1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Kinh tế - Thương mại >

Bảng 2.4: Giá trị kim ngạch xuất khẩu dệt may tỉnh Thái Bình tại một số thị trường lớn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (349.33 KB, 52 trang )


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp



GVHD: ThS. Nguyễn Bích Ngọc



liên tục mở rộng và tăng lên với tốc độ nhanh chóng, và trong khoảng 4 năm trở

lại đây, Mỹ đã thay thế Nhật Bản là thị trường xuất khẩu chiếm tỷ trọng cao nhất.

Đây là thị trường có nhu cầu tiêu thụ hàng dệt may lớn nhất thế giới, dân số

đông, mức tiêu thụ gấp rưỡi thị trường EU, có thị hiếu đa dạng và tường đối dễ

tính. Hàng hóa dù chất lượng cao hay vừa đều có thể được bán trên thị trường

Mỹ vì các tầng lớp dân cư ở nước này đều tiêu thụ nhiều hàng hoá. Đối với đồ

dùng cá nhân như quần áo, may mặc và giày dép, nói chung người Mỹ thích sự

giản tiện, nhưng hiện đại, hợp mốt và với yếu tố khác biệt, độc đáo thì càng được

ưa thích và được mua nhiều. Cùng một số đồ vật nhưng thời gian sử dụng của họ

có thể chỉ bằng một nửa thời gian sử dụng của người tiêu dùng các nước phát

triển khác. Với sự thay đổi luôn như vậy, giá cả lại trở nên có vai trò rất quan

trọng. Điều này giải thích tại sao hàng hóa tiêu dùng từ một số nước đang phát

triển chất lượng kém hơn nhưng vẫn có chỗ đứng trên thị trường Mỹ vì giá bán

thực sự cạnh tranh. Từ sau khi bình thường hóa quan hệ Việt – Mỹ, bỏ cấm vận

và đặc biệt sau khi Việt Nam gia nhập WTO (được hưởng GSP và MFN) thì hoạt

động xuất khẩu hàng dệt may của tỉnh trên thị trường này liên tục gặt hái được

thành tựu to lớn. Từ đầu năm 2011, nền kinh tế Mỹ được phục hồi và cải thiện

hơn sau cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Điều này đã làm cho tỷ trọng xuất

khẩu hàng dệt may của tỉnh ở Mỹ chiếm hơn 50% kim ngạch xuất khẩu ngành.

Sản phẩm xuất sang thị trường này chủ yếu là các sản phẩm may mặc như

comple, sơ mi, áo may ô,....

Thị trường Nhật Bản là thị trường truyền thống của tỉnh và cũng là một trong

những thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất của Việt Nam. Tỉnh Thái Bình

đã thiết lập và duy trì quan hệ buôn bán với Nhật Bản từ những năm 90 của thế kỷ

20 cho tới nay. Ngành dệt may tỉnh Thái Bình xuất khẩu sang Nhật Bản những sản

phẩm bao gồm khăn bông, khăn tắm, xơ, hàng may mặc,…. Tuy nhiên, một số

năm gần đây, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu sang thị trường này bị giảm sút. Sở dĩ

có tình trạng như vậy bởi ngành dệt may tỉnh đang vấp phải sự cạnh tranh gay gắt

của các đối thủ cạnh tranh lớn mạng trong lĩnh vực xuất khẩu hàng dệt ma là

Trung Quôc, Thái Lan, Indonexia,… Ngoài ra còn có sự cạnh tranh về giá giữa các

công ty xuất khẩu hàng dệt may ngoài tỉnh. Các công ty này liên tục tự giảm giá để



27

SV: Hoàng Đình Khải



Lớp: KTQT 52A



Chuyên đề thực tập tốt nghiệp



GVHD: ThS. Nguyễn Bích Ngọc



cạnh tranh giành quyền được ký hợp đồng xuất khẩu. Mặt khác Nhật Bản cũng

vừa trải qua cuộc suy thoái kinh tế cũng như thảm họa động đất sóng thần. Vậy

nên chi tiêu của người dân cũng chặt chẽ hơn trong giai đoạn hiện nay.

