vẫn thấp và còn lạc hậu so với trung bình của thế giới. Lý do xuất phát từ việc

vốn đầu t của các DNVVN rất thấp so với các DNVVN, các DNVVN rất khó

có thể vay đợc một khoản tín dụng trung và dài hạn cần thiết để đầu t nâng

cấp công nghệ. Chính vì những nguyên nhân đó nên khoảng gần 50% sô

doanh nghiệp nhỏ ở nông thôn chỉ sử dụng công cụ cầm tay ; 15,8% sử dụng

công cụ nửa cơ giới, hơn 35,5% có sử dụng máy chạy điện. ở miền Bắc tỷ lệ



Đề án kinh tế chính trị



Ngô Anh Dũng



số doanh nghiệp nhỏ sử dụng công cụ cầm tay cao hơn ở miền Nam. Gần đây

một số cơ sở có vốn đã nhập máy móc, thiết bị của nớc ngoài nhng chủ yếu là

máy do công nghiệp địa phơng của Trung Quốc sản xuất trình độ công nghệ

và kỹ thuật sản xuất còn hạn chế, nên các doanh nghiệp vẫn chủ yếu dựa vào

nguồn máy móc thải loại của công nghiệp thành thị hoặc tự chế tự dùng.

Ngoài khó khăn về khả năng đầu t của bản thân các doanh nghiệp, sự bất hợp

lý trong hệ thống đầu t, cung ứng và quản lý điện ở nông thôn cũng là một

trong những nguyên nhân trực tiếp làm cản trở quá trình phát triển của các

doanh nghiệp nhỏ. Nhiều doanh nghiệp có điều kiện sử dụng điện nhng vẫn

dùng công cục cầm tay hoặc nửa cơ giới. Ví dụ : ở Hải Phòng qua điều tra số

DNVVN có điện chiếm tới 87% nhng số doanh nghiệp sử dụng máy chạy điện

chỉ có 43,5%, nguyên nhân chủ yếu alf do không ổn định về giá và chất lợng

điện.

Nhìn chung, trình độ kỹ thuật và công nghệ sản xuất của các DNVVN

nói chung và đặc biệt là các DNVVN ở nông thôn còn đang ở mức rất thấp,

phần lớn đang nằm trong giai đoạn chuyển từ lao động thủ công sang sản xuất

cơ giới và chủ yếu nhận chuyển giao những thiết bị và công nghệ truyền thống

hoặc thải loại của công nghiệp quốc doanh, của công nghiệp đo thị hoặc công

nghệ lạc hậu của nớc ngoài mà chủ yếu là của Trung Quốc ; hiệu quả và trình

độ sử dụng thiết bị nói chung còn thấp, hệ số sử dụng nguyên liệu thấp, năng

suất của các thiết bị máy móc và lao động, chất lợng sản phẩm thấp hơn so với

các nớc trong khu vực và trên thế giới.

Do sự bất lợi rất lớn đối với các doanh nghiệp lớn nên so với các doanh

nghiệp lớn trong nớc cũng nh các doanh nghiệp liên doanh thì các DNVVN

rất khó tiếp cận với thị trờng công nghệ máy móc và thiết bị quốc tế do họ

thiếu thông tin về thị trờng này thiếu vốn để đổi mới công nghệ. DNVVN

cũng khó tiếp cận với những dịch vụ t vấn hỗ trợ của các tổ chức,Nhà nớc

trong việc xác định công nghệ, máy móc, thiết bị thích hợp và hiệu quả, giúp

họ cải tiến sản xuất và nâng cao sức cạnh tranh và phù hợp với cơ chế thị trờng

trong nớc và ngoài nớc.

e. Về kiến thức và tay nghề của lực lợng lao động.

Trình độ tri thức và tay nghề của lực lợng lao động làm việc trong các

doanh nghiệp cũng rất quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của chúng.

Những ngời có tri thức, tay nghề cao, kỹ năng thành thạo, lao động lành nghề

sẽ sử dụng tốt các loại thiết bị công nghệ, có trình độ cao, phức tạp, tiếp thu áp

dụng tốt các loại thiết bị công nghệ tiên tiến hiện đại, làm ra những sản phẩm

đẹp, có chất lợng, với năng suất và hiệu quả cao.



