1. Trang chủ >
  2. Giáo Dục - Đào Tạo >
  3. Cao đẳng - Đại học >

2- Vai trò của tín dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.58 MB, 191 trang )


Trong thời gian tập trung phát triển nông nghiệp và ưu tiên cho xuất khẩu …

Nhà nước đã tập trung tín dụng để tài trợ phát triển các ngành đó, từ đó tạo điều

kiện phát triển các ngành khác.

+ Thứ tư: Góp phần tác động đến việc tăng cường chế độ hạch toán kinh tế

của các doanh nghiệp.

Đặc trưng cơ bản của vốn tín dụng là sự vận động trên cơ sở hoàn trả và có lợi

tức, nhờ vậy mà hoạt động của tín dụng đã kích thích sử dụng vốn có hiệu quả.

Bằng cách tác động như vậy, đòi hỏi các doanh nghiệp khi sử dụng vốn tín dụng

phải quan tâm đến việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, giảm chi phí sản xuất, tăng

vòng quay của vốn, tạo điều kiện nâng cao doanh lợi của doanh nghiệp.

+ Thứ năm: Tạo điều kiện để phát triển các quan hệ kinh tế với nước ngoài.

Trong điều kiện kinh tế “mở”, tín dụng đã trở thành một trong những phương

tiện nối liền các nền kinh tế các nước với nhau.



V. LÃI SUẤT TÍN DỤNG

Lãi suất là một phạm trù kinh tế tổng hợp, có liên quan chặt chẽ đến một số

phạm trù kinh tế khác và đóng vai trò như là một đòn bẩy kinh tế cực kỳ nhạy bén

có ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động của doanh nghiệp và dân cư. Quan trọng

hơn, nó được Nhà nước sử dụng như một công cụ quản lý vĩ mô trong nền kinh tế

thị trường. Một nhà kinh tế học nổi tiếng của Pháp A.POIAL đã khẳng định: lãi suất

là một công cụ tích cực trong phát triển kinh tế và đồng thời lại là một công cụ kìm

hãm của chính sự phát triển ấy, tuỳ thuộc vào sự khôn ngoan hay khờ dại trong việc

sử dụng chúng.

Trong nền kinh tế kế hoạch hoá, vai trò của lãi suất được nhìn nhận một cách

hết sức mờ nhạt và lệ thuộc, nhiều khi được hiểu như sự phân chia cuối cùng của

sản xuất giữa giữa những người sản xuất, người đầu tư vốn và người cho vay.

Trong nền kinh tế thị trường, lãi suất được các nhà kinh tế học định nghĩa là

cái giá để vay mượn hoặc thuê những dịch vụ tiền. Vì việc vay mượn hoặc thuê

những dịch vụ tiền liên quan đến việc tạo ra tín dụng, do vậy, người ta có thể coi lãi

suất như là giá cả của tín dụng.



58



Trong nền kinh tế thị trường, có nhiều loại lãi suất khác nhau: lãi suất cầm cố

thế chấp, lãi suất về những trái khoán công ty, lãi suất về trái phiếu kho bạc, kỳ

phiếu thương mại và nhiều công cụ tín dụng khác. Vô số những lợi tức khác nhau

cùng tồn tại vào một thời điểm; do vậy, lãi suất được xem xét trên cơ sở sự khác

nhau về khả năng chuyển đổi trên thị trường vốn, rủi ro sai hẹn hoặc không trả được

nợ, độ dài kỳ hạn hoàn trả và những lý do về thuế.

Để tiện cho việc nghiên cứu, chúng ta đề cập đến lãi suất theo khái niệm này,

nhưng để đơn giản hoá, chúng ta loại trừ khả năng chuyển đổi và khả năng sai hẹn.



1. Khái niệm về thời giá

Một công cụ tín dụng như tín phiếu, trái phiếu kho bạc, giấy nhận thanh toán

nợ của chủ ngân hàng… bao giờ cũng bao hàm một sự thoả thuận giữa người mua

(người cho vay) trả số tiền nào đó để đổi lấy “quyền nhận những khoản tiền trong

tương lai”. Vì công cụ tín dụng liên quan đến những khoản tiền phải trả, được thực

hiện trong tương lai, do vậy tổng số tiền ghi trên giấy về những khoản phải trả này

cần thiết phải được chiết khấu để xác định thời giá ( giá bán hôm nay). Ví dụ một

công cụ hứa bảo đảm trả tiền mặt là 1000 đôla trong thời hạn một năm, thì bao giờ

giá bán cũng nhỏ hơn 1000 đôla, vì một cá nhân có 1000 đôla ngày hôm nay có thể

đặt số vốn đó vào tài khoản tiết kiệm hoặc một tích sản sinh lợi khác và sau một

năm có thể kiếm được hơn 1000 đôla.