Thị trường EU cũng là thị trường xuất khẩu hàng may mặc truyền thống

của tỉnh Thái Bình nói riêng và của ngành dệt may Việt Nam nói chung, với hơn

500 triệu người tiêu dùng luôn đòi hỏi chất lượng cao, kiểu dáng mẩu mã phong

phú đa dạng và hợp thời trang. Xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang EU

phát triển mạnh từ khi Hiệp định buôn bán dệt may giữa Việt Nam và EU được

ký kết ngày 15/12/1992 và tốc độ tăng trưởng bình quân liên tục tăng suốt từ thời

gian đó đến nay. Những năm gần đây hàng dệt may của tỉnh trên thị trường này

cũng gặp phải sự cạnh tranh quyết liệt của hàng Trung Quốc, Thái Lan, Ấn Độ,

…về giá cả và mẫu mã, cộng với việc EU cũng tạo thêm nhiều rào cản đối với

hàng may mặc xuất khẩu bằng các quy định hết sực nghiêm ngặt. Để duy trì được

thị phần xuất khẩu ở EU, ngành dệt may của tỉnh cần giải quyết tốt bài toán về

nâng cao chất lượng đồng thời hạ giá thành sản phẩm của mình kết hợp với việc

nghiên cứu tìm hiểu kỹ thị trường, có chiến lược quảng cáo bài bản, tận dụng mọi

cơ hội, nhất là những dịp hội chợ triển lãm.

Ở những thị trường khác, tỷ trọng xuất khẩu hàng dệt may nhìn chung cũng

tăng qua các năm, tuy nhiên vẫn còn biến động, chưa thực sự tao được vị thế ổn

định trên những thị trường đó. Những năm gần đây cũng đánh dấu mở rộng xuất

khẩu trên nhiều thị trường mới như Úc, New zealand, Chi lê,…. Mặc dù tỷ trọng

xuất khẩu ở thị trường này vẫn chưa đóng góp đáng kể cho tổng kim ngạch xuất

khẩu, nhưng nó đã đánh dấu sự nỗ lực thích ứng của ngành dệt may tỉnh trong

thời kỳ kinh tế thế giới vẫn chưa hoàn toàn vượt qua được cuộc suy thoái.

2.2.4. Chất lượng mặt hàng dệt may xuất khẩu

Các doanh nghiệp dệt may tỉnh Thái Bình đã triển khai thực hiện phương án

cải tiến tổ chức sản xuất, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất của

ngành may từ khâu đầu đến khâu cuối tại một số các nhà máy may. Kết quả bước

đầu đã nâng cao chất lượng sản phẩm và năng suất lao động ở các đơn vị may

tăng lên từ 10 - 20 %, góp phần thực hiện có hiệu quả các giải pháp nâng cao



28

SV: Hoàng Đình Khải



Lớp: KTQT 52A



Chuyên đề thực tập tốt nghiệp



GVHD: ThS. Nguyễn Bích Ngọc



chất lượng, năng suất lao động, thực hành tiết kiệm,giảm chi phí, nâng cao hiệu

quả hoạt động sản xuất kinh doanh và năng lực cạnh tranh trên thị trường.

Tuy nhiên do điều kiện kỹ thật, công nghệ còn hạn chế nên đa số sản phẩm

dệt may xuất khẩu của tỉnh vẫn thuộc nhóm trung bình, hàm lượng công nghệ

thấp, chất lượng còn khiêm tốn. Trong tương lai khi nhu cầu của khách hàng khắt

khe hơn, khi sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh (như Trung Quốc, Ấn Độ, Thái

Lan,…) cải tiến hơn về chất lượng thì sản phẩm dệt may cần phải có một bước

tiến lớn về chất lượng mới có thể giữ được các thị trường.

Hàng dệt may xuất khẩu của tỉnh cũng đã có sự đa dạng về chủng loại, thêm

các mặt hàng mới có tiềm năng như áo len, áo nỉ, bít tất...bên cạnh các mặt hàng

xuất khấu có tính truyền thống như áo comple, áo sơmi, quần các loại. Mẫu mã,

hình thức và màu sắc cũng phong phú hơn. Các doanh nghiệp dệt may của tỉnh

đã có sự đầu tư hơn về chất xám và sự sáng tạo trong sản phẩm.

