1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Thạc sĩ - Cao học >

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.62 MB, 159 trang )


8

kết quả về mặt định lƣợng. Trong dạy học đó là việc GV gắn các điểm số cho sản phẩm của

HS thể hiện kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo mà HS đạt đƣợc. Trong giáo dục, phép đo có đặc tính

là các phép đo chỉ đƣợc thực hiện một cách gián tiếp qua hành động, qua kết quả hoàn thành

nhiệm vụ, các bài tập; các phép đo bao gồm cả mặt định tính và định lƣợng đồng thời các

biến số cần đo ln thay đổi và đơi khi khó kiểm soát. Tuy nhiên việc đo liên quan đến dụng

cụ đo, có ba tính chất cơ bản, đó là:

- Độ giá trị: Đó là khả năng của dụng cụ đo cho giá trị thực của đại lƣợng cần đo (

cho phép đo đƣợc cái cần đo).

- Độ trung thực ( hay độ tin cậy): Đó là khả năng ln ln cung cấp cùng một giá trị

của cùng một đại lƣợng đƣợc đo với cùng dụng cụ đó.

- Độ nhạy: là khả năng có thể phân biệt hai đại lƣợng chỉ khác nhau rất ít.

* Lượng giá là việc giải thích các thông tin thu đƣợc về kiến thức, kỹ năng của HS,

thấy đƣợc trình độ tƣơng đối của một HS so với thành tích chung của tập thể HS (lƣợng giá

theo chuẩn); hay so với yêu cầu của chƣơng trình (lƣợng giá theo tiêu chí). Lƣợng giá khơng

nhất thiết dựa vào TN đo lƣờng, điểm số, xếp loại.

* ĐG là khâu tiếp sau khâu lƣợng giá, là việc đƣa ra những kết luận, nhận định, phán

đốn về thực chất trình độ ngƣời học xét ƣơng mối quan hệ với quyết định cần đƣa ra theo

mục đích đã định của KTĐG.

Trong dạy học vật lý, việc KTĐG phải hƣớng vào việc xác định trình độ kiến thức,

kỹ năng vật lý cơ bản, sự phát triển trí tuệ và niềm tin của HS. Việc KTĐG phải căn cứ vào

mục đích, nội dung và phƣơng pháp dạy học vật lý và trình độ HS ở từng giai đoạn bài học

vật lý, của chƣơng và môn vật lý. Việc KTĐG phải căn cứ vào nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu

của từng nội dung vật lý để lựa chọn nội dung và hình thức KTĐG phù hợp.



1.2. Chức năng của kiểm tra đánh giá

Tùy theo mục đích KTĐG ngƣời ta có thể phân biệt các chức năng khác nhau của

KTĐG. GS Trần Bá Hoành đề cập đến ba chức năng của KTĐG [50]:



9

* Chức năng sƣ phạm: làm sáng tỏ thực trạng, định hƣớng điều chỉnh hoạt động dạy

và học.

* Chức năng xã hội: công khai hóa kết quả học tập của HS.

* Chức năng khoa học: nhận định chính xác về một mặt nào đó trong thực trạng dạy

và học, về hiệu quả thực nghiệm một sáng kiến nào đó trong dạy học.

Trong phạm vi nghiên cứu của mình, chúng tơi chủ yếu quan tâm đến chức năng sƣ

phạm của KTĐG đó là làm sáng tỏ thực trạng của việc dạy học đƣa đến những định hƣớng

điều chỉnh hoạt động dạy và học.

Nếu chỉ quan tâm đến chức năng sƣ phạm của KTĐG có thể kể đến 3 chức năng

chính nhƣ sau:

- Chức năng chẩn đoán (ĐG tiên nghiệm): Các bài KT đƣợc sử dụng nhƣ phƣơng

tiện thu lƣợm thông tin cần thiết xác định nội dung, mục tiêu và phƣơng pháp dạy học tiếp

theo cho phù hợp. Đồng thời cho phép đề xuất, bổ khuyết những sai sót, phát huy những cải

tiến trong hoạt động dạy học.

