Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (619.43 KB, 38 trang )
người tiêu dùng. Còn khi trợ giá trực tiếp cho bên cung (nhà sản xuất) thì Nhà
nước sẽ quy định giá bán thấp hơn giá đảm bảo kinh doanh của doanh nghiệp
và trợ giá cho doanh nghiệp phần chênh lệch giá đó, nghĩa là Nhà nước bù
doanh thu cho doanh nghiệp. Trợ giá là một trong những cách thức trợ cấp
của Nhà nước.
Muốn người dân tiêu thụ sản phẩm vận tải thì Nhà nước phải khuyến khích
lợi ích cho họ (hạ giá vé) và đồng thời Nhà nước cũng phải bảo đảm lợi ích
cho nhà sản xuất (đơn vị vận tải) vì giá vé thấp hơn giá thành nên phải trợ giá
cho bên cung. Trợ giá theo sản phẩm sẽ kích thích doanh nghiệp tăng sản
lượng đáp ứng nhiều hơn nhu cầu vận chuyển, mặt khác tích cực phấn đấu
giảm chi phí để tăng lợi nhuận.
Việc trợ giá của Nhà nước đối với VTHKCC không nên coi là một hình thức
bao cấp bù lỗ mà thực chất đó là Nhà nước thuê doanh nghiệp thực hiện
nhiệm vụ phục vụ lợi ích chung toàn xã hội, tạo ra sản phẩm dịch vụ để đáp
ứng nhu cầu đi lại của người dân.
Tóm lại, trợ giá cho VTHKCC được hiểu là tập hợp các chính sách tác động
(trực tiếp hoặc gián tiếp) của Nhà nước đến quá trình sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm ở các đơn vị VTHKCC nhằm thu hút thị dân sử dụng VTHKCC, giảm
bớt việc sử dụng phương tiện vận tải cá nhân.
Trợ giá là một vấn đề phức tạp, hiệu quả của nó phần lớn được quyết định
bởi việc xác định rõ đối tượng được hưởng trợ giá, hình thức trợ giá, các yếu
tố ảnh hưởng đến mức trợ giá… Còn mức độ trợ giá cao hay thấp lại phụ
thuộc vào rất nhiều yếu tố, đặc biệt là yếu tố giá thành và mức độ đấp ứng
nhu cầu đi lại, giữa chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau cho nên phải
xem xét đầy đủ mọi khía cạnh khi xây dựng phương án trợ giá cụ thể.
b. Sự cần thiết phải trợ giá cho vận tải hành khách công cộng
Do đặc điểm của VTHKCC trong thành phố: công suất luồng hành khách
biến động theo không gian và thời gian rất lớn, cự ly đi lại bình quân của hành
khách nhỏ, cự ly giữa 2 điểm dừng ngắn, xe bus phải hoạt động trong điều
kiện mật độ giao thông rất lớn nên giá thành cho 1 hành khách/km rất cao (giá
thành phụ thuộc vào chiều dàu chuyến đi theo hypepol) trong khi phải có giá
cước “hấp dẫn” để đảm bảo sự thu hút của VTHKCC và phụ thuộc cho mục
tiêu lợi ích xã hội. Cho nên Nhà nước cần có chính sách trợ giá cho các đơn vị
thực hiện VTHKCC ở đô thị sao cho các đơn vị này vẫn đảm bảo được chức
năng kinh doanh của mình trong điều kiện phải giảm giá vé, phải bán vé với
giá thấp hơn giá thành, tức là trợ giá nhằm đảm bảo cho giá vé thực tế bằng
giá vé kinh doanh.
Đây là điều kiện bao trùm nhất nhằm đảm bảo lợi ích cho các nhà đầu tư
trong lĩnh vực này và như vậy tất yếu ở hầu hết các thành phố phải trợ giá cho
VTHKCC mới có thể duy trì và phát triển được.