2.2.5. Giá và chi phí sản xuất mặt hàng dệt may xuất khẩu

Nguồn nguyên, phụ liệu sản xuất hàng dệt may tỉnh Thái Bình nói riêng và

Việt Nam nói chung hầu hết phải nhập khẩu do nguồn cung trong nước không đủ

và không đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp sản xuất. Do các nhóm

ngành công nghiệp phụ trợ của dệt may kém phát triển; ngành sản xuất sợi hạn

chế về công nghệ, máy móc, năng suất và chất lượng, không đáp ứng được nhu

cầu của ngành… dẫn đến ngành dệt may xuất khẩu hoàn toàn bị động về nguyên

liệu. Thông thường, nhu cầu về nguyên liệu nhập khẩu để bảo đảm sản xuất cần

đến 95% xơ bông, 70% sợi tổng hợp, 40% sợi xơ ngắn, 40% vải dệt kim và 60%

vải dệt thoi, dẫn đến bình quân khoảng 70% nguyên, phụ liệu dệt may tỉnh đang

phải nhập khẩu. Do quá phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu nên mỗi khi giá

nguyên liệu tăng, lập tức ảnh hưởng đến giá trị gia tăng của chuỗi giá trị xuất

khẩu dệt may tỉnh Thái Bình. Điển hình là giá bông nhập khẩu năm 2013 có lúc

lên tới 5-5,2 USD/kg, trong khi giá trung bình của năm 2012 là khoảng 3,2-3,3

USD/kg, tức là tăng 80-90% (gần gấp đôi so với năm 2012) làm cho kim ngạch

nhập khẩu bông tăng xấp xỉ 120%; xơ sợi tăng gần 70% so với năm 2012.



29

SV: Hoàng Đình Khải



Lớp: KTQT 52A



Chuyên đề thực tập tốt nghiệp



GVHD: ThS. Nguyễn Bích Ngọc



Đối với ngành dệt may của tỉnh nói chung, chi phí nhân công luôn chiếm

65% của tổng chi phí sản xuất. Hiện số doanh nghiệp đủ sức trả mức lương trung

bình từ 4 - 5 triệu đồng/tháng/người là tương đối ít. Còn các doanh nghiệp vừa và

nhỏ chỉ trả dao động trên dưới 3 triệu đồng/người/tháng. Giá lao động rẻ nhưng

chất lượng lao động không cao, đặc biệt lao động có trình độ chuyên môn thấp

chiếm đến 60% trên tổng số lao động trong ngành nên năng suất lao động thấp.

Từ ngày 01/07/2013 Nhà nước đã quy định tăng mức lương tối thiểu thêm

100,000 lên mức 1,150,000 đồng/tháng. Điều này đã gây tăng chi phí trả lương

công nhân cho các doanh nghiệp sản xuất dệt may trong tỉnh.

Các chi phí trung gian khác như phí cảng biển, bưu chính viễn thông...khá

cao. Giá nước sạch tại của tỉnh hiện nay là 4000đ/m3. Giá điện khoảng

1500đ/KWh.Chi phí cơ sở hạ tầng cũng ở mức cao khoảng 400-1200 ngàn

đồng/m 2/50 năm. Chi phí trung gian này so với một số nước cạnh tranh còn khá

cao nên giá thành cao đã làm giảm đi khả năng cạnh tranh của hàng dệt may tỉnh.

2.2.6. Hình thức xuất khẩu và kênh phân phối mặt hàng dệt may xuất khẩu

Hình thức xuất khẩu hàng dệt may chủ yếu mà ngành dệt may Thái Bình

thực hiện là gia công quốc tế, xuất khẩu trực tiếp và xuất khẩu ủy thác.