- Chức năng chỉ đạo định hướng hoạt động dạy học (ĐG quá trình): Các bài KT đƣợc

sử dụng nhƣ phƣơng tiện, phƣơng pháp dạy học (dạy bằng cách KTĐG). Đối với ngƣời dạy,

căn cứ vào tiêu chí ĐG, mục tiêu dạy học cụ thể để đề ra những câu hỏi KT có tác dụng nhƣ

biện pháp tích cực để chỉ đạo hoạt động dạy học. Với ngƣời học, các câu hỏi đƣợc sử dụng

nhƣ một biện pháp tích cực để chỉ đạo hoạt động học, có tác dụng định hƣớng hoạt động học

tập tích cực tự chủ của ngƣời học.

- Chức năng xác nhận thành tích học tập, hiệu quả dạy học (ĐG tổng kết): Các bài

KT đƣợc sử dụng để ĐG thành tích học tập, xác nhận trình độ và kiến thức kỹ năng của

ngƣời học. Dựa vào đó có thể xếp loại, chọn lọc học viên, xét lên lớp v.v...



1.3. Khái quát về các phƣơng pháp KTĐG trong giáo dục

1.3.1. Các phương pháp đo lường và ĐG trong giáo dục hiện nay

"Ở đâu có đo lƣờng ở đó bắt đầu có khoa học"(Mendeleep). Trong cuộc sống



10

hằng ngày, từ ngàn xƣa ngƣời ta đã biết đến những phƣơng pháp thẩm định và đo lƣờng.

Trong giáo dục, để đo lƣờng thành quả học tập của HS, ngƣời ta cũng định ra các phƣơng

pháp đo lƣờng ngày càng chính xác, các kỹ thuật thẩm định trong giáo dục cũng đƣợc hoàn

thiện. Tuy nhiên việc đo lƣờng trong giáo dục cần coi trọng cả mặt định tính lẫn định lƣợng.

Nhờ các phƣơng pháp định lƣợng phát triển, nhiều tiến bộ quan trọng trong giáo dục đã đƣợc

thực hiện trong thế kỷ qua.

Các phƣơng pháp dùng để thẩm định đo lƣờng liên quan đến ĐG trong giáo dục có

thể chia thành 2 loại: (1) phƣơng pháp TN và (2) phƣơng pháp quan sát hành vi có đƣợc

trong hoạt động học tập. Mặc dù vậy, trong việc KTĐG ở nhà trƣờng phƣơng pháp TN là

phƣơng pháp đƣợc sử dụng nhiều hơn cả.



Hình 1.1: Sơ đồ các phương pháp KTĐG trong giáo dục



* Phương pháp quan sát sư phạm, sử dụng trong trƣờng hợp cần ghi lại những nét độc

đáo về tính cách, thái độ, hành vi, tình huống xẩy ra trong dạy học, chúng



11

thƣờng khơng có tiêu chuẩn đồng nhất khi ĐG nên thƣờng dùng cho việc ĐG HS nhỏ tuổi,

hoặc có hứng thú đặc biệt. Ngƣợc lại, trong trƣờng hợp để ĐG kỹ năng thực hành của HS khi

thực hiện các cơng tác nhƣ nhau, ví dụ nhƣ ĐG kỹ năng thí nghiệm thực hành mơn vật lý thì

cần có các tiêu chuẩn đồng nhất.

Trong phƣơng pháp TN, ngƣời ta có thể chia thành các phƣơng pháp nhỏ sau: (1)

Phƣơng pháp vấn đáp, (2) Phƣơng pháp viết.

