Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (250.76 KB, 34 trang )
bình hàng năm của các nước, các vùng lãnh thổ trong khu vực là: 9,6% (Hàn
Quốc), 8,3% (Hồng Kông), 7,9% (Malaixia), 7,2% (Inđônêxia), 7,1% (Thái Lan)
và 6% (Philippin). Nhưng từ 1980 đến 1991, tốc độ tăng GNP hàng năm đã có sự
thay đổi như sau: 9,6% ở Hàn Quốc, 9,4% ở Trung Quốc, 6,9% ở Hồng Kông,
6,6% ở Singgapo, 5,7% ở Malaixia, 5,6% ở Inđơnêxia, ở Philippin chỉ là
1,1%(7). Tính từ 1985 đến 1996, tốc độ tăng trưởng GNP hàng năm của Việt
Nam là trên 8,5%, từ năm 2001- 2005, tốc độ đó đạt mức trên dưới 8%. Như vậy,
nếu so sánh với các nước, các vùng lãnh thổ trong khu vực, tốc độ tăng trưởng
kinh tế của Việt Nam được xếp vào hàng cao nhất trong những năm gần đây.
Tuy nhiên, ngay từ năm 1994, nhiều nhà kinh tế cũng như lãnh đạo của
Việt Nam đã nói đến nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế. Cho đến nay, trải qua
hơn 10 năm tiếp tục đổi mới, nguy cơ đó vẫn tồn tại và hết sức lớn. Để tránh
nguy cơ đó, trong những năm gần đây, Việt Nam chủ trương đẩy mạnh cơng
nghiệp hố và hiện đại hóa, tiến hành cơng nghiệp hố, hiện đại hố rút ngắn
theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong môi trường hội nhập và cạnh tranh quốc
tế. Đây là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn để khắc phục nguy cơ tụt hậu. Tuy
nhiên, chủ trương đó được thực hiện trong điều kiện năng lực cạnh tranh của nền
kinh tế tuy có tiến bộ, nhưng vẫn còn thấp xa so với yêu cầu phát triển và hội
nhập kinh tế quốc tế; tích luỹ từ nền kinh tế để cơng nghiệp hố, hiện đại hố còn
thấp; kết cấu hạ tầng lạc hậu, chất lượng nguồn nhân lực còn thấp, v.v..
Do vậy, những khó khăn của việc thực hiện q trình cơng nghiệp hóa và hiện
đại hóa là khơng nhỏ. Xét về mặt cơ cấu của nền kinh tế, Việt Nam vẫn là nước
nông nghiệp. Sản xuất nơng nghiệp còn chiếm tỷ trọng lớn. Sự chuyển dịch lao
động từ nông nghiệp và nông thôn sang các ngành nghề khác còn rất khó khăn.
Tỷ trọng lĩnh vực dịch vụ có phần chững lại. Tỷ lệ lao động được đào tạo và lao
Tiểu luận môn Đường Lối Cách Mạng Đảng Cộng Sản Việt Nam
Trang 3
động có trình độ cao còn rất thấp. Sự lãng phí trong đầu tư còn q lớn. Thêm
vào đó, nền cơng nghiệp lại phân bố không đều, tập trung chủ yếu ở 2 đầu của
đất nước. Người lao động có trình độ cao chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn.
Do đó, sự phát triển cơng nghiệp ở các vùng sâu, vùng xa đã khó khăn lại càng
khó khăn hơn.
Bên cạnh đó, những tiềm năng của các thành phần kinh tế chưa được phát
huy hết. Kinh tế nhà nước chưa làm tốt được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế
quốc dân. Kinh tế tập thể chậm phát triển. Kinh tế tư nhân chưa phát triển đúng
với tiềm năng của nó nhằm tạo động lực cho toàn bộ nền kinh tế, v.v..
Những thách thức về kinh tế sẽ tăng lên gấp bội, nếu như trong vài năm
tới, nước ta hội nhập hoàn toàn vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Do đó, nguy
cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế là nguy cơ thực tế. Bản thân nguy cơ này có bị loại
trừ hay khơng, điều đó phụ thuộc vào sự thành công của công cuộc đổi mới và sự
chuẩn bị các nguồn lực cho quá trình hội nhập tiếp theo của nền kinh tế.
Cùng với thách thức về kinh tế, tồn cầu hóa đang đặt ra cho nước ta
những thách thức lớn về mặt xã hội.
Tiểu luận môn Đường Lối Cách Mạng Đảng Cộng Sản Việt Nam
Trang 4
B. NỘI DUNG
I. Vấn đề tồn cầu hóa
1. Khái niệm tồn cầu hóa
Tồn cầu hóa là một q trình biến các vùng miền, các cộng đồng người
khác nhau từ trạng thái biệt lập, tách rời nhau thành một trạng thái khác về chất,
bằng sự liên kết gắn bó thành một thể thống nhất hữu cơ trên quy mơ tồn cầu.
