Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (250.76 KB, 34 trang )
ngoại trừ dịch vụ) cũng phản ánh mức độ toàn cầu hóa sâu rộng. Tương tự như
vậy, tỷ lệ tổng kim ngạch thương mại trên tổng GDP vào những năm 1970 cũng
vượt xa cột mốc đỉnh cao của chính nó vào năm 1913, trong làn sóng tồn cầu
hóa lần thứ nhất.
Đây là một kết quả từ tiến trình tự do hóa thương mại hàng hóa. Và mặc
dù tốc độ phát triển có dấu hiệu chậm lại trong những năm gần đây, do các biến
cố bùng nổ theo chu kỳ (những cuộc Đại Suy thối) và các tác động mang tính
cấu trúc (sự phân mảnh của chuỗi cung ứng toàn cầu), các dòng chảy thương mại
ngày nay vẫn ln duy trì ở mức cao. Ngược lại, một điểm nghẽn to lớn vẫn tiếp
tục tồn tại trong lĩnh vực dịch vụ: mặc dù tỷ lệ các ngành dịch vụ trên tổng giá trị
xuất khẩu tăng từ 9% vào năm 1970 lên thành 25% vào năm 2018, các rào cản
quy định vẫn còn rất khắt khe đối với rất nhiều lĩnh vực (chẳng hạn như các dịch
vụ tài chính và viễn thơng).
Nhiều nhà kinh tế học ủng hộ việc thiết lập thêm nhiều hiệp định thương
mại tự do đầy tham vọng, nhằm đẩy mạnh thương mại dịch vụ. Điều này hồn
tồn có thể trở thành hiện thực trong một thời đại mà những thay đổi cơng nghệ
có thể giúp đơn giản hóa các hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu dịch vụ. Lĩnh
vực tài chính cũng đã đạt đến trình độ hội nhập rất cao, mặc dù cuộc khủng
hoảng tài chính từng gây ra một số trì trệ, khiến các dòng chảy vốn ngân hàng
xuyên biên giới bị kiểm soát gắt gao hơn.
Vấn đề tồn cầu hóa dòng chảy con người cũng ngày càng quan trọng và
đang nhận được sự quan tâm nhất định trong các cuộc tranh luận của công
chúng, bởi ảnh hưởng kinh tế của nó và bởi những tai tiếng từ cuộc khủng hoảng
di cư tị nạn (từ năm 2000 đến 2017, đã có khoảng 33,000 người di cư mất mạng
trên biển Địa Trung Hải khi đang hướng về châu Âu, theo số liệu của Liên Hiệp
Tiểu luận môn Đường Lối Cách Mạng Đảng Cộng Sản Việt Nam
Trang 9
Quốc). Mặc dù tỷ lệ người di cư trên tổng dân số vẫn duy trì ở mức ổn định,
khoảng 3% trong suốt 100 năm qua, con số thực tế đã tăng lên 244 triệu người,
trong đó 19% đang sinh sống tại Hoa Kỳ và 23% tại Liên minh châu Âu. Đa
phần các dòng chảy di cư là từ các nước đang phát triển sang các nước đã phát
triển, và 40% trong số họ di cư dưới hình thức tham gia chương trình đại học. Xu
hướng này ngày càng tăng lên trong bối cảnh bùng nổ cạnh tranh thu hút nhân tài
trên toàn cầu, dẫn đến tình trạng chảy máu chất xám tại các nền kinh tế đang
phát triển.
Sau khi miêu tả vắntắt những yếu tố khác nhau tạo nên q trình tồn cầu
hóa, chúng ta phải phân tích những thách thức đang gặp phải. Thách thức đầu
tiên chính là việc củng cố các thể chế toàn cầu quan trọng (như Qũy Tiền tệ
Quốc tế - IMF, Ngân hàng Thanh toán Quốc tế - BIS, và Tổ chức Thương mại
Thế giới - WTO). Các tổ chức này được thành lập sau Chiến tranh Thế giới Thứ
hai và hỗ trợ làn sóng tồn cầu hóa hiện nay.