*Phương pháp vấn đáp là ngƣời dạy và ngƣời học đối thoại trực tiếp với nhau, chính

vì vậy mà ngƣời dạy có thể KTĐG đƣợc ngƣời học về mức độ thu nhận kiến thức, biết đƣợc

khả năng tƣ duy của ngƣời học. Nhƣợc điểm của phƣơng pháp này là kết quả ĐG theo chủ

quan của ngƣời thầy, tốn nhiều thời gian, không thể KT một lúc hết các nội dung kiến thức.

* TNTL là hình thức KTĐG trong đó ngƣời học tự viết ra để trả lời yêu cầu của ngƣời

dạy dƣới dạng một bài luận hay tiểu luận nó bao gồm cả các hình thức thi cử nhƣ gồm câu

hỏi lí thuyết và bài toán mà HS phải trả lời dƣới dạng một bài viết trong một khoảng thời

gian đã định trƣớc. Đây là phƣơng pháp thông dụng nhất hiện nay.

* TNKQ là phƣơng pháp ĐG kết quả học tập của HS bằng các câu hỏi TNKQ. Thuật

ngữ "khách quan" để chỉ tính chất khách quan khi chấm bài không nhƣ TNTL, bởi vì kết quả

chấm điểm ở 1 bài làm sẽ nhƣ nhau, không phụ thuộc vào việc ai chấm bài. Tuy nhiên về nội

dung, cấu trúc, đặc điểm các câu hỏi có bị ảnh hƣởng bởi tính chất chủ quan của ngƣời soạn

câu hỏi.

Trong loại TNKQ dựa vào hình thức đặt câu hỏi ngƣời ta có thể kể đến các loại thông

dụng sau:

* TN đúng - sai: chỉ gồm hai lựa chọn (đúng hoặc sai), đó là loại TN đơn giản nhất có

khả năng sử dụng rộng rãi nhƣng khả năng phân biệt rất thấp và tính chính xác bị ảnh hƣởng

khi ĐG.

* TN loại câu điền khuyết là loại TN có những khoảng trống để ngƣời học điền vào

thƣờng là một hay hai từ. Câu hỏi rõ ràng chính xác và chỉ dẫn đến một câu trả



12

lời đúng.

* TN đối chiếu cặp đơi là loại TN có hai cột, mỗi cột có số danh từ, câu xác định...

HS phải ghép những câu hay từ nào của bên cột này tƣơng ứng với câu hay từ nào của cột

kia.

* TN câu hỏi và trả lời ngắn, câu hỏi loại này phải ngắn gọn để chỉ trả lời bằng một

từ hay một câu ngắn. Câu hỏi phải rõ ràng chính xác và chỉ dẫn đến một câu trả lời đúng.

* TNKQNLC (MCQ) là loại câu hỏi TN gồm một câu phát biểu căn bản về nội dung

câu hỏi gọi là câu dẫn cùng các câu trả lời cho sẵn gọi là câu chọn (thông thƣờng từ 4 đến 5

câu chọn). Nhiệm vụ HS phải chọn câu trả lời đúng nhất, các câu còn lại là câu mồi.

1.3.2. Những ưu, nhược điểm của phương pháp TNKQ và TNTL

TNKQ và TNTL đều có thể đo đƣợc trình độ lập luận, tuy nhiên, phần lớn TNKQ chỉ

đòi hỏi nhận biết câu trả lời đúng nhất trong các câu cho sẵn hoặc trả lời ngắn, còn TNTL

ngồi sự nhận biết còn phải hiểu và diễn đạt bằng ngơn ngữ của chính mình (trả lời dài).

Bài TNKQ gồm nhiều câu hỏi bao trùm kiến thức trong khi bài TNTL ít câu hỏi

nhƣng kiến thức hẹp rất sâu.

Bài TNKQ học sinh dành nhiều thời gian để đọc và suy nghĩ, trong bài TNTL học

sinh dành phần lớn thời gian suy nghĩ và viết.