Tuy nhiên, điều đáng chú ý nhất là tỷ lệ giữa doanh thu - chi phí không tỷ lệ
với giá nhiên liệu và giá vé cho một chuyến đi, phần lớn các doanh nghiệp thu
không đủ để bù đắp chi phí.
Để duy trì và phát triển VTHKCC, đồng thời thực hiện mục tiêu lợi ích xã
hội, hầu hết các thành phố và các nước đã trợ giá cho VTHKCC, đặc biệt là
vận tải buýt.
VTHKCC không phải là hoạt động kinh doanh thuần túy mà là một hoạt
động mang tính xã hội. Nó không chỉ là một yêu cầu quan trọng đối với việc
phát triển kinh tế văn hóa xã hội ở đô thị mà còn một trong những tiêu chuẩn
để đánh giá trình độ phát triển văn minh đô thị. Nó góp phần thiết lập và duy
trì trật tự kỷ cương giao thông đô thị, hạn chế tình trạng ách tắc, tai nạn giao
thông, ô nhiễm môi trường đô thị… Do đó trợ giá cho VTHKCC ở đô thị
chính là thực hiện một chính sách xã hội về phúc lợi công cộng.
Để giải quyết mâu thuẫn lớn tồn tại trong VTHKCC nói chung và vận tải
buýt nói riêng đó là mâu thuẫn giữa cần nâng cao chất lượng và mức độ phục
vụ hành khách bằng vận tải công cộng với khả năng tài chính hạn chế của đơn
vị sản xuất kinh doanh vận tải thì yêu cầu trợ giá là một yếu tố khách quan,
vì:
+ Giá thành vận chuyển buýt cao hơn vận chuyển liên tỉnh 20 – 30%
+ Chi phí cho một chuyến đi bằng xe buýt của người dân là quá lớn so với thu
nhập và so với việc sử dụng phương tiện cá nhân (xe đạp, xe máy) nếu như họ
phải mua vé bằng giá vé đảm bảo kinh doanh là giá tính theo giá trị thực của
sản phẩm vận tải mà doanh nghiệp tính toán nó bao gồm giá thành và lãi định
mức của một sản phẩm.
+ Nếu giảm giá vé để người dân có đủ khả năng tài chính để sử dụng xe buýt
thì đơn vị sản xuất kinh doanh sẽ bị thua lỗ và không có khả năng tài chính để
thực hiện quá trình vận tải.
Như vậy, do đặc điểm và tính chất phục vụ của mạng lưới VTHKCC nói
chung và hệ thống xe buýt nói riêng việc trợ giá cho chúng là cần thiết và cấp
Các yếu tố
bách để mang lại hiệu quả kinh ảnh hưởng đếnto lớn hơn đó là nâng cao tỷ lệ sử
tế xã hội mức trợgiá
dụng VTHKCC, giảm tỷ lệ sử dụng vận tải cá nhân.
c. Các yếu tố ảnh hưởng đến mức giá cho VTHKCC ở đô thị
Yếu tố khách quan
Yếu tố chủ quan
Mức trợ giá cho VTHKCC nói chung và vận tải xe buýt nói riêng ở đô thị
phụ thuộc vào hàng loạt các yếu tố. Một cách tổng quan, có thể phân loại yếu
Các chế độ tài chính của Nhà nước (thuế, lệ phí…) nhu cầuđầu vào choĐặc tính khai thác của phương tiện độ tổtuyến quản lý và điều hành
Nhu cầu đi lại và đặcgiá cả các yếu tố đi lại
Thị trường và tính của
hoạt động VTHKCC Đặc tính khai thác của chức
Trình
Chính sách giá
vé
tố ảnh hưởng đến mức trợ giá thể hiệnkiệnsơ đồ sau (hình 1.1).