Ví dụ như IMF, cơ quan này nên hiện đại hóa hệ thống quản trị doanh
nghiệp của mình, để tạo sức ảnh hưởng cao hơn lên các nền kinh tế mới nổi,
những nơi đã phát triển mạnh mẽ nhờ vào tiến trình tồn cầu hóa. Rất khó để
biện hộ cho việc một số nước trong OECD nắm 64% quyền biểu quyết ra quyết
định, trong khi họ chỉ chiếm 46% tổng GDP toàn cầu, hay như quyền biểu quyết
của Trung Quốc chỉ chiếm 6% trong khi nước này hiện nắm giữ đến 19% nền
kinh tế tồn cầu. Còn đối với BIS, việc các dòng chảy tài chính tồn cầu ngày
càng gắn kết chặt chẽ với nhau hơn cho thấy cơ quan này và các thể chế tài chính
khác nên giữ một vai trò chủ động hơn, nhằm thúc đẩy hợp tác trong chính sách
tiền tệ và tài chính vĩ mơ. Cuối cùng, WTO nên đóng một vai trò quan trọng hơn
Tiểu luận môn Đường Lối Cách Mạng Đảng Cộng Sản Việt Nam
Trang 10
trong việc giúp Trung Quốc hội nhập một cách hài hòa vào nền thương mại tồn
cầu.
Thách thức thứ hai là vấn đề phân bổ tốt hơn những lợi ích tổng thể. Điều
quan trọng là phải nhấn mạnh được những tác động tích cực của q trình tồn
cầu hóa trong những thập kỉ gần đây: ở các nước đang phát triển, quá trình này
giúp cho hàng triệu người dân thốt khỏi cảnh nghèo đói, còn ở các nền kinh tế
tiến bộ, nó tạo ra những giá trị quan trọng cho sự thịnh vượng của người dân,
chẳng hạn như việc họ có thể lựa chọn nhiều mặt hàng tiêu dùng đa dạng, với
mức giá phải chăng.
Tuy nhiên, công bằng mà nói, mặc cho những lợi ích này, tồn cầu hóa
cũng gây ra tác động xấu lên một vài lĩnh vực nhất định: theo thống kê của hai
nhà kinh tế học tại Đại học MIT, Acemoglu và Autor, 10% số công việc sản xuất
bị mất đi ở Hoa Kỳ từ năm 1999 đến 2011 (khoảng 560,000 công việc) do đối
mặt với sự cạnh tranh thương mại gắt gao của Trung Quốc. Trong bất kì trường
hợp nào, chúng ta cũng cần tự hỏi tại sao những cuộc tranh luận xoay quanh một
mơ hình tồn cầu hóa bao trùm hơn, với mục đích bồi thường kẻ thua và ngăn họ
khơng bị loại bỏ khỏi một nền kinh tế mới, ngày càng sôi nổi hơn bao giờ hết.
Câu trả lời chính là, khi mức độ tiếp cận tồn cầu hóa của một nền kinh tế
còn giới hạn, thì lợi ích của việc hội nhập sâu rộng sẽ cao hơn, vì tổng thu nhập
thực sự của nền kinh tế sẽ có dấu hiệu tăng lên rõ ràng. Tuy nhiên, khi mà nền
kinh tế đã đạt đến một trình độ tồn cầu hóa nhất định, sẽ khơng còn nhiều
khoảng trống để tăng kích thước của chiếc bánh lợi ích, trong khi đó, mất mát
gây ra từ các lĩnh vực bị ảnh hưởng tiêu cực lại tăng lên. Đây là lý do tại sao,
việc xúc tiến các biện pháp như chính sách lao động chủ động hay chính sách
Tiểu luận mơn Đường Lối Cách Mạng Đảng Cộng Sản Việt Nam
Trang 11
bảo đảm thu nhập trong giai đoạn thất nghiệp của những người bị ảnh hưởng bất
lợi bởi quá trình thay đổi lại trở nên ngày một quan trọng.
Cuối cùng, thách thức thứ ba của quá trình tồn cầu hóa đó là phải áp dụng
các cơ chế nào để cho q trình thay đổi cơng nghệ mà chúng ta đang chứng kiến
có thể diễn ra thành cơng và tồn diện. Nói rõ hơn, cuộc cách mạng kỹ thuật số
buộc chúng ta phải tính tồn lại q trình tồn cầu hóa hiện tại, và cuộc cách
mạng này cũng dẫn đến những tác động khác nhau lên các hướng khác nhau.
Một mặt, sự gia tăng trong việc sử dụng robot khiến cho tỷ lệ cơng việc
th ngồi giảm xuống đáng kể (theo như Deloitte, chí phí cho một robot dự tính
sẽ bằng 10% chi phí trả cho một cơng nhân làm việc sản xuất trong nước và bằng
35% chí phí trả cho một cơng nhân làm việc tại các cơ sở sản xuất ở nước ngoài).