Chất lƣợng của bài TNKQ xác định phần lớn phụ thuộc kỹ năng soạn thảo bài TN

trong khi chất lƣợng bài TNTL phụ thuộc chủ yếu vào kỹ năng ngƣời chấm.

Bài thi TNLT tƣơng đối dễ soạn nhƣng khó chấm, khó cho điểm chính xác trong khi

bài thi TNKQ khó soạn nhƣng việc chấm cho điểm tƣơng đối dễ và chính xác hơn.

Bài thi TNKQ đơi khi dễ tạo sự "đốn mò", ngƣợc lại bài TNTL lại dễ tạo ra Sự "lừa

phỉnh" che lấp những điều HS không biết rõ.

Sự phân bố điểm số của ngƣời học trong bài thi TNTL do ngƣời chấm ấn định



13

(điểm tối đa, tối thiểu) trong khi bài TNKQ sự phân bố điểm số của ngƣời học đƣợc quyết

định hoàn toàn do bài TN.

Bài TNTL đòi hỏi HS phải sắp xếp cách trả lời còn bài TNKQ ít quan tâm đến việc

sắp xếp ấy mà quan tâm đến xây dựng nền tảng kiến thức kỹ năng.

Việc soạn câu hỏi TNKQ tốn công sức, mất nhiều thời gian trong khi soạn câu hỏi

TNTL lại ít tốn cơng sức.

Việc chấm bài TNTL là cơng việc khó khăn, mất nhiều thời gian nhƣng việc chấm đó

tạo cơ sở cho GV đánh giá tƣ duy của HS. TNKQ thi đơn giản, ai cũng có thể chấm và cho

kết quả nhƣ nhau.

Từ những khác biệt của TNTL và TNKQ ta có thể nhận định về ƣu thế của TNTL và

TNKQ theo bảng 1.1.

Trong xu thế phát triển của khoa học giáo dục và lí luận dạy học, vấn đề KTĐG cần

đƣợc đổi mới và nghiên cứu hồn thiện. Hiện tƣợng vi phạm tính khách quan trong KTĐG

hiện nay còn khá phổ biến. Để khắc phục tình trạng đó, một trong những hƣớng đổi mới cách

KTĐG là kết hợp nhiều hình thức, đặc biệt là kết hợp giữa TNTL với TNKQ.

Bảng 1.1.: Ưu thế của TNKQ và TNTL



Ƣu thế thuộc về

Những khả năng



TNKQ



Bao phủ đƣợc môn học (chống học tủ)



+



Ít may rủi



+



Chấm bài nhanh, ít tốn cơng sức



+



Chấm bài khách quan



+



Độ tin cậy cao



+



Có thể so sánh ĐG trong giáo dục



+



Gây đƣợc hứng thú và tích cực học tập nhanh

chóng



+



TNTL



Ít tốn cơng sức ra đề



+



Khả năng diễn đạt



+



Khả năng sáng tạo



14

Với hình thức tự luận, cần phải xác định tiêu chuẩn để ĐG, đây là vấn đề phức tạp và

trừu tƣợng, có thể hiểu đó là một đơn vị để "cân, đong, đo, đếm" các "đơn vị kiến thức" theo

mức độ từ nội dung khái quát đến nội dung chi tiết. Việc KTĐG với những đề thi TNTL

thƣờng bộc lộ nhƣợc điểm nhƣ không thể phản ánh tồn bộ nội dung chƣơng trình, gây tâm

lý học tủ, dạy tủ, GV còn mang nặng tính chủ quan khi ĐG cho điểm.

Để nâng cao tính khách quan khi KTĐG, nhiều tác giả cho rằng nên sử dụng TNKQ,

nếu xây dựng và sử dụng có hiệu quả ngân hàng câu hỏi thi trong chừng mực nhất định có

thể khắc phục hạn chế của hình thức TNTL.

