Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.46 KB, 39 trang )
Đề án kinh tế chính trị
Ngô Anh Dũng
- Đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật : Xuất phát từ thực tiễn hệ
thống pháp luật, chính sách cha thật đầy đủ và đồng bộ. Thậm chí có vấn đề
trái ngợc nhau, tính hiệu lực cha cao do đó trong thời gian tới cần thiết phải
ban hành thêm một số luật cần thiết và triển khai thực hiện luật khuyến khích
đầu t trong nớc, Bộ luật lao động, luật công ty. Luật doanh nghiệp t nhân, đồn
thời hoàn thiện luật thuế, bao gồm cả thuế doanh thu, thuế lợi tức, thuế xuất
nhập khẩu. Ngoài ra còn nghiên cứu xây dựng để ban hành luật hoặc Bộ luật
cơ bản về doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong bộ luật này phải xác định rõ mục
tiêu thành lập và quy mô hoạt động - kinh doanh của doanh nghiệp, mô hình
doanh nghiệp và tổ chức quản lý chế độ trách nhiệm của chủ doanh nghiệp đối
với Nhà nớc và ngời lao động, đồng thời cũng phải xác định ngành nghề, lĩnh
vực u tiên dành riêngcho doanh nghiệp vừa và nhỏ, các u đãivề tín dụng, thuế,
trợ cấp giúp đào tạo quản lý trong những năm đầu thành lập doanh nghiệp.
Trong các văn bản pháp quy phục vụ cho việc kiểm soát hoạt động của
các doanh nghiệp thì vấn đề quan trọng nhất hiện nay là các chế định có liên
quan đến tài chính doanh nghiệp, kiểm toán, kế toán tiếp đến là ngành hàng,
chất lợng sản phẩm và thuế.
Khuôn khổ pháp luật cũng nh các quy chế quản lý phải đảm bảo tính ổn
định lâu dài và tính đồng bộ, thống nhất để các doanh nghiệp yên tâm đầu t
vào hoạt động sản xuất - kinh doanh. Tính ổn định, lâu dài trớc hết phải thể
hiện ở quan điểm nhất quán của Nhà nớc đối với các DNVVN thuộc các thành
phần kinh tế, không có sự phân biệt đối xử trong các văn bản pháp luật cũng
nh tổ chức thực hiện. Sự ổn định lâu dài còn đợc thể hiện ở tính khả thi của hệ
thóng văn bản pháp luật. Xuất phát từ thực tế của các DNVVN trong nền kinh
tế thị trờng, để hoạch định chiến lợc phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng pháp
luật chính sách để quản lý trong một số năm nhất định, tạo điều kiện cho các
chủ doanh nghiệp yên tâm đầu t vào sản xuất -kinh doanh trên cơ sở chiến lợc
và kế hoạch khắc phục tình trạng làm ăn theo kiểu đánh quả. Sự ổn định lâu
dài của pháp luật, chính sách là tiền đề quan trọng để đảm bảo quyền tự chủ
thật sự trong sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp.
Về lâu dài, phải hoàn thiện một bộ luật trong đó phải quy định rõ : loại
hình cho từng ngành nghề cụ thể, t cách pháp nhân, về tổ chức và hoạt động,
về các chính sách bảo hộ, khuyến khích là điều mà chúng ta cần làm trong
những năm tới. Đặc biệt là nhanh chóng thực hiện luật doanh nghiệp mới thay
thế cho luật doanh nghiệp t nhân và luật Công ty năm 1990 nhằm hợp lý hoá
các thủ tục thành lập và đăng ký, quy định các khả năng huy động vốn kinh
Đề án kinh tế chính trị
Ngô Anh Dũng
doanh cho các mục đích đầu t sản xuất. Giúp cho các DNVVN một cách hiệu
quả hơn trong việc huy động vốn, quy định một cơ cấu mềm dẻo hơn, bảo vệ
tốt hơn các cổ đông thiểu số, có quy tắc rõ ràng trách nhiệm pháp lý của giám
đốc và các giaodịch quan trọng của Công ty nh sát nhập và chuyển đổi hình
thức Công ty. Ban hành các văn bản pháp luật cần thiết để tạo ra một cơ sở dữ
liệu tập trung thông tin các doanh nghiệp và các Công ty đã đăng ký và công
khai các thông tin đó ra công chúng. Đồng thời, khi tiến hành xây dựng bộ
luật riêng cho các DNVVN cần phải tham khảo các bộ luật về DNVVN của
các nớc đặc biệt là các nớc ASEAN trong tính đặc thù của Việt Nam.
