Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.52 MB, 26 trang )
8
Bộ môn Mạng và Truyền Thông
cực. Các máy chủ (master server) là chủ thực sự của các maps dữ liệu. Slave NIS
xử lý các yêu cầu của client, nhưng chúng không thay đổi các NIS maps. Các máy
chủ chịu trách nhiệm tổng thể cho tất cả các map bảo dưỡng và phân phối đến các
máy chủ slaver của nó. Khi một NIS map được xây dựng trên máy chủ có 1 sự
thay đổi, các tập tin map mới này được phân phối cho các máy slave server. Các
máy NIS client "nhìn thấy" những thay đổi này khi thực hiện truy vấn trên các tập
tin map, không phân biệt là nó đang giao tiếp với master server hay là slave
server, vì khi các map được phân phối thì tất cả các máy server đều nhận được
thông tin như nhau.
Mối quan hệ giữa các máy slave, master và client:
ii. Network File System Design and Operation
NFS(Network File System) là giao thức chia sẻ phổ biến trên UNIX. Nó
cho phép mount một thư mục trên một máy tính từ xa vào một thư mục cục bộ.
Ví dụ trong các hệ thống cluster, thư mục /home thường được đặt trên một NFS
server và tất cả các node mount thư mục này về /home cục bộ. Điều đó cho
phép chúng ta có một cái nhìn nhất quán về thư mục chủ, mọi người dùng khi
log-in vào bất cứ node nào cũng truy cập được vào thư mục chính của mình.
Giống như NIS, NFS được thực hiện như một bộ các thủ tục RPC sử dụng
dữ liệu ngoài Data Representation (XDR) mã hóa để vượt qua các đối số giữa máy
khách và máy chủ. Một hệ thống tập tin gắn kết bằng NFS cung cấp hai mức độ
minh bạch:
hệ thống tập tin này sẽ xuất hiện để được cư trú trên một ổ đĩa gắn liền
với hệ thống local, và tất cả hệ thống tập tin mục - tập tin và thư mục được xem cùng một cách, cho dù local hay remote. NFS ẩn vị trí của tập
tin trên mạng.
NFS gắn hệ thống tập tin không chứa thông tin về các file server từ đó
chúng được gắn kết. Các máy chủ NFS có thể là của một kiến trúc khác
nhau hoặc chạy
Hoàng Tiến Sơn – Nguyễn Trần Đình Trọng 07T4
Giao tiếp giữa hai tiến trình dùng hàng đợi thông điệp
9
hệ điều hành hoàn toàn khác với một cấu trúc hệ thống tập tin hoàn toàn
khác nhau.
Cấu trúc NFS đầu tiên đạt được mức độ minh bạch bằng cách định nghĩa một
tập hợp các hoạt động chung của hệ thống tập tin được thực hiện trên một hệ thống
tập tin ảo (VFS). Cấp độ thứ hai xuất phát từ định nghĩa của các nút ảo, trong đó
có liên quan đến hệ thống tập tin inode quen thuộc hơn cấu trúcUnix
nhưng ẩn cấu trúc thực tế của hệ thống tập tin vật lý bên dưới chúng. Các thiết lập
của tất cả thủ tục có thể được thực hiện trên các tập tin là định nghĩa giao diện
vnode. Các vnode và VFS (Virtual File System) chi tiết kỹ thuật cùng nhau xác
định các giao thức NFS.
Hoàng Tiến Sơn – 07T4
10
Bộ môn Mạng và Truyền Thông
Chương 2.
CÀI ĐẶT VÀ CẤU HÌNH NFS, NIS
2.1. CÀI ĐẶT VÀ CẤU HÌNH NFS
a) Cài đặt và cấu hình NFS, trình bày ứng dụng NFS
NFS(Network File System) là giao thức chia sẻ phổ biến trên UNIX. Nó
cho phép mount một thư mục trên một máy tính từ xa vào một thư mục cục bộ.
Ví dụ trong các hệ thống cluster, thư mục /home thường được đặt trên một NFS
server và tất cả các node mount thư mục này về /home cục bộ. Điều đó cho
phép chúng ta có một cái nhìn nhất quán về thư mục chủ, mọi người dùng khi
log-in vào bất cứ node nào cũng truy cập được vào thư mục chính của mình.
ii. Cài đặt và cấu hình cho máy server
• Cài đặt các gói phần mềm
Ở chế độ root trong terminal lần lượt cài đặt:
apt-get install nfs-kernel-server
a.
apt-get install portmap nfs-common
Hoàng Tiến Sơn – Nguyễn Trần Đình Trọng 07T4
11
Giao tiếp giữa hai tiến trình dùng hàng đợi thông điệp
b.
apt-get install nfs-common
c.
• Xác định thư mục cần chia sẻ
Tạo mới thư mục để chia sẻ file:
d.
Sử dụng file exports để xác định thư mục cần share (Ở đây là thư mục
Share)
Trong Terminal, gõ nano /etc/exports để chỉnh sửa file
e.
Hoàng Tiến Sơn – 07T4