Việc kết hợp hình thức thi TNTL với hình thức thi TNKQ chẳng những nâng cao tính

khách quan trong KTĐG mà còn tiết kiệm thời gian, góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục và

đào tạo, mỗi loại hình có ƣu, nhƣợc điểm, chúng bổ trợ và khơng thể dùng hình thức KT này

thay thế hồn tồn hình thức KT khác.



1.4. Trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn

1.4.1. Thế nào là trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn (MCQ)

TNKQNLC là một bài TNKQ trong đó có nhiều câu trả lời cho một câu hỏi của bài

TN nhƣng chỉ có một câu trả lời là đúng nhất. Câu phát biểu căn bản về nội dung câu hỏi gọi

là câu dẫn, các câu trả lời cho sẵn gọi là câu chọn (thông thƣờng từ 4 đến 5 câu chọn). Nhiệm

vụ HS phải chọn câu trả lời đúng nhất. Có thể xem câu hỏi MCQ gồm có bốn bộ phận chính:

+ Phần gốc thƣờng là một câu hỏi hay câu khuyết bao hàm ý nghĩa một câu hỏi.

+ Phần lựa chọn có bốn đến năm câu trả lời cho trƣớc, nếu khơng suy nghĩ, phân tích

thì khơng phát hiện đƣợc câu sai.

+ Câu đúng là câu trả lời đúng nhất.

+ Câu mồi (câu nhiễu) là các câu còn lại, thƣờng có vẻ là câu trả lời đúng, nếu khơng

suy nghĩ và cân nhắc thì sẽ chọn sai.



15

Điểm cho mỗi câu TN khi trả lời đúng là 1, trả lời sai là 0. Bài TN đƣợc chấm điểm

bằng cách đếm tổng số câu trả lời đúng trong tổng số câu của tồn bài. TNKQNLC có những

ƣu, nhƣợc điểm sau:

Ưu điểm:



+ Loại TNKQNLC có thể sử dụng cho nhiều trƣờng hợp, nó có khả năng phân biệt

năng lực của HS.

+ Loại TNKQNLC có khả năng bao gồm hầu hết các chủ đề, chọn lựa đƣợc mẫu tiêu

biểu, khách quan khi chấm điểm nên có độ giá trị và độ tin cậy cao.

+ Chấm bài nhanh, khách quan.

+ Khuyến khích HS tích lũy kiến thức.

+ Hạn chế quay cóp khi thi, HS tự giác học tập tránh học tủ, đối phó.

Nhược điểm:



+ Khó ĐG đƣợc khả năng diễn đạt, tƣ duy sáng tạo.

+ Do mỗi câu hỏi cần có nhiều câu trả lời kèm theo trong đó chỉ có một câu đúng

nhất còn các câu khác có độ hấp dẫn nhƣ nhau nên việc ra đề khó khăn và tốn nhiều thời

gian, ngƣời ra đề phải có nhiều kinh nghiệm và hiểu sâu sắc kiến thức.

+ Khó KT đƣợc các kỹ năng thực hành, thí nghiệm.

Ngày nay, xã hội đang yêu cầu cải tiến việc thi cử, ĐG khách quan, công bằng, tiết

kiệm thời gian và công sức nên việc nghiên cứu phƣơng pháp ĐG này để đƣa vào sử dụng là

việc làm rất cần thiết.

1.4.2. Các bước cần làm khi soạn thảo một bài TNKQNLC

* Xác định mục tiêu chung cần đạt được trong quá trình dạy học

Dù TN sử dụng cho mục đích nào thì việc đo lƣờng thành quả học tập cần đƣợc hiểu

là đo lƣờng mức độ đạt đến mục tiêu dạy học, vì vậy nội dung và cấu trúc bài TN phải đƣợc

đặt trên cơ sở các mục tiêu dạy học. Tuy nhiên một bài TN không thể đo lƣờng hết mọi mục

tiêu, ở đây chỉ nói đến những mục tiêu có thể đo đƣợc.