Đề án kinh tế chính trị



Ngô Anh Dũng



Nhng đội ngũ lao động hiện có trong các DNVVN, phần đông có trình

độ văn hoá cấp IV chiếm từ 40 - 45%, số có trình độ văn hoá phổ thông trung

học cũng chiếm một tỷ trọng khá từ 20 - 30% và số có trình độ tiểu học và cha

biết chữ còn chiếm tỷ trọng khá lớn (25 - 30%). Nhng về trình độ tay nghề, kỹ

thuật của những ngời lao động trong các DNVVN hiện rất thấp, đặc biệt ở khu

vực nông thôn. Số lao động có tính chất phổ thông, có trình độ tay nghề giản

đơn, cha đợc đào tạo qua các trờng dạy nghề, bình quân chiếm khoảng 60 70% trong tổng số lực lợng lao động của các DNVVN. Do tỷ lệ lực lợng lao

động trong các DNVVN có trình độ tay nghề thấp nên sản phẩm sản xuất ra

có chất lợng không cao, số lợng sản phẩm không nhiều, mẫu mã ít, khó cạnh

tranh với các mặt hàng của các doanh nghiệp lớn.

Bên cạnh đó trình độ tay nghề của lực lợng lao động thấp sẽ làm cho việc

sử dụng máy móc công nghệ không có hiệu quả cao, hạn chế năng suất tạo ra

sản phẩm. Đặc biệt là đối với lực lợng lao động làm việc trong các DNVVN ở

nông thôn, đa sốđợc đào tạo nghề chính quy chỉ chiếm khoảng 10% nên gặp

rất nhiều khó khăn và hạn chế trong việc sử dụng máy móc thiết bị và công

nghệ của doanh nghiệp. Đó cũng là một khó khăn đối với việc phát triển mạnh

mẽ các DNVVN hiện nay ở nớc ta.

f. Về kiến thức và tay nghề của lực lợng quản lý.

Sự hoạt động sản xuất kinh doanh trên thơng trờng với sự cạnh tranh

khốc liệt đầy cam go, đòi hỏi các chủ doanh nghiệp phải có trình độ kiến thức

cao, năng lực quản lý giỏi mới có thể thành đạt trong điều kiện, đa doanh

nghiệp của mình ngày một phát triển. Mỗi chủ doanh nghiệp phải biết thu

thập, tổng hợp, phân tích, đánh giá các loại thông tin kinh tế, kỹ thuật biết đề

ra những chiến lợc đúng đắn và đa ra những quyết định sán suốt, kịp thời.

Đồng thời chủ doanh nghiệp phải biết quản lý, giám sát, điều khiển công việc

của những ngời lao động làm việc cho mình một cách hợp lý, có hiệu quả,m

biết đánh giá, động viên, khuyến khích, thởng phạt và trả công chính xác, tơng

xứng với những đóng góp của họ vào kết quả chung của doanh nghiệp.

Nhìn lại đội ngũ các chủ DNVVN ở nớc ta hiện nay cho thấy họ còn có

nhiều bất cập, khó khăn, hạn chế với đòi hỏi của kinh doanh trong thơng trờng

hiện đại. Đại đa số các chủ doanh nghiệp chỉ có trình độ kiến thức văn hoá

phổ thông cấp II chiếm từ 45 - 50%, một số không ít nhiều có trình độ văn hoá

phổ thông trung học, cao đẳng và đại học (30 - 35%), còn một bộ phận đáng

kể có trình độ văn hoá cấp tiểu học chiếm từ 10 - 15%. Chỉ có rất ít chủ doanh

nghiệp (2 - 3%) của các DNVVN đợc đào tạo kiến thức quản lý chính quy,

một sôits từ 20- 30% đợc tập huấn, đào tạo ngắn hạn đợc 6 tháng tại các trung



Đề án kinh tế chính trị



Ngô Anh Dũng



tâm kinh tế, tài chính, thơng mại, còn đại bộ phận các chủ doanh nghiệp chỉ

quản lý và điều hành doanh nghiệp của mình bằng kinh nghiệm học hỏi đợc.