2. Cải cách thủ tục, hành chính.
Thủ tục hành chính luôn là vấn đề nhức nhối đối với các doanh nghiệp, vì
vậy Chính phủ phải có những biện pháp triệt để và liên tục nhằm tạo điều kiện
tốt nhất cho các DNVVN trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Đặc biệt là
chúng ta phải có những cải cách, đổi mới bốn thủ tục có ảnh hởng rất lớn đến
hoạt động của các DNVVN.
- Thủ tục thành lập và đăng ký kinh doanh thì Nhà nớc phải có văn bản
quy định rõ ràng điều kiện để thành lập doanh nghiệp và tổ chức quản lý của
doanh nghiệp. Đồng thời Nhà nớc phải có những văn bản để giúp đỡ các
doanh nghiệp đã đăng ký đợc thành lập và đi vào sản xuất kinh doanh có hiệu
quả cao.
- Thủ tục vay vốn tín dụng :
Nguồn vốn là một khó khăn lớn nhất đốivới các DNVVN ở nớc ta
hiệnnay, chính vì thế Nhà nớc cần phải có những hỗ trợ đối với các DNVVN.
Cần phải tạo ra một sân chơi bình đẳng về tín dụng trung và dài hạn để tất
cả ngời đi vay đều tuân thủ những thể lệ giống nhau, sửa đổi và ban hành các
văn bản pháp luật và những quy định nhằm xây dựng một khung pháp luật
toàn diện và hiện đại, tạo điều kiện cho ngời đi vay thực hiện và bắt buộc cầm
cố và thế chấp.
- Thủ tục thuế đất : Bắt buọc các DNVVN phải có mặt bằng để sản xuất
kinh doanh thuộc sở hữu hoặc mặt bằng thuê của ngời khác hoặc thuê của một
tổ chức nào đấy. Việc hoàn thiện chính sách và thủ tục thuế đất phải đi theo hớng thống nhất và hiện đại hoá, đăng ký đối với đất đai va các công trình xây
dựng và hợp lý hoá các thủ tục quyền sử dụng. Quy định các thủ tục rõ ràng,
đơn giản và hợp lý để giải quyết các tranh chấp và kiện tụng nhằm giải quyết
về quyền sử dụng và quyền sở hữu. Bắt buộc các DNVVN khi đăng ký phải
Đề án kinh tế chính trị
Ngô Anh Dũng
nộp đầy đủ thuế đất nh đã đăng ký tránh tình trạng một số doanh nghiệp trốn
thuế đất.
- Thủ tục xuất nhập khẩu : Xuất khẩu là một hoạt động kinh doanh mà
các DNVVN còn gặp nhiều hạn chế và khó khăn do đó, cơ quan quản lý Nhà
nớc phải có những hỗ trợ nhất định đặc biệt là các hợp đồng xuất khẩu các
mặt hàng thủ công mỹnghệ nông sản. Các mặt hàng xuất khẩu, phải đợc kiểm
tra chất lợng trớc khi xuất khẩu, đảm bảo thì mới đợc xuất khẩu. Đối với nhập
khẩu thì khuyến khích các DNVVN nhập khẩu công nghệ hiện đại nguyên
liệu phục vụ cho việc sản xuất các mặt hàng xuất khẩu với mức thuế nhập
khẩu phù hợp.
3. Hoàn thiện chính sách thơng mại và công nghiệp.
- Có chính sách u đãi hợp lý và công bằng đối với tất cả các DNVVN
thuộc mọi thành phần kinh tế để các DNVVN chủ động xây dựng quan hệ,
hợp tác bình đẳng với tất cả các đối tác làm ăn nên tất cả các nớc trên thế giới
xây dựng nền kinh tế mở với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, tiến tới hội nhập
hoàn toàn vào nền kinh tế thế giới đã và đang đợc Việt Nam áp dụng trong
những năm qua.
Đốivới các DNVVN phải có trợ cấp, đánh thuế với mức u đãi để các
DNVVN có thể nhập nguyên liệu với giá rẻ hơn, từ đó có thể làm ra các sản
phẩm với giá thành thấp để có thể cạnh tranh đợc với các Công ty lớn và các
Công ty nớc ngoài. Ngoài ra các DNVVN hoạt động trong các ngành công
nghiệp - tác nhân tạo ra sản phẩm cho xã hội nhng khả năng thu hồi vốn
chậm, lợi nhuận thấp phải đợc sự u đãi hợp lý về các vấn đề nh thuế đất, vay
vốn tín dụng.