Mặt khác, việc mở rộng quy mơ sản xuất ở cấp độ tồn cầu dẫn đến sự nổi
lên của các tập đoàn đa quốc gia khổng lồ, điều này có tiềm năng gây bất lợi cho
hoạt động cạnh tranh và đổi mới. Nếu như tiến trình tồn cầu hóa và các thể chế
đại diện cho nó khơng kịp thời giải quyết những thách thức này, những tư tưởng
chính trị chủ nghĩa dân túy theo đường lối đảo ngược tồn cầu hóa có thể sẽ
thắng thế.
Nhiều bài nghiên cứu cho thấy các chính trị gia dân túy đã bắt đầu thu
được những lợi ích đầu tiên: ở cả Hoa Kỳ và EU, tại những vùng bị ảnh hưởng
nhiều nhất bởi hàng nhập khẩu từ Trung Quốc, sự ủng hộ của người dân dành
cho những đảng phái theo chủ nghĩa dân túy cũng tăng cao - nhiều đến mức một
vài nhà khoa học chính trị thậm chí khẳng định rằng các cuộc tranh luận chính
trị, thơng thường sẽ tập trung vào sự khác biệt về tư tưởng giữa cánh tả và cánh
hữu, sẽ chuyển thành một cuộc đấu tranh mãnh liệt giữa các nhà toàn cầu hóa và
những người theo chủ nghĩa dân túy.
Tiểu luận mơn Đường Lối Cách Mạng Đảng Cộng Sản Việt Nam
Trang 12
Trước khi đi vào phần kết luận, chúng ta sẽ phân tích ngun nhân khiến
cho làn sóng tồn cầu hóa lần thứ nhất bị lệch hướng, để xem liệu chúng ta có
đúc kết được bài học nào từ việc này. Dấu hiệu khủng hoảng bắt đầu nhen nhóm
từ cuối thế kỷ thứ 19, thời điểm mà các quan chức chính phủ bắt đầu bị chi phối
trước áp lực đòi gia tăng thuế quan, gây ra bởi một số nhóm ngành nghề nhất
định (chẳng hạn như ngành nơng nghiệp). Cùng lúc đó, các quốc gia như Mỹ,
Canada, Úc, và Argentina không thể quản lý hiệu quả tình trạng di cư quy mơ
lớn từ Châu Âu, dẫn tới việc họ phải đóng cửa biên giới vào những năm 1910.
Nhiều nhà sử học cho rằng, thái độ phản đối tồn cầu hóa trong vơ số tầng lớp
người dân là một trong những nguyên nhân dẫn đến Chiến tranh Thế giới Thứ
nhất năm 1914 đến 1918.
Cuộc Đại Suy Thối là đòn đánh cuối cùng lên làn sóng tồn cầu hóa thứ
nhất: các quốc gia phản ứng bằng cách đề ra các chính sách đi theo chủ nghĩa
bảo hộ trên diện rộng, khiến cho khủng hoảng kinh tế năm 1929 tệ hại hơn rất
nhiều, để lại một tiếng vang lớn trên toàn cầu. Theo nhà kinh tế học Jakob
Madsen, từ năm 1929 đến 1932, khối lượng hàng hóa giao thương thực tế trên
tồn cầu đã giảm 33%, 2/3 trong số đó là do các chính sách chủ nghĩa hộ.
Tóm lại, trong bài viết này, chúng ta biết được tồn cầu hóa đang đi vào
một giai đoạn bước ngoặc lịch sử, và bây giờ chính là thời điểm phải giải quyết
những thách thức khiến tồn cầu hóa bị nhiều người ngờ vực. Một điều chắc
chắn rằng, chúng ta vẫn có thể lạc quan nhưng cũng phải hành động thận trọng:
hệ thống quản trị toàn cầu hiện tại có rất nhiều cơng cụ để loại bỏ những bất cập
và thúc đẩy một phiên bản tồn cầu hóa hiện đại và tồn diện hơn. Tuy nhiên,
nếu khơng giải quyết được các bất cập trong quá trình phát triển, chúng ta sẽ có
nguy cơ biến cái bóng của quá khứ trở thành ác mộng của hiện tại. Liệu chúng ta
Tiểu luận môn Đường Lối Cách Mạng Đảng Cộng Sản Việt Nam
Trang 13
có tránh được việc bị vấp chân hai lần liên tục vào cùng một hòn đá đều phụ
thuộc vào thời điểm này.
b. Hội nhập chủ động
Tồn cầu hố, mà trước hết là tồn cầu hố kinh tế, là một xu thế khách
quan mà mọi quốc gia, dân tộc đều khơng thể chống lại hay quay lưng lại với nó.