Việc phân cấp quản lý các doanh nghiệp nói chung và DNVVN nói

riêng, theo ngành và địa phơng tỏ ra không phù hợp với xu thế vận động của

nền kinh tế thị trờng, dẫn đến việc bất bình đẳng trong việc huy động vốn và

lựa chọn lĩnh vực sản xuất - kinh doanh. Việc quản lý các DNVVN ngoài

quốc doanh, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ thì vừa buông lỏng vừa phức tạp

và tùy thuộc vào từng địa phơng. Cơ quan quản lý và cán bộ quản lý cha thật

sự đổi mới kịp với quá trình phát triển của DNVVN, kinh nghiệm quản lý theo

định hớng thị trờng hiện đại vẫn còn thiếu. Cha có sự hỗ trợ tài chính của Nhà

nớc trong việc đào tạo công nhân cho các doanh nghiệp. Các trờng đào tạo

quản lý kinh doanh, quản lý và pháp luật thiên hẳn về việc tiếp cận lý thuyết

hơn là thực hành.

g. Về mặt bằng kinh doanh của các doanh nghiệp :

Điều kiện mặt bằng cho sản xuất - kinh doanh của các DNVVN nhìn

chung hiện đang rất chật hẹp và gặp nhiều khó khăn trong việc tập lập và mở

rộng mặt bằn, do cơ chế chính sách cha thích hợp và khả năng tài chính hạn

chế của các doanh nghiệp. Đa số các doanh nghiệp phải thuê mợn lại mặt

bằng của các doanh nghiệp Nhà nớc, hoặc phải dùng nơi ở để cấp cho các

DNVVN không đảm bảo chất lợng, thờng hay có sự cố. Hệ thống xử lý nớc và

chất thải khác của các DNVVN hầu nh không có, nếu có thì rất thô sơ, lạc

hậu, gây tác hại rất lớn tới môi trờng sống xung quanh nói riêng và môi trờng

tự nhiên nói chung.

Các điều kiện về kho bãi, đờng xá trong và ngoài doanh nghiệp, nhất là

hệ thống giao thông công cộng phục vụ cho sản xuất - kinh doanh, giao lu

hàng hoá của các doanh nghiệp trong cả nớc nói chung, ở khu vực nông thôn

nói riêng (khu vực mà các DNVVN đang và sẽ có địa bàn hoạt động chiếm u

thế) đang rất hạn chế về mật độ và độ rộng của lòng đờng, thấp kém về chất lợng cầu cống, nền và mặt đờng, cũng nh sự thiếu thốn về bến bãi. Chúng ảnh

hởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nói chung và của

hệ thống DNVVN nói riêng của nớc ta.

Bên cạnhđó các DNVVN gặp nhiều khó khăn trong việc đợc cấp quyền

sử dụng đất hoặc họ gặp khó khăn khi thuê đất làm trủ và nhà máy để sản

xuất. Nguyên nhân là các thủ tục để đợc cấp quyền sử dụng đất là không rõ

ràng và thờng không công nhận đối với các DNVVN. Đặc biệt, trong trờng

hợp đất công nghiệp, các quyền bán, mua, chuyển nhợng và cầm cố quyền sử

dụng đất để ký quỹ vẫn còn cha đợc chấp nhận. Trong cuộc điều tra 452 dự án



Đề án kinh tế chính trị



Ngô Anh Dũng



đầu t mới năm 1997 chỉ có 17 dự án thuộc khu vực t nhân, cũng do những khó

khăn trong việc chứng nhận quyền sử dụng đất hợp háp nên còn tồn tại một thị

trờng đất đai đáng kể hoạt động một cách không chính thức và bất hợp pháp

làm ảnh hởng tới quá trình hình thành các DNVVN mới với quy mô lớn hơn.

h. Về khả năng tiếp cận thông tin của hệ thống thông tin.

Hệ thống thông tin và khả năng tiếp cậnthông tin, nhất là thông tin về thị

trờng, giá cả công nghệ, sản phẩm là hết sức quan trọng đối với hoạt động sản

xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng và các doanh

nghiệp nói chung. Hệ thống thông tin ở nớc ta hiện nay mặc dù đã phổ biến

rộng rãi hơn trớc, các phơng tiện thông tin tơng đối phong phú và hiện đại phơng pháp thu thập và cung cấp thông tin có nhiều tiến bộ. Song nhìn chung,

tính chất nhanh nhạy, kịp thời, chính xác và đầy đủ, hoàn thiện của hệ thống

thông tin cha đáp ứng đợc những yêu cầu của sản xuất - kinh doanh trong điều

kiện của thị trờng và cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đặc biệt