- Trợ giá xuất khẩu cho các DNVVN để ổn định sản xuất kinh doanh
trong thời gian đầu tìm kiếm thâm nhập thị trờng mới đặc biệt là trợ giá xuất
khẩu đối với các mặt hàng truyền thống, nông sản để hàng của các DNVVN
của nớc ta có thể thâm nhập vào thị trờng thế giới, để tránh tình trạng hàng
của Việt Nam mất giá. Các DNVVN không yên tâm sản xuất và kinh doanh.
- Chính sách bảo hộ sản xuất trong nớc cần đảm bảo tính hợp lý tạo điều
kiện cho các DNVVN góp phần tích cực vào cuộc chiếm lĩnh thị trờng trong
nớc, thay thế các mặt hàng nhập khẩu, đồng thời phải tiến tới xuất khẩu ra thế
giới với khối lợng quy mô, chủng loại ngày càng tăng. Đặc biệt phải cạnh
tranh lành mạnh không để các doanh nghiệp Nhà nớc độc quyền bóp méo thị
trờng trong nớc nh hiện nay. Kiên quyết đẩy lùi tình trạng làm phải phù hợp
Đề án kinh tế chính trị
Ngô Anh Dũng
của tình hình phát triển kinh tế của đất nớc, phù hợp với xu thế hợp tác hoá và
quốc tế hoá.
- Chính phủ cần tích cực và hỗ trợ một phần kinh phí tài trợ trong việc
hình thành và phát triển các vờn ơm doanh nghiệp. Trớc hết là các vờm ơm
doanh nghiệp chung và tiến tới hình thành vờm ơm doanh nghiệp chuyên
ngành và kỹ thuật nhằm cung cấp cho các DNVVN cơ sở hạ tầng, dịch vụ khi
khởi sự và tăng cờng khả năng kinh doanh cho các DNVVN. Trớc hết phải
xây dựng thí điểm ở một vài thành phố lớn nh : TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, và
dần tiến hành mở rộng dàn trải nên phạm vi cả nớc.
- Khuyến khích các hình thức hợp tác trong lĩnh vực xuất khẩu giữa các
DNVVN trong nớc và với các DNVVN trong các nớc khu vực APEC, ASEAN
và các khu vực khác.
trên thế giới, hỗ trợ chi phí trong việc tham dự các hội chợ thơng mại ở
trong nớc do các tổ chức nớc ngoài tổ chức hoặc các công ty tổ chức ở nớc
ngoài để các DNVVN của Việt Nam có thể học tập đợc kinh nghiệm và quy
cách sản xuất một mặt hàng có chất lợng cao quy cách để lãnh đạo, tổ chức
kinh doanh có hiệu quả cao.
4. Hoàn thiện chính sách tài chính tín dụng :
Nhà nớc lập quỹ tín dụng quốc gia hỗ trợ DNVVN, sử dụng hệ thống
ngân hàng và tổ chức tài chính công cộng, để quản lý nguồn quỹ. Bên cạnh đó
khuyến khích t nhân hình thành các công ty tài chính hỗ trợ DNVVN với quy
chế u đãi. Xuất phát từ thực tế yếu kém, khó khăn của các doanh nghiệp vừa
và nhỏ ở nớc ta, trọng tâm là vấn đề : Việc thiếu vốn, sẽ hạn chế nghiêm trọng
sự phát triển của các DNVVN, vì vấn đề đầu t chỉ đợc thực hiện khi có sẵn
vốn chứ không phải do các cơ hội và lợi ích thị trờng. Nhiều doanh nghiệp bắt
buộc phải duy trì quy mô nhỏ bé do thiếu vốn mặt dù có cơ hội mở rộng.
Chính vì vậy, Nhà nớc cần có những biện pháp hỗ trợ để khắc phục có hiệu
quả.
- Bảo đảm các DNVVN khu vực t nhân đợc thực sự bình đẳng nh các
DNVVN trong vay vốn, ngân hàng, vay các tổ chức tài chính trung gian về tín
dụng trung hạn và dài hạn. Nhà nớc và Ngân hàng Trung ơng phải quy định rõ
ràng về việc vay thực hiện và bắt buộc cầm cố và thế chấp. Đối với các
DNVVN khó khăn ở khu vực nông thôn thì ngoài tiền vay có tài sản thế chấp,
ngân hàng phát triển nông thôn có thể cho các DNVN này vay với lãi suất u
đãi để các DNVVN này có thể mở rộng quy mô sản xuất và kinh doanh. Bãi
bỏ đối sử u đãi về vay nợ, xoá nợ giãn nợ đối với khoản nợ quá hạn, gia hạn
Đề án kinh tế chính trị
Ngô Anh Dũng
nợ đối với các khoản vay gặp rủi ro. Đặc biệt, cho vay với số lợng lớn đối với
các DNVVN hoạt động kinh doanh có hiệu quả kinh tế cao. Song song với
việc hình thành các tổ chức tài chính tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ, cần
thiết phải hình thành quỹ bảo hiểm tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ của Nhà
nớc hoặc t nhân để hạn chế sự rủi ro cho các tổ chức tài chính tín dụng.