16

* Phân tích nội dung kiến thức để xác định mức độ kiến thức và kỹ năng cần KTĐG

Dựa trên việc nghiên cứu nội dung kiến thức, phát biểu thành những ý tƣởng cốt lõi,

những vấn đề khái quát, những mối liên hệ, những nguyên lí để lựa chọn nội dung cần

KTĐG, việc này cần tiến hành theo các bƣớc:

- Đọc sách giáo khoa để nắm toàn bộ nội dung kiến thức trình bày trong phần nghiên

cứu, từ đó xác định loại kiến thức và các kiến thức chủ yếu.

- Xác định cấu trúc logic giữa các yếu tố cơ bản hình thành nên kiến thức.

- Xác định mức độ kiến thức, kỹ năng cần đạt đƣợc.

Để giải nghĩa đƣợc ý tƣởng cốt lõi, cần phải lựa chọn các khái niệm và các mối liên

hệ giữa các khái niệm, định luật cần nắm vững để đạt đƣợc mục tiêu dạy học.

* Xác định những kiến thức sai lầm mà HS có thể gặp phải

Với mục đích KTĐG kết quả học tập của HS, việc xác định các kiến thức HS dễ mắc

sai lầm để soạn thảo câu hỏi sao cho tạo cơ hội phát hiện ở ngƣời học các sai lầm có thể mắc

phải nếu họ nắm chƣa kỹ các phần kiến thức đó. Đây là điều rất quan trọng vì q trình học

tập là quá trình vƣợt qua những trở ngại và sai lầm.

* Xác định mục tiêu cụ thể cần KT

Trong chƣơng trình học, mục tiêu đƣa ra thƣờng tổng quát, để ĐG kiến thức, kỹ năng

của HS cần khảo sát mức độ đạt đến mục tiêu cụ thể qua một bài TN.

Để đo lƣờng đƣợc kiến thức, kỹ năng thì mục tiêu KT phải thật rõ ràng, mức độ thành

quả đạt đƣợc cũng phải đƣợc xác định. Việc xác lập hệ thống mục tiêu và quá trình thao tác

chúng phải đảm bảo sao cho có thể quan sát hay đo lƣờng đƣợc các mục tiêu này (lƣợng hóa

mục tiêu).

Theo TS. Dƣơng Thiệu Tống [61], để đo lƣờng đƣợc cần đạt 6 yêu cầu khi phát biểu

mục tiêu đó là: (1) phải rõ ràng, cụ thể; (2) phải đạt tới đƣợc trong khóa học hay đơn vị học

tập; (3) phải bao gồm nội dung học tập thiết yếu của môn học (4) kết quả học tập và mục tiêu

phải đƣợc xác định bằng các động từ; (5) phải đo



17

lƣờng đƣợc; (6) phải chỉ rõ những gì ngƣời học có thể làm đƣợc vào cuối giai đoạn học tập

(hay nói cách khác, mục tiêu phải đƣợc phát biểu đối với ngƣời học).

Dựa vào các lĩnh vực khác nhau của hoạt động học ngƣời ta chia thành 3 lĩnh vực của

học tập:

- Lĩnh vực nhận thức: Kiến thức, hiểu biết, vận dụng...

- Lĩnh vực cảm xúc (tình cảm): Phản ứng, thu nhận, coi trọng.

- Lĩnh vực kỹ năng: Khả năng, hành động, thực thi.

Mục tiêu có thể đƣợc xây dựng cho từng lĩnh vực học tập, bên trong chúng có thể

chia thành các thứ hạng, cấp bậc khác nhau từ thấp đến cao.

Trong khuôn khổ sử dụng để soạn thảo bài TNKQNLC, ở đây chúng tôi chỉ đề cập

đến lĩnh vực nhận thức. Ở lĩnh vực này, B.S.Bloom và các đồng sự [44],[45] đã căn cứ trên

các chức năng trí tuệ cơ bản từ thấp đến cao để chia thành quả học tập lĩnh vực nhận thức

của các mục tiêu dạy học thành 6 bậc nhƣ sau:

+ Nhận biết: Ghi nhớ đƣợc các khái niệm, sự việc, phƣơng pháp, nguyên lí tức là các

thơng tin có tính chất chun biệt mà một HS có thể nhớ hay nhận ra và có khả năng xác

định, mô tả, tái hiện lại.