đối với các DNVVN. ở khu vực nông thôn và doanh nghiệp ở những khu vực

không thuận lợi về thông tin các DNVVN không có bộ phận chuyên trách về

thu thập và xử lý thông tin. Nguồn vốn tài chính có hạn, chúng không đủ kinh

phí để mua sắm các thiết bị phục vụ công tác thông tin nhanh chóng kịp thời

nói riêng và chi phí cho các hoạt động tiếp cận, thu thập và xử lý thông tin nói

chung. Trình độ tri thức và năng lực thu thập, xử lý thông tin của các chủ

DNVVN còn rất hạn chế và gặp nhiều khó khăn. Chính sự khó khăn của việc

cập nhật - thông tin của các DNVVN đã làm ảnh hởng tới quá trình sản xuất

và kinh doanh của các DNVVN, đặc biệt là thông tin về thị trờng sản phẩm

quá trình tạo lập vốn và quá trình tìm kiếm thị trờng.

i. Về hệ thống chính sách và pháp luật Nhà nớc.

Hệ thống chính sách và pháp luật của Nhà nớc tác động tới toàn bộ mọi

mặt hoạt động trong đời sống xã hội, trong đó có sự hình thành và phát triển

của các DNVVN. Tuy nhiên, hệ thống chính sách và văn bản pháp luật cha

đồng bộ, một số văn bản pháp luật đã ban hành nhng cha đợc thực hiện tốt.

Mặc dù đã có Luật khuyến khích đầu t trong nớc nhng quá trình thực hiện còn

gặp rất nhiều khó khăn, điều đó ảnh hởng không nhỏ đến sự phát triển của các

doanh nghiệp, đặc biệt đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thực tiễn chỉ ra

rằng khi Nhà nớc ban hành luật đầu t nớc ngoài tại Việt Nam vào năm1988 thì

số dự án đợc thực hiện nhiều hơn trớc nhng còn nhiều hạn chế, khó khăn về

vốn, công nghệ.

Một số chính sách tay đã ban hành, nhng vẫn cha đi vào cuộc sống, vì có

sự mâu thuẫn hoặc thiếu đồng bộ giữa các khâu, điều đó không những ảnh h-



Đề án kinh tế chính trị



Ngô Anh Dũng



ởng đến sự phát triển của DNVVNmà còn ảnh hởng đến sự giám sát, kiểm

soát của Nhà nớc.

Một văn bản pháp luật, chính sách ra đời đều xuấ phát từ tình hình thực

tiễn của đất nớc, từ những vấn đề vĩ mô để điều chỉnh hoạt động sản xuất kinh doanh của vi mô, theo hớng tích cực của các quy luật - kinh tế thị trờng.

Nhng không ít văn bản, pháp luật, chính sách ra đời đã không thực hiện tốt nh

pháp lệnh, kế toán và thống kê pháp lệnh bảo hộ lao động có nhiều lý do

khác nhau để giải thích vấn đề trên, nhng có thể khái quát thành 3 lý do chủ

yếu sau đây :

+ Luật pháp chính sách còn có nhiều điểm xa vời với điều kiện thực tế

của các DNVVN nếu thực hiện một cách nghiêm túc, DNVVN khó có điều

kiện tồn tại và phát triển. Nh luật thuế các luật thuế đánh chồng chéo nhau,

không có sự phân biệt theo quy mô lớn, nhỏ.

+ ý thức tự giác trong cuộc thực hiện luật lệ, chế độ, chính sách của Nhà

nớc đối với DNVVN điển hình là doanh nghiệp t nhân, còn hạn chế, hiện tợng

đăng ký kinh doanh một đằng sản xuất - kinh doanh một nẻo.

+ Tổ chức thực hiện pháp luật cha tốt, Nhà nớc đã ban hành luật, chế độ,

chính sách tuy cha thật hoàn chỉnh, đồng bộ song cũng đã tạo ra đợc môi trờng pháp lý cần thiết, tối thiểu, nhng không ít DNVVN tồn tại và phát triển là

nhờ các hoạt động ngoài khuôn khổ pháp luật. Rõ ràng là thiếu một bộ máy tổ

chức thực hiện có hiệu lực.

Chính sách bảo hộ mậu dịch của Nhà nớc có những bất hợp lý, thể hiện ở

thuế xuất nhập khẩu. Trong quá trình tìm kiếm thị trờng, DNVVN luôn ở tình

thế bất lợi hơn các doanh nghiệp lớn nhng với chính sách xuất, nhập hiện nay

quy định doanh số 2 triệu USD/năm, đối với xí nghiệp và 20 triệu USD/năm

đói với Công ty mới đợc trực tiếp xuất, nhập khẩu thì các DNVVN khó có thể

đủ vốn để thực hiện xuất, nhập khẩu trực tiếp, đặc biệt là khu vực ngành nghề

truyền thống.