- Mở rộng các hình thức tín dụng, cung cấp các khoản tín dụng trung, dài
hạn với lãi suất u đãi : Mở rộng khả năng tiếp cận của DNVVN với vốn có thể
theo hớng tạo ra một cơ cấu vốn mềm dẻo hơn, cho phép các DNVVN tiếp
cận với nguồn vốn tín dụng của nớc ngoài bằng cách cho phép các công ty bán
một số cổ phiêú của họ cho các nhà đầu t nớc ngoài, khuyến khích và cho
phép các DNVVN tham gia nhiều hơn vào các công ty liên doanh. Cần đa
dạng các hình thức tín dụng, đẩy mạnh tín dụng dựa vào kiểm soát cho phép
ngân hàng giữ cổ phiếu và dùng cổ phiếu để thế chấp hoặc bằng hàng hoá là
dây chuyển thiết bị mua bằng vốn vay, sau đó nợ có thể đợc chuyển thành cổ
phiếu khi tình hình tài chính khó khăn. Đặc biệt là hình thành các thị trờng
chứng khoán ở các vùng đô thị lớn, tiến tới thị trờng chứng khoán hoàn chỉnh
trên địa bàn cả nớc với nhiều đối tợng đợc tham gia trong đó có hệ thống các
DNVVN để các DNVVN có thể huy động vốn lu động một cách dễ dàng hơn,
kịp thời cho tái sản xuất mở rộng. Thực hiện thanh toán qua hệ thống ngân
hàng, qua đó huy động nguồn vốn nhàn dỗi rải rác của các doanh nghiệp vào
sản xuất. Mặt khác cần tiếp tục hoàn thiện luật khuyến khích đầu t trong nớc
cho phù hợp để khuyến khích các doanh nhân mạnh dạn bỏ thêm vốn vào sản
xuất kinh doanh.
- Chính phủ lập hệ thống bảo lãnh và bảo hiểm tín dụng cho các
DNVVN, trong đó chủ yếu là yếu là vốn ngân sách và đóng góp các tổ chức
trong và ngoài nớc. Việc giải quyết vấn đề thiếu vốn sản xuất kinh doanh là
khâu đột phá, tìm cái lợi, hạn chế bất lợi cho cả ngân hàng, và doanh nghiệp.
Doanh nghiệp đợc vay vốn, ngân hàng có thể phát huy đợc tiềm năng của
mình, hạn chế đợc rủi ro. Về thực chất đây là quỹ bảo hiểm đảm bảo cho các
DNVVN vay vốn không cần tài sản thế chấp, hạn chế đợc nhiều thủ tục phiền
hà khi vay vốn, đồng thời là nguồn quỹ chia sẻ rủi ro cho ngần hàng khi
DNVVN mất khả năng trả nợ. Đây là phơng thức cho vay chủ yếu dựa vào
tình hình sản xuất kinh doanh và tài chính của DNVVN, không lệ thuộc vào
hình thức giấy tờ, tài sản thế chấp.
Thiết chế bảo lãnh tín dụng là một trong những công cụ tài chính phải
phối hợp thực hiện việc tiếp cận tín dụng của những doanh nhân có uy tín
Đề án kinh tế chính trị
Ngô Anh Dũng
hoặc những dự án khả thi mà không đủ tài sản thế chấp. Quỹ bảo lãnh tín
dụng cần đợc thiết lập nh một ngần hàng bảo lãnh độc lập dới dới sự giám sát
của ngân hàng Nhà nớc. Việc hình thành quỹ bảo lãnh tín dụng phải bao gồm
nhiều nội dung : Mục tiêu, tổ chức hoạt động, phơng thức hoạt động. Quỹ bảo
lãnh tín dụng hoạt động không đợc dựa trên mục tiêu lợi nhuận mà phải là một
trung gian tài chính về mục tiêu hỗ trợ phát triển các DNVVN. Vì vậy Nhà nớc phải tạo điều kiện chung cho hoạt động của quỹ : Luật ngân hàng cần có
những điều khoản cho phép hoạt động của quỹ bảo lãnh tín dụng để hỗ trợ vốn
cho các DNVVN, các thủ tục hoạt động của quỹ đợc hợp pháp hoá.