+ Thông hiểu: Bao gồm cả ghi nhớ nhƣng ở mức cao hơn ghi nhớ; nó liên quan đến

khái niệm, ý nghĩa và các mối liên hệ của những gì HS đã biết, đã học, phải giải thích đƣợc,

minh họa đƣợc, tóm tắt và viết lại đƣợc những nguyên lý, sự việc theo ngôn ngữ riêng của

mình.

+ Vận dụng: Ngƣời học phải biết vận dụng kiến thức, biết sử dụng phƣơng pháp,

nguyên lí hay ý tƣởng để giải quyết một vấn đề nào đó. Khả năng này đƣợc đo khi tình

huống đặt ra và ngƣời học phải quyết định sử dụng nguyên lý nào và áp dụng nhƣ thế nào

với tình huống nhƣ vậy.

+ Phân tích: Phân chia các vấn đề trong một mối liên kết đã có thành các phần nhỏ,

để phân biệt, nhận biết, chọn lọc.



18

+ Tổng hợp: Có khả năng sắp xếp các bộ phận lại thành một tổng thể mới, viết đƣợc

một chủ đề với bố cục hợp lý, đề xuất đƣợc một kế hoạch, giải quyết đƣợc những vấn đề

phức tạp.

+ Đánh giá: Phán xét giá trị của các tƣ liệu với một chủ đề mục đích xác định, ĐG

đƣợc giá trị của vấn đề, sự việc, kết luận, so sánh, phê phán, giải thích đƣợc hiện tƣợng, sự

việc, nguyên lý .

Cách phân loại của B.S Bloom là lối phân loại phổ biến trên thế giới hiện nay và

không ngừng đƣợc cải tiến và khai triển.

Trong đề tài này chúng tôi chú trọng đến ba cấp độ: nhận biết, thông hiểu, vận dụng.

* Lập bảng phân bố các câu hỏi và lựa chọn câu hỏi

Sau khi xác định đƣợc mục tiêu và nội dung từng phần, cần phải xác định số lƣợng

câu hỏi. Một bài TN cần có bao nhiêu câu hỏi mới đủ ? Nhìn chung, càng có nhiều câu hỏi,

thì các điểm số từ bài TN càng đáng tin cậy, tuy nhiên có 2 yếu tố chi phối số lƣợng câu hỏi

của một bài TN đó là: thời gian dành cho làm bài và loại câu TN sử dụng, nghĩa là mức độ

phức tạp của quá trình tƣ duy để trả lời câu hỏi và thói quen làm việc của HS. Cách tốt nhất

là rút kinh nghiệm từ những bài TN tƣơng tự với lớp học khác. Trƣờng hợp khơng có những

lớp nhƣ vậy ta có thể giả định về thời gian cần thiết để làm xong một câu hỏi.

Thông thƣờng thời gian ấn định cho một bài TN là 1 đến 2 giờ, có thể kéo dài hơn

nhƣng không quá 3 giờ để tránh sự mệt mỏi của HS. Có 2 loại TN:

- TN tốc định: với loại này HS phải làm nhanh và đúng, bài TN loại này thƣờng có

rất nhiều câu hỏi, ngƣời ta khơng có hy vọng làm hết các câu nhƣng điều cần thiết là làm

càng nhiều càng tốt.

- TN khả lực: bài TN phải soạn sao cho HS đủ thời gian đọc và trả lời câu hỏi theo

tốc độ bình thƣờng. Tốc độ làm nhanh khơng phải là mục tiêu chính của việc



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (159 trang)

×