Gia công quốc tế là một hình thức kinh doanh trong đó một bên nhận gia

công nguyên vật liệu hay bán sản phẩm của bên kia đặt gia công nhằm thu lợi

nhuận (phí gia công) gồm một số hình thức như gia công thuê, gia công mua đứt

bán đoạn và gia công kết hợp. Với hình thức gia công quốc tế này ở Thái Bình áp

dụng nhiều với mặt hàng may mặc, khách hàng nước ngoài chuyển nguyên liệu

như vải chỉ sang để gia công hàng thêu ren; bên doanh nghiệp nhận sản xuất và

chỉ nhận phí gia công. Hình thức xuất khẩu này đang chiếm tỷ trọng lớn trong

xuất khẩu dệt may tỉnh Thái Bình với khoảng 80%.

Xuất khẩu trực tiếp là xuất khẩu hàng hoá do chính doanh nghiệp sản xuất

hoặc đặt mua của các doanh nghiệp sản xuất trong nước sau đó xuất khẩu sản

phẩm này với danh nghĩa là hàng của mình cho khách nước ngoài. Với loại hình

xuất khẩu này đem lại nhiều lợi nhuận cho danh nghiệp xuất khẩu hàng hoá do

không mất chi phí trung gian và tăng được uy tín cho doanh nghiệp nếu hàng hoá

thoả mãn và đáp ứng được yêu cầu của đối tác giao dịch. Tại Thái Bình, trong



30

SV: Hoàng Đình Khải



Lớp: KTQT 52A



Chuyên đề thực tập tốt nghiệp



GVHD: ThS. Nguyễn Bích Ngọc



thời gian qua hình thức xuất khẩu trực tiếp này tập trung tại một số doanh nghiệp

có đội ngũ cán bộ nghiệp vụ thành thạo và có bạn hàng trực tiếp ở nước ngoài

như Công ty Xuất nhập khẩu tỉnh Thái Bình, công ty Maxsport,…. Hình thức này

chiếm khoảng 19% kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may

Xuất khẩu ủy thác là hình thức xuất khẩu mà doanh nghiệp ngoại thương với

vai trò trung gian xuất khẩu thay cho các đơn vị sản xuất bằng các thủ tục cần thiết

để xuất khẩu và hưởng phí uỷ thác theo giá trị xuất khẩu.Thông thường khi xuất

khẩu ủy thác, các công ty chỉ thu được 1 đến 2 % giá trị hợp đồng. Hình thức này

chiếm tỷ trọng nhỏ nhất trong kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may với chỉ 1%.

2.3. Đánh giá hoạt động xuất khẩu mặt hàng dệt may tỉnh Thái Bình

2.3.1 Thành công và nguyên nhân

-



Thành công:



+ Dệt may luôn là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của tỉnh Thái Bình, chiếm tỷ

trọng lớn nhất trong cơ cấu hàng xuất khẩu, có số lượng tăng ổn định, năm sau

cao hơn năm trước về khối lượng, giá trị hàng hoá và cơ cấu mặt hàng xuất khẩu.

Kim ngạch xuất khẩu có mức tăng trưởng khá cao khoảng 30%/năm: năm 2008

đạt 199927 nghìn USD đến năm 2013 đạt 748820 nghìn USD.

+ Thị trường xuất khẩu hàng hoá được mở rộng thêm. Thị trường xuất khẩu

trước đây chủ yếu là Mỹ, EU, Nhật Bản thì hiện nay hàng dệt may đã xuất khẩu

sang nhiều thị trường, có nhiều thị trường tiềm năng như: Úc, New zealand,

Trung Quốc,….

+ Cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu ngày càng đa dạng. Bên cạnh các mặt

hàng chủ lực như hàng may mặc, khăn bông, xơ,…. Thì ngành dệt may cũng chú

trọng hơn đến các sản phẩm sợi, găng tay, bít tất,…, đồng thời cũng nâng cao

chất lượng sản phẩm để có thể vượt qua những rào cản kỹ thuật của các nước

nhập khẩu.

+ Sản xuất, xuất khẩu hàng dệt may đã tạo hàng vạn việc làm cho người lao

động, góp phần tích cực vào giải quyết thất nghiệp cho một tỉnh đông dân như

Thái Bình.