Quỹ bảo lãnh tín dụng là nguồn vốn đợc hình thành để hỗ trợ phát triển
các DNVVN nhng đồng thời cũng phải tiến hành thu phí bảo lãnh và lệ phí
thẩm định dự án của các DNVVN để xung vào quỹ.
- Về hình thức tổ chức, quỹ phải hoạt động nh một công ty bao gồn hợp
đồng quản trị giám đốc, ban điều hành đặc biệt là phải thành lập uỷ ban bảo
lãnh quỹ ngân sách. Trong điều kiện của nớc ta quỹ phải hoạt động nh một
doanh nghiệp công ích thuộc sở hữu nhà nớc. Quỹ bảo lãnh tín dụng phải đợc
tổ chức có quy mô từ trung tơng có chi nhánh ở các vùng lãnh thổ.
- Đơn giản hoá thủ tục ngân hàng trong việc cho vay tín dụng, đặc biệt là
các khoản vay trung hạn và dài hạn. Giảm bớt chi phí giao dịch khi vay đảm
bảo nguồn vốn cho các doanh nghiệp. Do các DNVVN ở nớc ta còn gặp nhiều
khó khăn trong việc tiếp cận với thị trờng chứng khoán nên cần phải taọ điều
kiện thuận lợi cho các DNVVN vay vốn sản xuất kinh doanh, tái sản xuất mở
rộng.
Tóm lại, với hệ thống tổ chức tài chính, tín dụng, ngân hàng hỗ trợ các
doanh nghiệp vừa và nhỏ kết hợp với chính sách tài chính, tín dụng phù hợp
chắc chắn các DNVVN sẽ có cơ hội tạo vốn để phát triển ngày càng mạnh.
5. Hoàn thiện chính sách thuế
Tránh sự trùng lặp về thuế, các văn bản về thuế cần phải rõ ràng, nhất
quán và ổn định vì thuế là một trong những chính sách quan trọng tác động
đến hoạt động của các DNVVN ở nớc ta. Với hệ thống thuế có nhiều mức nh
ở nớc ta hiện nay thì cần phải phân loại các định mức thuế chung của các
doanh nghiệp.
Cơ quan quản lý thuế phải có định kỳ hoặc đột xuất kiểm tra hoá đơn, sổ
sách kế toán để xác minh mức thuế cho đúng luật, nhng 1 năm không quá 2
lần ở một doanh nghiệp. Việc thu thuế đối với các doanh nghiệp hoạt động
theo các luật định có thể thực hiện trực tiếp bằng cách chủ doanh nghiệp nộp
Đề án kinh tế chính trị
Ngô Anh Dũng
cho kho bạc địa phơng. Trên cơ sở có sự xác nhận của cơ quan huế về mức
thuế phải nộp, để giảm bớt lực lợng cán bộ thuế. Đối với các doanh nghiệp
hoạt động theo nghị định 66/HĐBT phải nộp trực tiếp cho cơ quan thuế trên
cơ sở có hoá đơn hợp lệ. Chính sách thuế hiện hành (cha thật sự khuyến khích
doanh nghiệp đầu t vốn mở rộng sản xuất thu hút nhiều lao động, vấn đề
không chỉ là hiện tợng Thuế chống thuế, thuế suất cao. Để khắc phục tình
trạng thuế chống thuế khi có đủ điều kiện cần phải thay thế thuế doanh thu
bằng thuế giá trị gia tăng thêm (VAT).
+ áp dụng thuế khoán hàng năm cho các doanh nghiệp cha đủ điều kiện
lập xí nghiệp, Công ty (cơ sở sản xuất kinh doanh theo nghị định
66/HĐBT) kết hợp với kinh nghiệm quản quản lý của cơ quan thuế để xác
định mức thuế. Doanh thu có thể tính theo từng tháng hoặc từng quý tuỳ theo
hình thức sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
- Những u đãi về thuế phải nhằm vào các tiêu thức nh : Theo quy mô
doanh nghiệp, theo ngành nghề, theo vùng, theo quá trình tổ chức kinh doanh,
theo sự tác động tới việc giải quyết các vấn đề, kinh tế xã hội (sử dụng nhiều
lao động)
+ Giảm mức thuế doanh thu đối với một số mặt hàng : Tiêu dùng đợc sản
xuất trong nớc tăng thuế nhập khẩu đối với mặt hàng cùng loại. Đó cũng là
biện pháp tốt để bảo hộ hàng trong nớc đối với DNVVN và chống tình trạng
buôn lậu.
+ Tinh giảm thu nhập : Một số loại thu nhập nhất định sẽ không bị tính
vào diện doanh thu, chịu thuế , ví dụ : Thu nhập từ việc chuyển giao công
nghệ.
