Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (784.35 KB, 162 trang )
Quy hoạch chi tiết
Quy hoạch hành động
Hiện nay trong quy họach chúng ta mới chú trọng tới quy họach vùng và quy
họach chung mà ít quan tâm tới quy hoạch chi tiết do vậy trong qúa trình thực
hiện gặp không ít khó khăn.
Quy họach chi tiết là cụ thể hoá ý đồ của quy hoạch chung xây dựng đô thị.
Đồ án quy hoạch chi tiết phân chia và quy định cụ thể chế độ sử dụng đất đai cho
từng chức năng công cộng hoặc riêng lẻ, xác định chỉ giới xây dựng, phân rõ chức
năng cụ thể và tỉ trọng xây dựng cho từng loại đất theo cơ cấu thống nhất. Ngoài
ra, nó còn nghiên cứu bố trí các hạng mục công trình xây dựng trong từng lô đất
nhằm nêu rõ ý đồ về bố cục không gian kiến trúc quy họach.
Quy họach hành động (Action planning) là một loại quy hoạch chi tiết thể
hiện cao tính khoa học trong việc phân tích và lựa chọn phương án. Nguyên tắc
của quy hoạch hành động hiện đại được đúc kết qua kinh nghiệm trong khoảng 12
năm gần đây ở các nước phát triển. Nó đang trở thành một loại hình quy hoạch có
nội dung và chất lượng cao, hỗ trợ tích cực cho việc quyết định các phương án
đầu tư phù hợp với tình hình và điều kiện thực tế có sẵn ở địa phương, bao gồm
các khía cạnh kỹ thuật, tài chính và thể chế. Nó hướng tới sự hành động nhanh để
giải quyết các vấn đề đã nhất trí.
Quá trình của quy hoạch hành động được biểu hiện từ :
Đặt vấn đề.
Lập cơ cấu tổ chức
108
Đặt mục tiêu nguồn lực và dự án
Phân tích lựa chọn ưu tiên
Lập kế hoạch và thực hiện phương án
Quá trình này diễn ra một các khoa học theo phương pháp phân tích đối lực,
phương pháp so sánh. Đây là một loại quy hoạch mới chưa có trong quy hoạch đô
thị ở nước ta, nó rất thực tế và đã giúp các nhà quy hoạch và quản lý đô thị một
phương pháp nghiên cứu tiên tiến. Quy hoạch hành động có thể góp phần giải
quyết nhiều vấn đề bức bách của từng bộ phận quy hoạch, từng địa điểm cụ thể
của đô thị kể cả khi chưa có quy hoạch tổng thể.
3.Biện pháp nhằm tạo lập và phát triển hàng hoá cho thị trường BĐS.
Điều kiện để BĐS – nhà đất trở thành hàng hoá
Một là: Để của cải nói chung trở thành hàng hoá cần phải có hai điều kiện:
- Có sự phân công lao động xã hội đến mức nhất định
- Có tính cách biệt tương đối giữa chủ thể sản xuất
Hai là: Đất đai là loại tài sản đặc biệt nên phải có các điều kiện đặc biệt như
sau:
- Đất phải là sản phẩm của lao động do lao động con người phải đổ mồ hôi khai
phá, đổ xương máu giữ gìn mới có
- Đất phải có quyền sở hữu, quyền sử dụng tách biệt một cách rõ ràng được
pháp luật thừa nhận mới đem trao đổi giao dịch được như đem cho thuê, đem
chuyển nhượng thế chấp…
Trong luật đất đai (dự thảo sửa đổi) năm 2003 chuẩn bị trình Quốc hội kỳ họp
thứ 4 sắp tới
Điều 64: Loại đất đựơc tham gia thị trường BĐS gồm:
-Đất do tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng mà luật này cho phép chuyển
quyền sử dụng đất.
-Đất do tổ chức cá nhân, hộ gia đình, cá nhân thuê mà trên đó có tài sản
được pháp luật cho phép tham gia thị trường BĐS.
109
Điều 65: Ghi điều kiện để đất tham gia thị trường BĐS: Gồm hai điều kiện
- Có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không có tranh chấp.
- Đất mà Nhà nước giao, cho thuê để thực hiện các dự án đầu tư và đất theo
đúng dự án đã đựơc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xét duyệt.