ở giao thông
Điều
Hình 1.1: Sơ đồ các yếu tố ảnh hưởng đến mức trợ giá
Yếu tố ảnh hưởng đến doanh thu
Yếu tố ảnh hưởng đến chi phí
Qua sơ đồ phân loại trên cho thấy: Các yếu tố ảnh hưởng đến mức trợ giá cho
VTHKCC suy cho cùng đó là doanh thu từ hoạt động của hệ thống VTHKCC
và chi phí cho việc vận hành hệ thống đó.
+ Doanh thu từ hoạt động của hệ thống VTHKCC được hình thành từ các
nguồn chủ yếu sau:
- Doanh thu từ bán vé cho hành khách đi trên tuyến.
- Doanh thu từ vé tháng.
- Doanh thu từ hoạt động quảng cáo.
- Doanh thu từ các dịch vụ có liên quan.
+ Chi phí vận hành của hệ thống VTHKCC: là tất cả những chi phí đảm bảo
cho quá trình hoạt động của hệ thống. Tùy theo từng trường hợp các khoản
chi phí vận hành này có thể phân loại thành các nhóm chi phí khác nhau theo
tiêu thức phân loại khác nhau.
Đối với VTHKCC bằng xe buýt thì các yếu tố ảnh hưởng chủ yếu đến mức
trợ giá cho hình thức vận tải này gồm các yếu tố sau:
* Ảnh hưởng của nhu cầu đi lại và đặc tính nhu cầu đi lại trong vùng thu hút
của mạng lưới tuyến xe buýt công cộng.
Yếu tố này được biểu thị thông qua các chỉ tiêu như: tổng nhu cầu đi lại của
người dân trong vùng thu hút trên tuyến, hệ số biến động luồng hành khách
trên tuyến theo thời gian (giờ trong ngày, ngày trong tuần) và theo hướng
( hướng đi và hướng về), cơ cấu luồng hành khách trên tuyến theo: Mục đích
chuyến đi, cự ly đi lại, loại phương tiện sử dụng, lứa tuổi nghề nghiệp…
2.1.1.2. Các hình thức trợ giá cho VTHKCC bằng xe buýt
Mục tiêu của việc trợ giá cho VTHKCC nhìn chung là giống nhau. Tuy vậy
hình thức thực hiện lại hết sức đa dạng và phong phú. Về cơ bản, việc trợ giá
cho VTHKCC bằng xe buýt có thể phân ra làm hai nhóm hình thức chủ yếu
đó là: các hình thức trợ giá trực tiếp và các hìnhthức trợ giá gián tiếp.
a. Chính sách trợ giá trực tiếp
Về nguyên tắc chính sách trợ giá có thể được thực hiện cho bên cung (đơn vị
VTHKCC) hoặc cho bên cầu (người sử dụng phương tiện VTHKCC).
- Trợ giá trực tiếp cho bên cung
Nhà nước dùng chính sách trợ giá trực tiếp tác động vào bên cung bằng cách
bổ sung doanh thu cho các đơn vị VTHKCC. Hình thức này, được thực hiện
khi Nhà nước yêu cầu các đơn vị vận tải giảm giá vé và được tài trợ để bù đắp
lại những thiệt hại cho những đơn vị vân tải do giảm giá vé, nhưng việc tài trợ
này khác hẳn với việc bao cấp bù lỗ trước kia là sau khi bù đắp thì đơn vị vận
tải phải thực hiện các nghiệp vụ như một đơn vị sản xuất bình thường. Cụ thể
việc tài trợ do giảm giá vé như sau:
+Nếu giá vé thấp hơn giá thành thì việc tài trợ gồm khoản bù đắp do không đủ
chi phí và khoản lợi ích tài chính (lãi) của đơn vị vân tải khi bỏ vốn ra kinh
doanh.
+ Nếu giá vé bằng giá thành sản phẩm thì việc tài trợ chỉ phải bù đắp phần lợi
ích tài chính (lãi).
Hình thức trợ giá này có ưu điểm là khuyến khích họ đầu tư vào VTHKCC.
Trong trường hợp này lợi ích của người sản xuất và người tiêu dùng đều được
đảm bảo.