+ Thuế vốn : Các DNVVN nếu tái đầu t mở rộng bằng nguồn vốn lợi tức,
hoặc đầu t hàng năm sẽ đợc giảm trừ khối lợng chịu thuế sẽ khuyến khích các
doanh nghiệp vừa và nhỏ mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh.
+ Giảm mức thuế lợi tức từ 30% - 50% nh hiện nay xuống 20 25%
cho các doanh nghiệp quy mô vừa, đặc biệt đối với các doanh nghiệp vừa ở
khu vực nông thôn.
- Miễn thuế doanh thu cho những doanh nghiệp nhỏ mới hoạt động năm
đầu và miễn giảm thuế doanh thu một số năm cho các doanh nghiệp nhỏ ở
những vùng kinh tế kém phát triển.
+ Giảm thuế cho các doanh nghiệp vừa có nguồn vốn kinh doanh lớn nhng lại sử dụng nhiều lao động.
Đề án kinh tế chính trị
Ngô Anh Dũng
+ áp dụng mức thuế nhập khẩu từ 0 1% đối với máy móc thiết bị, vật
t, phụ tùng trong nớc cha sản xuất đợc nhằm đa công nghệ hiện đại vào trong
nớc phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nớc.
+ Giảm thuế xuất khẩu đối với các mặt hàng sử dụng ít vốn nhng nhiều
lao động nh : Các mặt hàng thủ công mỹ nghệ tạo xu hớng hợp tác hoá cho
các DNVVN của nớc ta với các nớc khác trên thế giới.
+ Bồi dỡng nâng cao trình độ và sàng lọc đội ngũ cán bộ trong ngành
thuế, chống các hiện tợng tiêu cực, thất thoát thuế.
+ Sự u đãi về thuế hoàn toàn không đợc xác định theo thành phần kinh tế
và theo nguồn gốc đầu t nhằm hỗ trợ cho các DNVVN.
- Có chính sách u đãi về thuế thu nhập (có thuế miễn thuế) cho các ngân
hàng, các tổ chức tín dụng khi cho các DNVVN vay vốn sản xuất kinh doanh.
Khi các ngân hàng không phải chịu thuế thu nhập thì các ngân hàng sẽ cho
các DNVVN vay nhiều hơn khi có thuế nó thúc đẩy đợc sự hình thành và phát
triển của tín dụng ngân hàng ngày càng cao.
Cho phép lập quỹ dự phòng rủi ro trích từ lợi nhuận thu đợc do đợc u đãi
về thuế mang lại, nhằm bù đắp một phần rủi ro cho ngân hàng khi các doanh
nghiệp không có khả năng thanh toán.
6. Hoàn thiện chính sách công nghệ đào tạo
+ Chính phủ phải khuyến khích các DNVVN đổi mới công nghệ
Khuyến khích các hợp đồng thuê mua hoặc bán trả góp, tạo điều kiện
cho các DNVVN có đợc máy móc, thiết bị mới đợc cải tiến, nâng cao máy
móc, thiết bị. Nhiều doanh nghiệp không có khả năng mua máy móc. Đồng
thời, một số DNVVN khó có các khoản vay tín dụng từ ngân hàng. Hình thức
thuê mua là một giải pháp cho vấn đè này khi một doanh nghiệp không đủ
điều kiện để mua máy móc, thiết bị mới hoặc tốt hơn dùng cho hoạt động kinh
doanh của họ mà không phải thanh toán toàn bộ ngay từ khi mua hàng, thay
vào đó họ phải trả số tiền thuê máy móc nhỏ hơn nhiều.
Hiện nay vẫn tồn tại những trở ngại căn bản các DNVVN tiếp cận với
công nghệ mới. Những biện pháp dới đây có thể sẽ loại bỏ những trở ngại này
và thúc đẩy cách tiếp cận tới công nghệ của các DNVVN Việt Nam.
- Cải thiện điều kiện cho các nhà đầu t trong nớc gia nhập thị trờng theo
định hớng càng đơn giản càng tốt.
- Các thủ tục đăng ký kinh doanh hiệu quả và hợp lý nh đã kiến nghị ở
trên cho phép có nhiều doanh nghiệp hơn gia nhập thị trờng. Điều này sẽ tăng
Đề án kinh tế chính trị
Ngô Anh Dũng
sự cạnh tranh và đây là khả năng lớn nhất thúc đẩy mạnh mẽ phát triển công
nghệ mới ở tất cả các doanh nghiệp ở Việt Nam.