+ Các doanh nghiệp bước đầu đã quan tâm đến việc đào tạo đội ngũ cán bộ

làm công tác xuất khẩu có trình độ, am hiểu về nghiệp vụ marketing, tạo mẫu, tổ



31

SV: Hoàng Đình Khải



Lớp: KTQT 52A



Chuyên đề thực tập tốt nghiệp



GVHD: ThS. Nguyễn Bích Ngọc



chức sản xuất, xuất khẩu... có tinh thần trách nhiệm, chủ động sáng tạo trong

công việc tìm kiếm bạn hàng, phát triển các thị trường mới, thị trường tiềm năng

để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu. Các doanh nghiệp xuất khẩu đã biết phát huy

lợi thế của địa phương về nguồn nhân lực dồi dào, chi phí nhân công thấp, để đa

dạng hoá các hình thức xuất khẩu như: xuất khẩu trực tiếp, gián tiếp, gia công

xuất khẩu.

+ Các doanh nghiệp đã quan tâm đến công tác xúc tiến thương mại, tạo thị

trường ổn định, khai thác thị trường theo cả chiều rộng và chiều sâu. Góp phần

xây dựng hình ảnh tích cực của tỉnh Thái Bình trên thị trường trong nước và

quốc tế, tiếp tục duy trì thị trường truyền thống, đồng thời mở rộng thị trường

mới, thị trường tiềm năng.

-



Nguyên nhân:



+ Thái Bình nằm trong vùng kinh tế trọng điểm thuộc đồng bằng sông

Hồng, có cảng Diêm Điền thuận lợi cho xuất khẩu hàng hóa. Khu công nghiệp

Nguyễn Đức Cảnh của tỉnh được biết đến là một trong 20 khu công nghiệp dệt

may lớn nhất Việt Nam.

+ Tỉnh có đông dân cư, trong đó người trong độ tuổi lao động chiếm đa số,

nhu cầu lao động, việc làm và thu nhập đang hết sức cấp thiết. Vì thế các doanh

nghiệp dệt may luôn có nguồn nhân công dồi dào, giá rẻ. Gần đây các doanh

nghiệp dệt may trên địa bàn đã chủ động chuyển đầu tư mở rộng sản xuất về tận

các cụm công nghiệp các huyện, xây dựng xưởng tại các xã để tạo việc làm tại

chỗ cho người lao động.

+ Về đầu tư trang thiết bị, công nghệ cho sản phẩm dệt may những năm gần

đây đã có nhiều chuyển biến rõ rệt. Nhóm sản xuất sợi đều đầu tư các máy móc,

thiết bị, công nghệ mới, hiện đại của thế giới; Nhóm dệt khăn, dệt vải trừ một số

doanh nghiệp đầu tư máy dệt hiện đại còn lại chủ yếu thiết bị cổ truyền, lạc hậu

tại các làng nghề; Nhóm may mặc, trừ các doanh nghiệp đã đầu tư trước đây, còn

lại đều sử dụng máy may, máy chuyên dùng có chất lượng cao, hiện đại, nhất là

doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

+ Ủy ban Nhân dân tỉnh cũng ban hành nhiều cơ chế, chính sách thuận lợi

cho các doanh nghiệp xuất khẩu nói chung và doanh nghiệp sản xuất hàng dệt



32

SV: Hoàng Đình Khải



Lớp: KTQT 52A



Chuyên đề thực tập tốt nghiệp



GVHD: ThS. Nguyễn Bích Ngọc



may nói riêng. Xác định dệt may là ngành xuất khẩu mũi nhọn nên tỉnh cũng đã

thực hiện việc quy hoạch phát triển ngành dệt may, da giầy giai đoạn 2011 –

2020 tạo các định hướng phát triển ngành sản xuất xuất khẩu dệt may đi đúng

hướng.

2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân

- Hạn chế:

+ Xuất khẩu dệt may có sự tăng trưởng không đều giữa các năm. Giai đoạn

2010-2013 tăng trưởng chậm, giai đoạn trước đó tăng trưởng rất nhanh.

+ Hình thức xuất khẩu của ngành dệt may Thái Bình chủ yếu vẫn là gia

công xuất khẩu. Vì thế lợi nhuận đem lại từ hoạt động xuất khẩu chưa cao, thu

nhập của người lao động còn bấp bênh và thương hiệu các doanh nghiệp còn

chưa được biết đến nhiều.