Để có thị trường cần có hàng hoá. Theo quy hoạch từ nay đến năm 2010 nhu
cầu về đất rất lớn để phát triển kinh tế xã hội. Hàng hoá BĐS trên đất đưa ra giao
dịch trên thị trường trước hết phụ thuộc khả năng cung cầu về đất hàng hoá. Hiện
tại, đất hàng hoá do chưa đựơc tạo lập đầy đủ kịp thời có chất lượng nên việc tạo
lập các BĐS trên đất để đáp ứng nhu cầu của người sử dụng trực tiếp gặp nhiều
khó nhăn, trở ngại, ách tắc. Để thị trường BĐS có nhiều hàng hoá cần:
Khẩn trương hoàn thành việc lập hồ sơ địa chính
Khẩn trương cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho tổ chức, cá nhân,
hộ gia đình, nhất là đất đô thị và đất khu dân cư nông thôn. Do chưa có
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên một tỷ lệ rất lớn BĐS không thể
trở thành hàng hoá tham gia trên thị trường chính thức. Để đẩy nhanh tiến
độ, cần giảm bớt thủ tục xem xét, thẩm định của cơ quan quản lý nhà nứơc
các cấp
Cho phép các cơ quan hành chính sự nghiệp, các doanh nghiệp nhà nước,
các đơn vị lực lượng vũ trang tự sắp xếp lại trụ sở làm việc theo hướng các
cơ quan hành chính sự nghiệp, đơn vị lực lượng vũ trang, các doanh
nghiệp không hoạt động ở lĩnh vực thương mại, ngân hàng, tài chính, dịch
vụ… di chuyển khỏi các trung tâm thương mại, dịch vụ…Nhu cầu sử dụng
BĐS tại các trung tâm thương mại và dịch vụ là rất cao. Tuy nhiên hiện
nay nhìêu cơ quan Nhà nước, nhiều đơn vị hoạt động sự nghiệp, đơn vị lực
lượng vũ trang, doanh nghiệp sản xuất kinh doanh (không kinh doanh
trong lĩnh vực thương mại dịch vụ) đang có trụ sở tại các trung tâm thương
mại, dịch vụ. Trong khi, nhiều trụ sở của cơ qua hành chính sự nghiệp
đang rất xuống cấp, nhưng ngân sách Nhà nước lại chưa đủ khả năng tài
110
chính để sửa chữa, cải tạo, nâng cấp… Vì thế, cần chuyển trụ sở của những
đơn vị ra khỏi các trung tâm thương mại, dịch vụ.
Thực hiện hạ tầng có trước, lấy giá trị đất để phát triển hạ tầng tại chỗ. Nhà
nứơc chịu trách nhiệm thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất và giao
đất đã có hạ tầng cho các bên kinh doanh và sử dụng theo phương thức đấu
giá. Tuy nhiên Nhà nước cũng cần sớm ban hành các nguyên tắc đấu giá
để đảm bảo việc đấu giá đạt được hiệu quả cao.
Các biện pháp tăng cung hàng hoá BĐS – nhà đất bao gồm:
Tạo điều kiện phát triển các doanh nghiệp kinh doanh BĐS, thống nhất
mặt bằng chính sách đối với tất cả đối tượng tham gia tạo lập BĐS. áp
dụng cơ chế thống nhất về thuế và các chính sách hỗ trợ, khuyến khích.
Hoàn thiện công tác đấu thầu theo hướng tăng tỷ lệ tham gia bắt buộc của
khu vực ngoài quốc doanh, tránh tình trạng độc quyền.
Ban hành chính sách thu hút trực tiếp từ dân cư và các tổ chức kinh tế vào
việc tạo lập và kinh doanh BĐS, trong đó có việc phát triển thị trường
chứng khoán BĐS.
Đẩy nhanh việc bán nhà thuộc sở hữu Nhà nước theo hướng phân định
phạm vi các chính sách xã hội và phạm vi các chính sách thị trướng trong
việc cho thuê, bán nhà thuộc sở hữu Nhà nước. Theo hướng này, các đối
tượng chính sách xã hội được hưởng trợ cấp, còn thuê và mua nhà theo
nguyên tắc thị trường.