- Tạo điều kiện các DNVVN có khả năng đầu t cải tiến liên tục công
nghệ
- Thành lập các trung tâm hỗ trợ chuyển giao công nghệ Nhà nớc hoặc t
nhân ở các vùng, các trung tâm này có nhiệm vụ cung cấp thông tin về kỹ
thuật, công nghệ, thực hiện các dịch vụ, t vấn và chuyển giao công nghệ cho
DNVVN, kiểm định chất lợng, giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận đợc
với kỹ thuật, công nghệ hiện đại.
- Các trung tâm này cần phối hợp với các trung tâm nghiên cứu ứng dụng
của vùng hoặc trung ơng, các doanh nghiệp nghiên cứu cải tiến đổi mới thiết
bị máy móc hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Nhà nớc cần hỗ trợ cung cấp một phần vốn cho hoạt động đổi mới thiết
bị, kỹ thuật, công nghệ của hệ thống trung tâm này, không phân biệt đó là
trung tâm do Nhà nớc hay là trung tâm của t nhân thành lập mà phải căn cứ
vào lĩnh vực trung tâm hoạt động có thuộc những ngành nghề mà Nhà nớc u
đãi phát triển hay không.
- Nhà nớc cần tăng thời hạn đợc xét miễn, giảm thuế đến mức có thể cho
các dự án đổi mới công nghệ.
+ Đối với hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực cho các DNVVN, cần liên kết
các Viện kinh tế trờng đại học trong và ngoài nớc nhằm đào tạo những nhà
quản lý giỏi và công nhân có trình độ tay nghề cao.
Chính phủ cần tích cực đầu t thêm, mở rộng các trung tâm đào tạo đội
ngũ quản lý và ngời lao động. Hệ thống này bao gồm các trung tâm dạy nghề
và giới thiệu việc làm cho ngời lao động. Các trung tâm đào tạo bồi dỡng chủ
doanh nghiệp, các trung tâm này tổ chức độc lập ở trung tơng và các vùng và
cũng có thể xen ghép vào hệ thống các trờng dạy nghề, các trờng đại học hoặc
các trung tâm do t nhân tổ chức hoặc cũng có thể do các doanh nghiệp tổ
chức.
Phơng pháp hình thức tổ chức đào tạo phải rất phong phí, đa dạng, và
linh hoạt nhằm đáp ứng tốt nhu cầu lao động của doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Nhà nớc phải thống nhất quản lý về chất lợng đào tạo, để không ngừng nâng
cao chất lợng lực lợng lao động.
Nhà nớc nên lập quỹ quốc gia về đào tạo và việc làm nhiều hơn nữa để
hỗ trợ cho các trung tâm do nhà nớc tổ chức và hỗ trợ các trung tâm đào tạo t
nhân, kinh nghiệm của các nớc cho thấy chúng ta nên hình thành các trung
Đề án kinh tế chính trị
Ngô Anh Dũng
tâm này ở từng vùng và từng địa phơng, do các địa phơng trực tiếp quản lý và
có sự giúp đỡ của các ngành chức năng.
Về lâu dài cần phải cải tổ lại hệ thống giáo dục sẵn có nhằm mục đích
đào tạo các chủ doanh nghiệp, các nhà quản lý, lực lợng lao động, đáp ứng đợc nhu cầu của các doanh nghiệp trong quá trình tham gia vào thị trờng thế
giới của các DNVVN.
7. Hoàn thiện chính sách thị trờng
Mọi nỗ lực hỗ trợ nêu trên hoặc hỗ trợ nào khác cũng sẽ không phát huy
tác dụng nếu cuối cùng các DNVVN không có thị trờng tiêu thụ sản phẩm do
mình làm ra vững chắc. Vì thế, song song với cuộc vận động ngời Việt Nam
dùng hàng Việt Nam nhà nớc với t cách là ngời tiêu dùng cần khuyến khích
các cơ quan, doanh nghiệp Nhà nớc, phải u tiên tiêu dùng hàng Việt Nam. Bên
cạnh đó cần triển khai mạnh mẽ các biện pháp sau :
- Trớc hét, Nhà nớc cần tích cực hỗ trợ bằng biện pháp ngoại giao, thông
qua các cơ quan xúc tiến thơng mại với các nớc nhằm mở cửa thị trờng hơn
nữa cho hàng hoá của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các DNVVN
nói riêng để có thể thâm nhập vào thị trờng các nớc khác nhau trên thế giới.
Thực hiện giải pháp để chống độc quyền chống buôn lậu, hàng trốn thuế.