+ Mặc dù đã chú trọng tìm kiếm nguồn nguyên phụ liệu đầu vào trong nước

nhưng nguyên phụ liệu chủ yếu sử dụng trong sản xuất phần lớn vẫn phải nhập

khẩu khiến cho tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm thấp, sản xuất bấp bênh vì phụ thuộc

vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu cũng như khó kiểm soát chất lượng.

+ Hoạt động xúc tiến và khuếch trương của các doanh nghiệp trên phương tiện

truyền thông, thông tin đại chúng còn yếu, gần như chưa được phát huy và đi vào

thực hiện. Trong khi đó trình độ công nghệ của các doanh nghiệp còn thấp, chủng

loại nghèo nàn, giá thành cao hơn so với các nước như Trung Quốc, Thái Lan,…

dẫn đến năng lực cạnh tranh sản phẩm còn kém.

+ Chất lượng sản phẩm vẫn chưa hoàn toàn đáp ứng được những tiêu chuẩn

khắt khe của các thị trường nhập khẩu về bảo vệ môi trường, đảm bảo an toàn và

sức khỏe người tiêu dùng, đảm bảo điều kiện làm việc cho người lao động,….

+ Công tác nghiên cứu thị trường và tìm kiếm khách hàng chưa đạt hiệu

quả cao. Một số doanh nghiệp có khả năng sản xuất còn hạn hẹp, khó đáp ứng

các lô hàng lớn.

-



Nguyên nhân:



+ Nhiều doanh nghiệp dệt may thiếu vốn, làm hạn chế việc đầu tư cho hoạt

động nghiên cứu thị trường, xúc tiến, quảng bá sản phẩm, đầu tư máy móc.



33

SV: Hoàng Đình Khải



Lớp: KTQT 52A



Chuyên đề thực tập tốt nghiệp



GVHD: ThS. Nguyễn Bích Ngọc



+ Nguồn cung ứng nguyên vật liệu chưa ổn định, chủ yếu phải nhập khẩu từ

nước ngoài. Nhiều trường hợp, mặc dù hợp đồng mua vải đã được ký với đối tác

nhưng vẫn bị giao hàng chậm, có thời điểm chậm tới nửa tháng. Có một số doanh

nghiệp khó khăn hơn do không tìm được nguồn hàng để mua, ảnh hưởng tới tiến

độ, công nhân phải tạm ngừng sản xuất.

+Lực lượng lao động của tỉnh dồi dào, tuy nhiên không ổn định, tình trạng

lao động bỏ việc, tự do chuyển chỗ làm khá phổ biến.

+ Trong mấy năm gần đây, lạm phát và sự biến động tỷ giá đã ảnh hưởng

tiêu cực đến hoạt động sản xuất sản phẩm xuất khẩu của các doanh nghiệp. Việc

Nhà nước điều chỉnh tỷ giá theo hướng tăng giá trị ngoại tệ sẽ có tác dụng hạn

chế nhập siêu. Tuy nhiên, đối với ngành dệt may, hạn chế nhập khẩu cũng đi đôi

với việc hạn chế xuất khẩu, bởi doanh nghiệp dệt may phải nhập khẩu tới hơn

70% nguyên liệu để sản xuất do nguyên liệu trong nước không đủ cung cấp.

+ Sản phẩm xuất khẩu của các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may Việt Nam

nói chung và tỉnh Thái Bình nói riêng đang phải cạnh tranh rất quyết liệt với các

quốc gia xuất khẩu dệt may lớn khác trên thế giới như Trung Quốc, Ấn Độ,

Pakistan…

+ Sự biến động kinh tế thế giới trong những năm gần đây là khó khăn nằm

ngoài tầm kiểm soát của các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp xuất

khẩu dệt may nói riêng. Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn

cầu, bắt nguồn từ Mỹ năm 2007 và cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu đã làm

giảm đáng kể nhu cầu đối với hàng dệt may xuất khẩu.