Bên cạnh đó hệ thống tổ chức quản lý kiểm soát của Nhà nớc đã không

có sự thống nhất chồng chéo lên nhau, nhiều khi còn đổ lỗi cho nhau làm ảnh

hởng tới các hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNVVN nói riêng và hệ

thống doanh nghiệp nói chung. Điều này đòi hỏi phải có sự đổi mới, hoàn

thiện hơn nữa hệ thống chính sách và pháp luật của Nhà nớc để tạo điều kiện

thúc đẩy mạnh mẽ sự hình thành và phát triển của các DNVVN.

III. Đổi mới cơ chế chính sách đối với DNVVN.



1. Cần hoàn thiện hơn nữa hệ thống các văn bản pháp luật hiện

hành có liên quan tới loại hình kinh doanh này.



Đề án kinh tế chính trị



Ngô Anh Dũng



- Đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật : Xuất phát từ thực tiễn hệ

thống pháp luật, chính sách cha thật đầy đủ và đồng bộ. Thậm chí có vấn đề

trái ngợc nhau, tính hiệu lực cha cao do đó trong thời gian tới cần thiết phải

ban hành thêm một số luật cần thiết và triển khai thực hiện luật khuyến khích

đầu t trong nớc, Bộ luật lao động, luật công ty. Luật doanh nghiệp t nhân, đồn

thời hoàn thiện luật thuế, bao gồm cả thuế doanh thu, thuế lợi tức, thuế xuất

nhập khẩu. Ngoài ra còn nghiên cứu xây dựng để ban hành luật hoặc Bộ luật

cơ bản về doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong bộ luật này phải xác định rõ mục

tiêu thành lập và quy mô hoạt động - kinh doanh của doanh nghiệp, mô hình

doanh nghiệp và tổ chức quản lý chế độ trách nhiệm của chủ doanh nghiệp đối

với Nhà nớc và ngời lao động, đồng thời cũng phải xác định ngành nghề, lĩnh

vực u tiên dành riêngcho doanh nghiệp vừa và nhỏ, các u đãivề tín dụng, thuế,

trợ cấp giúp đào tạo quản lý trong những năm đầu thành lập doanh nghiệp.

Trong các văn bản pháp quy phục vụ cho việc kiểm soát hoạt động của

các doanh nghiệp thì vấn đề quan trọng nhất hiện nay là các chế định có liên

quan đến tài chính doanh nghiệp, kiểm toán, kế toán tiếp đến là ngành hàng,

chất lợng sản phẩm và thuế.

Khuôn khổ pháp luật cũng nh các quy chế quản lý phải đảm bảo tính ổn

định lâu dài và tính đồng bộ, thống nhất để các doanh nghiệp yên tâm đầu t

vào hoạt động sản xuất - kinh doanh. Tính ổn định, lâu dài trớc hết phải thể

hiện ở quan điểm nhất quán của Nhà nớc đối với các DNVVN thuộc các thành

phần kinh tế, không có sự phân biệt đối xử trong các văn bản pháp luật cũng

nh tổ chức thực hiện. Sự ổn định lâu dài còn đợc thể hiện ở tính khả thi của hệ

thóng văn bản pháp luật. Xuất phát từ thực tế của các DNVVN trong nền kinh

tế thị trờng, để hoạch định chiến lợc phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng pháp

luật chính sách để quản lý trong một số năm nhất định, tạo điều kiện cho các

chủ doanh nghiệp yên tâm đầu t vào sản xuất -kinh doanh trên cơ sở chiến lợc

và kế hoạch khắc phục tình trạng làm ăn theo kiểu đánh quả. Sự ổn định lâu

dài của pháp luật, chính sách là tiền đề quan trọng để đảm bảo quyền tự chủ

thật sự trong sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp.

Về lâu dài, phải hoàn thiện một bộ luật trong đó phải quy định rõ : loại

hình cho từng ngành nghề cụ thể, t cách pháp nhân, về tổ chức và hoạt động,

về các chính sách bảo hộ, khuyến khích là điều mà chúng ta cần làm trong

những năm tới. Đặc biệt là nhanh chóng thực hiện luật doanh nghiệp mới thay

thế cho luật doanh nghiệp t nhân và luật Công ty năm 1990 nhằm hợp lý hoá

các thủ tục thành lập và đăng ký, quy định các khả năng huy động vốn kinh



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

×