Mở rộng phạm vi giao dịch dân sự về BĐS theo hướng giảm bớt các hạn
chế về quyền trong giao dịch, mở rộng thêm các đối tượng được tham gia
thị trường BĐS như các doanh nghiệp, các cơ quan công quyền, các tổ
chức sự nghiệp, các cá nhân và tổ chức nước ngoài. Quy định cơ chế, thủ
tục rõ ràng nhằm đáp ứng những nhu cầu mang tính chất động như nhu
cầu chuyển mục đích kinh doanh, phá sản, di dời chuyển đổi trụ sở, cho
thuê lại v.v…
111
Mở rộng hơn nữa sự tham gia của người nước ngoài vào thị trường BĐS,
đặc biệt là vấn đề mua nhà ở, xây nhà để bán và cho thuê.
4.Xây dựng năng lực các thể chế và tổ chức tham gia thị trường BĐS.
Theo định nghĩa thể chế trong báo cáo năm 2002 của ngân hàng thế giới mang
tên “Xây đựng thể chế trợ lực thị trường”
“Thể chế là các quy tắc, cơ chế thi hành và các tổ chức …khác với chính sách
gồm có các mục tiêu và kết quả mong muốn, thể chế là những quy tắc, kể cả các
chuẩn mực về hành vi mà dựa vào đó các tác nhân tương tác với nhau. Thể chế
còn là các tổ chức để thể hiện các quy tắc và phạm vị đạo đức nhằm đạt được kết
quả mong muốn. Các chính sách ảnh hưởng tới việc thể chế nào sẽ thay đổi, còn
thể chế ảnh hưởng tới việc chính sách nào sẽ được áp dụng. Cấu trúc thể chế có
ảnh hưởng tới việc chính sách nào sẽ được áp dụng. Cấu trúc có thể ảnh hưởng
tới hành vi. Nhưng hành vi cũng có thể thay đổi trong khuôn khổ cấu trúc thể chế
đang tồn tại”
Ở nước ta, cải cách thể chế trong giai đoạn 2002 – 2010 nhằm vào 5 mục tiêu
cơ bản là:
- Bảo đảm hình thành đồng bộ hệ thống thể chế
- Tập trung vào việc hoàn thiện hệ thống thể chế kinh tế
- Hoàn thiện và đổi mới hệ thống thể chế hành chính
- Đẩy mạnh ban hành các thể chế dân sự
- Hoàn thiện và đổi mới hệ thống thể chế tư pháp
Hiện nay các tổ chức tham gia thị trường BĐS – nhà đất có thể khái quát
theo sơ đồ sau:
112
Thị trường tài
chính
Thị trường
tiêu dùng
Các tổ chức, cá nhân
kinh doanh BĐS
NHÀ NƯỚC
Người tiêu dùng
BĐS
Thị trường
BĐS -nhà đất
Thị trường
chứng khoán
Xây dựng năng lực các thể chế và tổ chức tham gia thị trường BĐS gồm các
việc như sau:
Nhà nước cần mở rộng phạm vi giao dịch dân sự về BĐS theo hướng giảm
bớt các hạn chế và quyền trong giao dịch, mở rộng thêm các đối tượng được
tham gia thị trường BĐS.
Nhà nước cần tạo điều kiện phát triển các doanh nghiệp kinh doanh BĐS,
thống nhất mặt bằng chính sách đối với tất cả các đối tượng tham gia tạo lập
BĐS. Áp dụng cơ chế thống nhất về thuế và các chính sách hỗ trợ, khuyến
khích. Hoàn thiện công tác đấu thầu theo hướng tăng tỷ lệ tham gia bắt buộc
của khu vực ngoài quốc doanh, tránh tình trạng độc quyền, “om” công trình
hoặc bán thầu tiêu cực. Trong trường hợp cần có sự tồn tại độc quyền tự
nhiên thì phải có cơ chế kiểm soát các tổ chức độc quyền này.
113
Đa dạng hoá các tổ chức tài chính và ban hành cơ chế để các tổ chức này
tham gia thị trường BĐS
Ban hành cơ chế chính sách thu hút đầu tư trực tiếp từ dân cư và các tổ chức
kinh tế vào việc tạo lập và kinh doanh BĐS, trong đó có việc phát triển thị
trường chứng khoán BĐS.
Ban hành cơ chế để các chủ đầu tư có thể vay vốn bằng việc thế chấp mảnh
đất đựơc Nhà nứơc giao cho hoặc thuê để thực hiện dự án.