Nhằm đảm bảo thị trờng tiêu thụ sản phẩm điều hoà cung cầu và giá cả của
những hàng hoá, sản phẩm quan trọng của doanh nghiệp vừa và nhỏ trên 1 số
ngành hàng thiết yếu. Phổ biến rộng rãi cho các DNVVN về Nghị định 57/CP
ngày 31/7/1998. Đó là một bớc tiến quan trọng của chính phủ mở ra thị trờng
xuất nhập khẩu quốc tế cho tất cả các doanh nghiệp bao gồm cả DNVVN
trong phạm vi giấy phép thành lập kinh doanh, mà không cần sự cho phép đặc
biệt nào khác từ Bộ thơng mại.
Các cơ quan quản lý kinh tế cần cung cấp thông tin mẫu phí cho các
DNVV về khách hàng, đối tác làm ăn, về chất lợng, số lợng mà sản phẩm cần
xuất nhập khẩu, đặc biệt là sự biến động của giá cả mặt hàng mà các DNVVN
xuất khẩu.
- Thứ hai, Nhà nớc tạo điều kiện thuận lợi cho các DNVVN tham gia vào
các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng đầu t bằng nguồn vốn ngân sách. Việc tạo
điều kiện cho các DNVVN tham gia đấu thầu xây dựng các công trình công
cộng cùng không nằm ngoài chủ trơng bình đẳng giữa các thành phần kinh tế
tạo ra công ăn và thu nhập cho ngời lao động. Một số DNVVN nếu có khả
năng và nguồn vốn có thể tham gia đấu thầu các công trình ở tầm quốc gia,
các công trình có quy mô vốn lớn. Hơn nữa từ đây sẽ là cơ sở để các DNVVN
Đề án kinh tế chính trị
Ngô Anh Dũng
có thể hợp tác chặt chẽ với các doanh nghiệp lớn thông qua các hợp đồng cung
ứng nguyên vật liệu, kém thành phẩm, gia công.
- Thứ ba, tăng cờng mối quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp lớn với các
DNVVN vừa có tác dụng bảo đảm thị trờng, tạo công ăn việc làm, vừa tạo
điều kiện thuận lợi để chuyển giao công nghệ kỹ năng quản lý từ doanh
nghiệp lớn sang doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tăng cờng mối quan hệ ở đây phải
thông qua nhiều nội dung, thông qua nhiều hình thức liên kết dựa trên nguyên
tắc đôi bên cùng có lợi, không làm ảnh hởng xâm hại đến lợi ích của ai. Thông
qua việc hợp tác này thì các DNVVN có thể học tập đợc nhiều kinh nghiệm từ
mô hình kinh doanh, cơ chế quản lý, phơng thức tổ chức sản xuất của các
doanh nghiệp lớn, điều mà các DNVVN còn gặp nhiều hạn chế và khó khăn.
Thứ t về lâu dài, một chiến lợc phát triển tổng thể đối với các DNVVN có
sự phối hợp triển khai đồng bộ giữa các bộ, các ngành là trọng yếu trong quá
trình cải cách mà Việt Nam cần tập trung để tạo một nền tảng cho sự phát
triển bền vững đối với các DNVVN. Điều quan trọng ở đây là ngoài những nỗ
lực của chính phủ ra thì các DNVVN cũng cần phải có những giải pháp tích
cực và chủ động sáng tạo trong quá trình sản xuất kinh doanh và tìm kiếm thị
trờng của mình. Tất nhiên, đổi mới cơ chế quản lý và thiết lập hệ thống các
biện pháp, giải pháp hỗ trợ không phải là giải pháp thực hiện một sớm một
chiều, mà cần cân nhắc và thực hiện dần dần tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể của
nền kinh tế ở từng thời kỳ nhất định nh một số nớc ASEAN đã làm trớc đây.
Nói tóm lại, khi Việt Nam đã đạt đợc một số thành tựu đáng kể trong chính
sách cải cách kinh tế, chúng ta cần có một số biện pháp tốt hơn toàn diện hơn,
hiệu quả hơn, cả trớc mắt và lâu dài đối với các loại hình DNVVN. Hoàn thiện
cơ chế quản lý và thiết lập các biện pháp hỗ trợ DNVVN là cần thiết và đã đợc
thực hiện ở nhiều khác khác nhau. Vì vậy cần có những cơ sở pháp lý riêng
cho các DNVVN và những chính sách phù hợp liên quan đến môi trờng đầu t,
chính sách kinh thơng, cải tạo cơ sở hạ tầng.đáp ứng đòi hỏi của môi trờng
kinh doanh thay đổi nhanh chóng hiện nay theo mô hình AFTA và WTO, tiếp
tục con đờng cải cách và hoàn thiện các chính sách kinh tế vĩ mô nhằm thúc
đẩy sự phát triển bền vững và mạnh mẽ của hệ thống DNVVN của nớc ta hiện
nay.