Khi đó, một sự kiện, một hiện tượng, một vấn đề xảy ra ở vùng miền này, ở cộng
đồng người này sẽ có ảnh hưởng, tác động tới các vùng miền, các cộng đồng
người khác trên quy mơ tồn thế giới
2. Những biểu hiện của vấn đề tồn cầu hóa
a. Biểu hiện tích cực
Một là, tồn cầu hố kinh tế thúc đẩy tự do hố mậu dịch phát triển. Nhìn
lại tình hình buôn bán của các nước trên thế giới hiện nay, hầu như khơng còn
tồn tại tình trạng thị trường đơn nhất ngay cả ở cường quốc kinh tế phát triển.
Giờ đây, hầu như thị trường nội địa của các nước đều gắn với thị trường thế giới,
là bộ phận của thị trường thế giới. Sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước cũng
như ngành ngoại thương đóng vai trò rất lớn đối với tăng trưởng tổng sản lượng
quốc nội (GDP). Năm 2004, mức độ phụ thuộc của GDP Mỹ vào ngành ngoại
thương tới 25,9%, năm 2005, mức độ phụ thuộc của GDP Trung Quốc với ngành
ngoại thương và buôn bán đối ngoại tới 61%. Do tính phụ thuộc vào ngành ngoại
thương ngày càng cao, nên mức độ tự do hoá mậu dịch của các nước trong khu
vực Đông Nam Á cao hơn của các nước ở Mỹ Latinh. Bởi vì, tới nay sự phát
triển kinh tế của các nước Mỹ Latinh chủ yếu dựa vào nội thu, trong khi nhân tố
nhu cầu nước ngoài thấp hơn nhiều so với các nước Đông Á.
Tiểu luận môn Đường Lối Cách Mạng Đảng Cộng Sản Việt Nam
Trang 5
Hai là, tồn cầu hố kinh tế đã đẩy mạnh tiến trình quốc tế hố lưu chuyển
vốn, có lợi cho tự do hố đầu tư. Từ năm 2001 tới 2003, mặc dù đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI) giảm sút rất lớn, nhưng bắt đầu từ năm 2004 đã có dấu hiệu
tăng trưởng trở lại. Theo “Báo cáo đầu tư năm 2005” do Hội nghị phát triển mậu
dịch Liên hợp quốc công bố, tổng số FDI trên toàn thế giới đã lên tới 648 tỷ
USD, tăng 2% so với năm 2003. Điều này cho thấy xu thế đầu tư quốc tế giảm
sút từ năm 2001 tới 2003 đã được ngăn chặn và bắt đầu gia tăng trở lại trên thế
giới. Năm 2004, các nước Phương Tây đã tiếp nhận FDI trị giá khoảng 380 tỷ
USD, giảm 14% so với năm 2003. Trong khi đó, FDI ở các nước đang phát triển
tăng 40%, với tổng giá trị 233 tỷ USD. Rõ ràng nếu khơng có tồn cầu hố kinh
tế thì khơng thể quốc tế hố vốn và di chuyển dễ dàng từ nước này qua nước
khác. Toàn cầu hoá kinh tế chẳng những thúc đẩy FDI tăng lên mà ở mức độ lớn
đã thúc đầy tự do hố đầu tư. Mấy năm qua, do mơi trường đầu tư được cải thiện,
xu thế lưu thông tự do đầu tư đã tăng lên rõ rệt. “Báo cáo của Hội nghị mậu dịch
Liên Hợp quốc” năm 2004 cho biết hai nước có FDI đổ vào nhiều nhất là Mỹ và
Anh, trong đó Mỹ tiếp nhận tới 96 tỷ USD và nước Anh tới 78 tỷ USD. Mặc dù
các nước đang phát triển đã ra sức mở cửa thị trường vốn của mình và đưa ra
nhiều chính sách ưu đãi đối với đầu tư nước ngoài, nhưng do cơ chế và thị
trường còn nhiều khâu yếu kém, nên trình độ tự do hoá tiền vốn của các nước
đang phát triển kém hơn nhiều so với các nước phát triển. Đây chính là vấn đề
mà các nước đang phát triển cần nghiên cứu và hoàn thiện để tận dụng được cơ
hội tốt của tồn cầu hố.
Ba là, tồn cầu hố kinh tế đã “bật đèn xanh” cho tự do hoá lưu chuyển
tiền tệ. Trong điều kiện ngày nay, mọi tổ chức ngân hàng, tài chính, tiền tệ và thị
trường chứng khốn của các nước đều phải phát triển theo xu thế toàn cầu hố.
Tiểu luận mơn Đường Lối Cách Mạng Đảng Cộng Sản Việt Nam
Trang 6