Ban hành cơ chế hỗ trợ lãi suất, thuế… để khuyến khích các nhà đầu tư kinh
doanh BĐS đặc biệt về nhà ở đáp ứng nhu cầu của các nhóm đối tượng
chính sách như người có công với cách mạng, người có thu nhập thấp,
người nghèo.
Mở rộng hơn nữa sự tham gia của người nước ngoài vào thị trường BĐS
Để tổ chức và quản lý tốt thị trường, Nhà nước cần tổ chức sàn giao dịch
BĐS, các giao dịch về BĐS Nhà nước bắt buộc phải thông qua sàn giao dịch BĐS
nhà đất, sàn giao dịch này có thể thực hiện trực tiếp và đưa lên mạng để người
giao dịch có thể giao dịch thông qua Internet.
UBND CÁC
TỈNH, THÀNH
PHỐ
B
Ê
N
C
U
N
G
B
Ê
N
Các
điều
kiện
được
tham
gia
SÀN GIAO
DỊCH BĐS
114
Các
điều
kiện
được
tham
gia
C
Ầ
U
DỰ BÁO
115
5. Thúc đẩy sự phát triển của thị trường bằng việc sử dụng các biện pháp tài
chính
5.1. Thu tiền sử dụng đất
Hiện nay tiền sử dụng đất được thu tuỳ theo loại đất. Để giảm hiện tượng đầu
cơ đất Nhà nước nên thu tiền sử dụng đất luỹ tiến theo diện tích sử dụng:
n
G = ∑ i ∗t i
S
3.8
i=
1
Trong đó
S: diện tích sử dụng đất
t: thuế sử dụng đất đối với loại diện tích Si
n: loại diện tích thu luỹ tiến
- Đối với các tổ chức và cá nhân kinh doanh BĐS – nhà đất nhà nước cần có
chính sách hỗ trợ bằng cách chỉ thu tiền sử dụng đất khi các cá nhân hay doanh
nghiệp đã chuyển nhượng BĐS. Biện pháp này nhằm hỗ trợ vốn ban đầu cho các
cá nhân và doanh nghiệp có điều kiện tập trung đầu tư xây dựng các công trình
để đưa vào kinh doanh, tạo hàng hoá cho thị trường BĐS.
5.2 Đổi mới chính sách thuế quỳền sử dụng đất và lệ phí
Các khoản thuế và phí phải nộp khi thực hiện việc chuyển nhượng quyền sử
dụng đất cao và trùng lặp là một nguyên nhân khiến cho hiện tượng chuyển quyền
sử dụng đất, mua bán nhà trao tay không qua đăng ký với cơ quan qủan lý nhà
nước diễn ra phổ biến, tạo cơ sở cho thị trường BĐS – nhà đất phi chính thức hoạt
động mạnh. Đồng thời, việc mua bán trao tay cũng gây thất thu cho ngân sách
Nhà nước về thuế, phí liên quan đến chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Khi
chuyển quyền sử dụng đất (từ 2% đến 4%), còn người mua nộp lệ phí trứoc bạ
(1%). Hai khoản nộp này từ 3% đến 5% là khá nặng đối với cả người bán và
người mua, nhất là đối với hoạt động kinh doanh BĐS – nhà đất đồng thời có
phần trùng lặp. Để khuyến khích việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất có đăng
ký với cơ quan quản lý nhà nước, phát triển thị trường BĐS chính thức, đối với lệ
116
phí trước bạ, chỉ thu theo một mức cố định thay vì tỷ lệ % trên giá trị BĐS như
đang thực hiện.
Đối với thuế chuyển quyền sử dụng đất, định hướng lâu dài là bỏ thuế chuyển
quyền sử dụng đất, thay vào đó bằng loại thuế mới là thuế “giá trị tăng thêm của
đất”. Sắc thuế này đánh giá trên giá trị tăng thêm của đất khi chuyển chượng, thừa
kế, tạo ra việc đối xử công bằng đối với các đối tượng tham gia thị trưòng BĐS,
đối tượng đầu tư kinh doanh phát triển quỹ đất để chuyển chượng sau khi đầu tư,
xây dựng kết cấu hạ tầng cũng như đối tượng mua bán kinh doanh nhà gắn liền
với chuyển quyền sử dụng đất để lợi nhuận tương đương nhau nếu đầu tư vốn như
nhau và tạo điều kiện cho người dân chuyển nhượng nhà đất khi có nhu cầu thay
đổi chỗ ở, thuế không đánh vào vốn của người kinh doanh và qua đây Nhà nước
quản lý được thị trường BĐS.