34

SV: Hoàng Đình Khải



Lớp: KTQT 52A



Chuyên đề thực tập tốt nghiệp



GVHD: ThS. Nguyễn Bích Ngọc



CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU MẶT

HÀNG DỆT MAY TỈNH THÁI BÌNH

3.1. Giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng dệt may tỉnh Thái Bình

3.1.1. Giải pháp từ phía tỉnh Thái Bình



3.1.1.1. Hoạt động xúc tiến thương mại

Đổi mới hoạt động xúc tiến thương mại theo hướng tăng cường hoạt động,

đổi mới nội dung và phương pháp hoạt động của cơ quan xúc tiến thương mại để

nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn kinh phí ngân sách của tỉnh hỗ trợ xúc tiến

thương mại, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia cung cấp dịch vụ xúc

tiến thương mại; xây dựng chương trình, kế hoạch có tính chiến lược kết hợp linh

hoạt với các chương trình xúc tiến thương mại quốc gia để mở rộng thị trường và

triển khai thực hiện quảng bá sản phẩm hàng hoá của tỉnh trên thị trường thế giới;

quan tâm hỗ trợ xây dựng thương hiệu sản phẩm và thương hiệu doanh nghiệp;

Nâng cao vai trò của cơ quan nhà nước trong dự báo, thông tin thị trường và định

hướng phát triển thị trường xuất khẩu (củng cố và mở rộng thị trường truyền

thống, tạo lập một số thị trường xuất khẩu mới) đảm bảo hoạt động xúc tiến

thương mại mang tính trọng tâm, trọng điểm. Tỉnh cần quan tâm đầu tư tạo điều

kiện thuận lợi cho hoạt động xúc tiến thương mại như:

-



Thúc đẩy các doanh nghiệp, các doanh ngiệp sản xuất hàng dệt may

tiếp cận thị trường nước ngoài và tìm biện pháp thu hút khách hàng

nước ngoài vào Thái Bình. Hỗ trợ doanh nghiệp phát triển thị trường

xuất khẩu truyền thống tìm kiếm thị trường mới có nhu cầu lớn:

Ngoài việc phát triển thị trường truyền thống, nhà nước cần có

chương trình hỗ trợ việc xúc tiến thương mại cho các doanh nghiệp

thâm nhập sâu rộng hơn các thị trường mới như ASEAN, Mỹ la tinh,

châu Phi, Trung cận đông...



-



Xây dựng cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động xúc tiến thương mại

chung của toàn tỉnh như: Xây dựng và phát triển Trung tâm xúc tiến

thương mại - đầu tư của tỉnh ngày càng lớn mạnh; thiết lập các

phòng giới thiệu sản phẩm của tỉnh Thái Bình tại các thị trường



35

SV: Hoàng Đình Khải



Lớp: KTQT 52A



Chuyên đề thực tập tốt nghiệp



GVHD: ThS. Nguyễn Bích Ngọc



trọng điểm ở trong và ngoài nước, trước mắt do hạn chế về mặt

nguồn lực, tỉnh Thái Bình nên lập các phòng trưng bày tại các trung

tâm kinh tế lớn của nước như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và tại

thành phố Thái Bình, các trung tâm này sẽ là hội sở giao dịch của

các nhà sản xuất, các doanh nghiệp tỉnh Thái Bình với khách hàng

trong và ngoài nước.

-



Đầu tư vốn, công nghệ, cán bộ cho hoạt động xúc tiến thương mại,

tổ chức nghiên cứu thị trường, thông tin thị trường, giúp các doanh

nghiệp trong hoạt động tiếp thị và xúc tiến thương mại; hỗ trợ các

doanh nghiệp tìm kiếm thị trường xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ.



-



Tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các doanh nghiệp thành lập chi

nhánh, văn phòng đại diện ở nước ngoài để đẩy mạnh hoạt động tiếp

thị, xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường, khuyến khích các cá

nhân và tổ chức có khả năng và điều kiện ở trong nước cũng như

người Việt Nam ở nước ngoài tích cực tham gia vào việc xúc tiến

thương mại, tìm kiếm và mở rộng thị trường...