Tuy nhiên hình thức trợ giá này có nhược điểm là người làm công tác vận tải
có sự trông chờ vào Nhà nước và chưa thực sự chú trọng vào kết quả sản xuất
của mình.
- Trợ giá trực tiếp cho bên cầu
Nếu Nhà nước áp dụng hình thức trợ giá bên cầu bằng cách bổ sung thu
nhập cho người sử dụng phương tiện VTHKCC thì có thể đảm bảo cho các
đơn vị VTHKCC tiến hành hoạt động kinh doanh bình thường. Người tiêu
dùng được tăng them thu nhập, nhưng song thay vì dùng số tiền đó để mua
sản phẩm VTHKCC thì họ lại có thể sử dụng vào mục đích tiêu dùng cá nhân
khác. Lúc đó mục tiêu của thành phố sẽ không đạt được. Mặt khác áp dụng
hình thức này rất khó xác định được đối tượng và số lượng được trợ giá và
cũng khó quản lý về mặt tài chính khi tiến hành trợ giá.
b. Chính sách trợ giá gián tiếp
- Nhà nước tạo môi trường thuận lợi cho VTHKCC hoạt động ngày một thu
hút đông đảo hành khách sử dụng phương tiện vận tải này bằng cách:
+Mở rộng mạng lưới tuyến, nâng cấp các tuyến hoạt động của VTHKCC:
Ưu điểm: Góp phần vào làm giảm chi phí vận chuyển từ đó giảm giá vé,
thu hút được hành khách đi phương tiện VTHKCC.
Nhược điểm : việc mở rộng tuyến rất tốn kém và đội khi có thể không thực
hiện được do nhiều yếu tố như: không gian đô thị chật hẹp, chi phí xây dựng
cao…
+ Nhà nước có thể dùng chính sách thuế đánh vào phương tiện vận tải cá
nhân, trên tuyến VTHKCC hoạt động thì cấm các loại phương tiện vận tải cá
nhân khác hoạt động.
Ưu điểm: Tạo đà cho VTHKCC hoạt động tránh được sự cạnh tranh của
các hình thức vận tải khác hoạt động trên tuyến.
Nhược điểm: Làm mất quyền tự do dân chủ của con người, nếu VTHKCC
độc quyền kinh doanh sẽ không tích cực phát huy moi khả năng, ỷ vào thế
độc quyền của mình
- Nhà nước tạo điểu kiện cho VTHKCC hoạt động được bình thường, không
ngừng nâng cao chất lượng phục vụ hành khách bằng cách:
+ Ưu đãi về tài chính đối với các yếu tố đầu vào và đầu ra của sản xuất.
Dùng chính sách giá ưu đãi các yếu tố đầu vào của hoạt động vận tải như:
giảm thuế vốn, lãi suất tín dụng, thuế nhập khẩu phương tiện, thuế đất, miễn
thuế nhập nhiên liệu, phụ tùng.
Dùng chính sách miễn phí giảm thuế các yếu tố đầu ra của các hoạt động sản
xuất vận tải như: miễn thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiêp.
+ Cho phép các đơn vị vận tải kinh doanh các dịch vụ hỗ trợ mà không phải
nộp thuế.
Ưu điểm: Góp phần hạ thấp chi phí cho VTHKCC do có sự ưu đãi các yếu
tố đầu vào và đầu ra.
Nhược điểm : Người làm công tác vận tải có thể tranh thủ dựa vào sự ưu
đãi của Nhà nước để thực hiện các mục tiêu kinh doanh của mình. Lúc đó
mục tiêu của Nhà nước có thể sẽ không được thực hiện.
Như vậy, việc trợ giá có thể được thực hiện đối với bên cung hoặc bên cầu.
Với cùng một mức độ trợ giá, khi trợ giá cho bên cung thì có tác động trực
tiếp đến cả bên cung và bên cầu. Còn nếu trợ giá cho bên cầu thường có tác
động trực tiếp cho bên cầu, còn đối với bên cung chỉ có tác động ở một mức
độ nhất định.