Căn cứ tính thuế là diện tích đất chuyển quyền sử dụng, mức thuế và giá trị
tăng thêm của đất chuyển nhượng. Giá trị tăng thêm của đất bằng giá trị bán trừ đi
giá mua. Giá mua là giá tính thuế của lần mua trước, nếu không có lần mua trước
thì xác định bằng chi phí nhận quyền sử dụng đất hoặc chi phí khai thác đầu tư
vào đất. Sắc thuế này còn có thể áp dụng thuế suất luỹ tiến từng phần để điều tiết
thu nhập công bằng hơn khi chuyển quyền sử dụng đất có mức thu nhập quá cao
do điều kiện xã hội mang lại: do Nhà nước đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, do
quản lý Nhà nước lỏng lẻo mà người có được đất đai tốn chi phí hoặc không
chứng minh được chi phí đầu tư vào đất, áp dụng thuế suất nhiều bậc, còn có thể
áp dụng cho cả trường hợp chuyển mục đích sử dụng đất tạo ra thu nhập do chênh
lệch giá đất do Nhà nước quy định theo mục đích sử dụng đất.
Bên cạnh đó trước mắt cần đổi mới công tác thu tiền sử dụng đất, thuế
chuyển quyền sử dụng đất, lệ phí địa chính, lệ phí trước bạ, tập trung tất các
khoản thu trên vào một cơ quan quản lý nhà nước thì cả người mua và người bán
phải đến nhiều cơ quan làm thủ tục và thực hiện nghĩa vụ tài chính với Nhà nứơc.
117
Trước mắt, việc tổ chức thu các khoản thu trên vào cơ quan điạ chính, nhằm giảm
sự trùng lặp không cần thiết trong việc kiểm tra, xem xét hồ sơ của nhiều cơ quan
quản lý Nhà nước, tránh thủ tục hành chính phiền hà, khuyến khích giao dịch có
đăng ký với cơ quan quản lý Nhà nước.
Với các gỉai pháp hoàn thiện và đổi mới chính sách thuế chuyển quyền sử
dụng đất và lệ phí trước bạ nêu trên sẽ khuyến khích các giao dịch về BĐS có
đăng ký với cơ quan quản lý Nhà nước, hạn chế hoạt động của thị trường không
chính thức, phát triển thị trường chính thức, đồng thời tăng thu cho ngân sách nhà
nước.
5.3 Hỗ trợ tài chính cho người có thu nhập thấp mua hoặc thuê nhà ở.
Để giải quyết vấn đề này trước tiên phải có định nghĩa chính xác về người có
thu nhập thấp. Hiện nay có nhiều người có quan niệm rằng người nghèo và người
có thu nhập thấp là một. Đây là một quan niệm chưa đúng. Định nghĩa chính xác
về người có thu nhập thấp không phải là việc dễ dàng. Nhiều nghiên cứu đã
không đưa ra những tiêu chuẩn để định nghĩa về người có thu nhập thấp do vấn đề
này tuỳ thuộc vào điều kiện sống của từng hộ gia đình, tình hình phát triển kinh tế
– xã hội và phong tục tập quán của từng địa phương, từng dân tộc. Cho nên để
định nghĩa thế nào là người có thu nhập thấp cần tiến hành khảo sát xã hội về thu
nhập thấp và chi tiêu hộ gia đình.
Những khái niệm cơ bản về người có thu nhập thấp:
Người có thu nhập thấp là người có thu nhập bình quân đầu người hàng
tháng chỉ đủ trang trải những nhu cầu chi tiêu thiết yếu và mức sống của
họ chỉ trên mức sống bình quân tối thiểu một chút (kể cả nhu cầu thiết
yếu và nhu cầu đời sống).
Theo quan điểm của ngân hàng thế giới và tổ chức phát triển của Liên
Hợp Quốc (UNDP), người có thu nhập thấp là những người phải chi tiêu
ít nhất là 6% thu nhập cho ăn uống để tồn tại, 94% thu nhập còn lại được
118