3.1.1.2. Thu hút vốn đầu tư cho ngành dệt may

-



Đối với Thái Bình, sản xuất là gốc của xuất khẩu hàng hóa, do đó

muốn đẩy mạnh sản xuất xuất khẩu hàng dệt may phải đặc biệt chú

trọng đến công tác thu hút đầu tư cả trong và ngoài nước nhằm tăng

thêm các nguồn vốn đầu tư. Xác định thu hút vốn đầu tư trong và

ngoài nước đóng vai trò to lớn, là nhân tố đột phá cho sản xuất hành

dệt may xuất khẩu của tỉnh. Do đó cần phải có những cơ chế, vận

dụng chính sách sao cho phù hợp để tạo được môi trường đầu tư hấp

dẫn, thông thoáng, đặc biệt thu hút được nguồn vốn đầu tư trực tiếp

nước ngoài.



-



Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các khu công nghiệp, cụm công

nghiệp và thực hiện ưu đãi cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước.

Vừa xúc tiến, quảng bá hình ảnh, ưu thế của tỉnh tới các nhà đầu tư

vừa có cơ chế, chính sách thu hút cụ thể với các nhà đầu tư. Xác định



36

SV: Hoàng Đình Khải



Lớp: KTQT 52A



Chuyên đề thực tập tốt nghiệp



GVHD: ThS. Nguyễn Bích Ngọc



các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài là một bước đột phá mạnh mẽ

cho sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may của tỉnh.

-



Khuyến khích thu hút đầu tư sản xuất phải gắn liền với việc phân

luồng đầu tư, chọn lọc dự án đầu tư, tránh tình trạng chấp nhận đầu

tư bằng mọi giá; hướng tập trung đầu tư sản xuất có công nghệ hiện

đại, hàm lượng chất xám cao, giá trị gia tăng lớn ở Thành phố Thái

Bình, đưa các dự án sử dụng nhiều lao động về thị trấn và các vùng

nông thôn.



-



Triển khai thực hiện tốt các Luật đầu tư, luật doanh nghiệp tới các cơ

quan ban ngành và các doanh nghiệp trong tỉnh. Thực hiện tốt chương

trình cải cách hành chính, hoàn thành và thực hiện nghiêm túc “cơ chế

một cửa”, đảm bảo công khai, minh bạch, tạo thuận lợi, nhanh chóng

thủ tục hành chính cho các nhà đầu tư.



3.1.1.3. Phát triển nguồn nhân lực

Thái Bình cần sớm có chính sách hỗ trợ khuyến khích, thu hút và đào tạo

những cán bộ ở bậc đại học và trên đại học cho ngành dệt may của tỉnh, khắc

phục tình trạng thiếu kỹ sư chuyên ngành về may mặc, dệt trầm trọng hiện nay và

có thể còn kéo dài trong vài năm tới. Đầu tư cho các trường dạy nghề, đào tạo

ngày càng nhiều công nhân kỹ thuật lành nghề đáp ứng được yêu cầu sản xuất

theo dây chuyền công nghệ hiện đại, nhằm đào tạo một đội ngũ công nhân có tay

nghề cao, thực sự trở thành thế mạnh về nhân lực của ngành dệt may.

Ưu tiên đào tạo các chuyên gia về thiết kế mẫu thời trang và công tác

nghiên cứu thị trường tiêu thụ, khắc phục điểm yếu cơ bản của ngành may mặc

xuất khẩu trong khâu thiết kế mẫu mốt và xúc tiến thị trường, từng bước tạo lập

cơ sở để nâng cao hiệu quả xuất khẩu trực tiếp các sản phẩm may mặc mang

thương hiệu của các doanh nghiệp dệt may Thái Bình trên thị trường thế giới

Đối với doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, để thành

công thì điều tiên quyết là phải có đội ngũ cán bộ làm công tác xuất nhập khẩu

lành nghề, am hiểu cơ chế, giải pháp xuất nhập khẩu quốc tế và kịp thời xử lý

tình huống, đáp ứng nhu cầu của buôn bán quốc tế, nắm bắt được các thông tin

về sự thay đổi nhu cầu và giá cả của thị trường, những nguyên nhân gây nên sự



37

SV: Hoàng Đình Khải



Lớp: KTQT 52A



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.docx) (52 trang)

×