Tuy nhiên, tồn cầu hố hiện nay vừa có khả năng tạo ra những cơ hội thuận lợi
cho sự phát triển, vừa có thể dẫn đến những nguy cơ to lớn mà hậu quả của
chúng rất khó lường đối với bất cứ quốc gia nào. Vì vậy, đối với Việt Nam, việc
“chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế” trong bối cảnh tồn cầu hố là
điều cần thiết, đảm bảo cho việc nắm bắt và tận dụng những cơ hội mới, đồng
thời khắc phục, hạn chế những khó khăn, thách thức mới nảy sinh, sớm đưa nước
ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng để đến năm 2020, cơ bản trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Tồn cầu hóa hiện nay, về thực chất, là sự hội nhập toàn cầu trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội, là xu thế phát triển tất yếu, khách quan, hợp quy
luật của xã hội lồi người. Tồn cầu hóa hiện nay, trước hết là tồn cầu hóa kinh
tế đã đem lại cơ hội cho các nước có trình độ phát triển khác nhau hội nhập khu
vực và quốc tế. Song, tồn cầu hóa hiện nay cũng đã đặt ra những thách thức
không nhỏ đối với nhiều nước, nhất là những nước có nền kinh tế kém phát triển,
trong đó có nước ta. Làm thế nào để tranh thủ được những cơ hội thuận lợi, đồng
thời vượt qua được những thách thức không nhỏ này khi “chủ động và tích cực
hội nhập kinh tế quốc tế” đã được Đảng ta xác định là một chiến lược trong công
cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa - đó là vấn đề mà chúng
tôi muốn đề cập trong bài viết này.
Tiểu luận môn Đường Lối Cách Mạng Đảng Cộng Sản Việt Nam
Trang 14
Tồn cầu hóa, khơng phải là một hiện tượng mới mẻ, mặc dù gần đây, trên
mọi phương tiện thông tin đại chúng, người ta liên tục nói đến nó với tư cách
một xu thế phát triển tất yếu, khách quan, hợp quy luật và không thể đảo ngược.
Ngay từ giữa thế kỷ XIX, khi phân tích, luận giải xã hội tư bản với quan điểm
phát triển – quan điểm coi lịch sử thế giới là kết quả của quá trình biến đổi lâu
dài và liên tục của xã hội loài người, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã đưa ra
dự báo về xu thế phát triển tất yếu của tồn cầu hóa, trước hết là tồn cầu hóa
kinh tế. Các ông cho rằng, do “luôn bị thúc đẩy bởi nhu cầu về những nơi tiêu
thụ sản phẩm”, chủ nghĩa tư bản và giai cấp tư sản “xâm nhập vào khắp nơi, trụ
lại ở khắp nơi và thiết lập những mối liên hệ ở khắp nơi”. “Trong quá trình thống
trị giai cấp chưa đầy một thế kỷ”, chúng đã “tạo ra những lực lượng sản xuất
nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp
lại” nhờ việc chinh phục những lực lượng tự nhiên, sản xuất bằng máy móc và áp
dụng khoa học vào nhiều lĩnh vực sản xuất. Và, “do bóp nặn thị trường thế giới”,
chúng đã làm cho cả quá trình sản xuất lẫn sự tiêu dùng của tất cả các nước
“mang tính chất thế giới”, làm cho nền công nghiệp ở tất cả các nước “mất cơ sở
dân tộc” và bị thay thế bởi những ngành công nghiệp mà việc du nhập chúng
“trở thành một vấn đề sống còn đối với tất cả các dân tộc văn minh”. Bằng cách
này, chúng đã biến tình trạng sản xuất biệt lập, tự cung tự cấp ở các quốc gia, dân
tộc thành quá trình “phát triển những quan hệ phổ biến, sự phụ thuộc phổ biến
giữa các dân tộc”. Chúng đã “lôi cuốn đến cả những dân tộc dã man nhất vào
trào lưu văn minh”, buộc tất cả các dân tộc nếu khơng muốn bị tiêu diệt thì “phải
thực hành phương thức sản xuất tư sản”, “du nhập cái gọi là văn minh, nghĩa là
phải trở thành tư sản” để tạo ra một thế giới theo hình dạng mà chúng mong
muốn.
Tiểu luận môn Đường Lối Cách Mạng Đảng Cộng Sản Việt Nam
Trang 15