Khi trợ giá cho bên cung thì Nhà nước đòi hỏi bên cung phải bán sản phẩm ở
một mức giá nhất định (nhỏ hơn giá đảm bảo kinh doanh) để thị dân dễ chấp
nhận. Giá này sẽ gây thiệt hại cho bên cung nhưng sẽ có lợi cho bên cầu và sẽ
kích thích được bên cầu mua sản phẩm VTHKCC. Sự thiệt hại do giảm giá vé
sẽ được Nhà nước bù đắp phần chênh lệch giữa giá vé thực tế thu của hành
khách và giá vé đảm bảo kinh doanh cho các đơn vị VTHKCC. Trong trường
hợp này thì hành khách sử dụng VTHKCC cũng sẽ được lợi, còn các đơn vị
VTHKCC cũng đảm bảo được hiệu quả kinh doanh.
Khi trợ giá cho bên cầu, tức là bổ sung thu nhập cho hành khách sử dụng
VTHKCC, lúc đó hành khách sẽ cân nhắc nên hay không nên đi lại bằng
phương tiện VTHKCC họ có thể sử dụng loại phương tiện vận tải này khi
nhận được tài trợ của Nhà nước hoặc cũng có thể sử dụng nguồn tài chính đó
vào các mục đích khác có lợi hơn cho họ. Trong trường hợp này thì việc xác
định đối tượng được hưởng trợ giá là hết sức phức tạp.
Qua phân tích ở trên ta thấy, việc trợ giá cho VTHKCC nói chung và vận tải
xe buýt nói riêng, để thỏa mãn được mục tiêu, điều tiết tiêu dùng sản phẩm
vận tải thì hình thức trợ giá cho bên cung ưu việt hơn cả nên được lựa chọn để
thực thi trợ giá cho VTHKCC ở các đô thị lớn Việt Nam. Kinh nghiệm ở
nhiều nước trong lĩnh vực này cũng chứng minh điều đó. Việc trợ giá cho bên
cung phải căn cứ vào mức giá đảm bảo kinh doanh và mức giá quy định yêu
cầu phải thực hiện.
Các hình thức trợ giá cho VTHKCC có thể mô phỏng ở sơ đồ sau:
Các hình thức trợ giá
Trợ giá trực tiếp
Bên cung
Bù doanh thu
Trợ giá gián tiếp
Bên cungcung
Bên cầu
Bù thu nhập
Tạo môi trườngkiện ưu đãi và nâng cao chất lượng dịch vụ hành khách:
Tạo điều hoạt động thuận lợi:
- Mở rộng và nâng cấp mạng lưới tuyến. tố đầu vào và đầu ra của sản xuất vận tải (miễn giảm thuế, lệ phí,
- Ưu đãi về tài chính đối với các yếu
- Các giải pháp hạn chế phương tiện vậnhỗ trợ nhân
- Cho phép kinh doanh hoạt động tải cá
Sơ đồ các hình thức trợ giá
2.1.1.3. Các phương thức xác định mức trợ giá cho VTHKCC
a. Tính trợ giá theo lượt hành khách
Nội dung của phương thức này: căn cứ vào số lượt hành khách đi xe ( số vé
bán ra và mức trợ giá cho 1 hành khách ) người ta xác định được tổng mức trợ
giá và mức trợ giá cho một hành khách được xác định dực trên cơ sở so sánh
chênh lệch giữa giá đảm bảo kinh doanh với giá vé quy định.
- Ưu điểm: Khuyến khích được các đơn vị vận tải tăng năng suất phương tiện,
tích cực chạy xe trong giờ cao điểm và các tuyến có đông khách để vận
chuyển và như vậy sẽ nâng cao được số lượng hành khách đi xe bus.
- Nhược điểm: Dễ xảy ra trường hợp bỏ chuyến ở những giờ thấp điểm và các
tuyến mới mở rộng lượng hành khách đi xe ít do biểu đồ chạy xe dễ bị phá
vỡ. Trong trường hợp này khó đảm bảo chất lượng phục vụ hành khách.
Phương thức này áp dụng khi mạng lưới tuyến đã hoạt động mang tính ổn
định và cơ quan quản lý Nhà nước có đủ điều kiện để giám sát chất lượng
phục vụ hành khách.
b. Tính trợ giá theo số chuyến xe
Căn cứ vào số chuyến xe theo biểu đồ quy định và mức trợ giá cho một
chuyến xe để xác định mức trợ giá.
- Ưu điểm: Đảm bảo chạy đủ số chuyến xe theo quy định dù có ít khách xe
vẫn chạy theo biểu đồ, như vậy sẽ phục vụ được hành khách trong tất cả các
giờ cao điểm, thấp điểm, bình thường và tất cả các tuyến.
- Nhược điểm: Về mức trợ giá không phụ thuộc vào số lượng hành khách
bình quân trên chuyến nên đơn vị vận tải sẽ ít hoặc không quan tâm đến việc
tăng năng suất phương tiện, nâng cao hiệu quả sử dụng phương tiện để tận thu
cho Nhà nước. Nếu quản lý giờ giấc xe chạy không chặt chẽ thì dễ xảy ra hiện
tượng lái xe bỏ chuyến trong giờ cao điểm mà tăng chuyến trong giờ thấp
điểm, miễn sao chạy đủ số chuyến và thích chọn tuyến ít khách, Nhà nước chỉ
dựa vào số chuyến xe để duyệt trợ giá
c. Tính trợ giá theo lượt hành khách và theo tổng km xe chạy
Theo cách tính này thì trợ giá được chia làm 2 phần:
- Trợ giá tính theo lượt hành khách thì tính tương tự như phương thức một
nhưng trong chi phí chưa có khấu hao cơ bản. Phần này đơn vị vận tải được
sử dụng để bù đắp chi phí và lợi ích tài chính.
- Trợ giá theo KM xe chạy (tính theo mức khấu hao cơ bản trên 1 km xe chạy)
để đưa vào quỹ đầu tư phương tiện.
+ Ưu điểm: Nhà nước sẽ quản lý được hai chỉ tiêu về lượt khách vận chuyển
và tổng km xe chạy. Khuyến khích các đơn vị vận tải tăng năng suất phương
tiện để vận chuyển được nhiều hành khách và chạy đủ số km định mức. Số
tiền trợ giá đảm bảo duy trì được hoạt động sản xuất của doanh nghiệp trong
hiện tại và trong tương lai lâu dài vì luôn có phần tiển trợ giá để dành cho việc
mua sắm phương tiện mới.
+ Nhược điểm: Việc thống kê Km xe chạy đòi hỏi chính xác, tốn công sức đê
tránh trường hợp kéo dài km xe chạy mà không có hiệu quả, gây lãng phí cho
đơn vị vận tải và Nhà nước, phương thức này được áp dụng nhiều ở nước
Nga.
2.1.2 Hiện trạng công tác trợ giá cho VTHKCC bằng xe buýt ở Hà Nội
2.1.2.1 Hình thức trợ giá hiện nay đang tiến hành tại Hà Nội
Hện nay Hà Nội đang áp dụng cả hai hình thức trợ giá là trợ giá trực tiếp và
trợ giá gián tiếp cho VTHKCC bằng xe buýt.
a. Hình thức trợ giá trực tiếp
Trong giai đoạn ban đầu hình thức trợ giá trực tiếp cho các đơn vị kinh
doanh VTHKCC bằng xe buýt là một trong những giải pháp khuyến khích
quan trọng bởi vì nó phát huy được hiểu quả tức thời. Về lâu dài hình thức trợ
giá trực tiếp sẽ giảm dần và sử dụng hình thức trợ giá gián tiếp là chủ yếu.