2. Mối quan hệ giữa thời giá và lãi suất của công cụ tín dụng

Ta hãy xem xét công thức sau đây để đánh giá giá trị của một công cụ tín

dụng.

PV =



Cn

C1

C2

F

+

+L +

+

1 + i (1 + i )n

(1 + i )n (1 + i )n



Trong đó PV biểu hiện thời giá của quyền yêu sách.

C1, C2,…Cn : biểu hiện những khoản hoàn lại vào cuối năm thứ 1, 2,…,n.

Trong trường hợp của một trái phiếu, C đại diện khoản tiền trả theo phiếu hàng

năm.

F : biểu hiện giá trị ghi trên mặt công cụ, phải được hoàn trả năm đáo hạn.

i : biểu hiện lãi suất thị trường của những công cụ có thể so sánh được.

59



Vì lãi suất thị trường được dùng để chiết khấu dòng các khoản hoàn trả từ một

công cụ nợ để xác định thời giá của công cụ đó, nên rõ ràng thời giá và lãi suất thị

trường có mối quan hệ nghịch chiều: lãi suất thị trường tăng lên thì thời giá của

công cụ nợ giảm xuống và ngược lại. Công thức trên có thể được sử dụng để ước

tính thời giá của những loại công cụ tín dụng khác nhau.

Ví dụ: Một trái phiếu có mệnh giá là 1.000 USD, thời gian thanh toán 4 năm.

Số tiền mặt trả hàng năm cho người giữ trái phiếu 50 USD. Lãi suất của những công

cụ so sánh được là 5%.

Thời giá của trái phiếu sẽ là:

PV =



50

50

50

50

1.000

+

+

+

+

= 1.000 (USD)

2

3

4

1,05 (1,05)

(1,05) (1,05) (1,05)4



Nếu công cụ này được bán với giá thấp hơn 1.000 USD thì người ta sẽ bán

những chứng khoán khác đi để mua nó và ngược lại.

Nếu những lãi suất của những chứng khoán so sánh được là 6%, thì khi đó

thời giá của trái phiếu là:

PV =



50

50

50

50

1.000

+

+

+

+

= 965,34 (USD)

2

3

4

1,06 (1,06)

(1,06) (1,06) (1,06)4



Như vậy nếu công cụ này được mua với giá cao hơn 965,34 USD thì người ta

sẽ bán nó để mua các chứng khoán khác. Ví dụ trên minh họa mối liên hệ nghịch

giữa thời giá và lãi suất của một công cụ tín dụng.



3- Lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa

Về lý thuyết, hiện đang tồn tại hai quan điểm về lãi suất thực và lãi suất danh

nghĩa.

3.1. Quan điểm thứ nhất.

Lãi suất thực thường được hiểu là lãi suất được vận hành trong một không

gian và thời gian, trong đó giả định lạm phát luôn luôn bằng không. Trong điều kiện

không có lạm phát, lãi suất thực là tiêu chuẩn để xem xét hiệu quả của việc sử dụng

vốn. Lãi suất thực đóng vai trò quan trọng trong việc kích thích tiết kiệm hay đầu



60



tư, với ý nghĩa, kiềm chế ý muốn tiêu dùng hiện tại để có được một mức tiêu dùng

lớn hơn trong tương lai.

Thực tế, không thể lúc nào cũng tồn tại một thế giới mà lạm phát bằng không,

do đó đòi hỏi phải tiến hành nghiên cứu, tính toán để có được một lãi suất thực, tức

là phải tìm ra một số đo nào đó về lạm phát trên cơ sở đó trừ ra khỏi lãi suất danh

nghĩa để có được lãi suất thực. Phương pháp này xuất phát từ cách tính tỷ lệ lạm

phát trung bình được dự đoán, trên cơ sở độ dài của hợp đồng tín dụng hoặc các

công cụ tín dụng khác nhau.

Ví dụ, để tính lãi suất thực của trái phiếu kho bạc có thời hạn 90 ngày, ta có

thể lấy lãi suất danh nghĩa trừ đi tỷ lệ lạm phát hàng năm được dự đoán trong 90

ngày.

Việc dự đoán tỷ lệ lạm phát đòi hỏi phải tiến hành trong một thời gian dài, trên

cơ sở phân tích các dữ kiện của tình hình kinh tế trong nước và các nước khác. Đến

nay, công việc này còn rất phức tạp, độ tin cậy chưa cao.

Phải khẳng định rằng, trong điều kiện có lạm phát, chính lãi suất thực chứ

không phải lãi suất danh nghĩa ảnh hưởng đến đầu tư, đến công việc phân phối thu

nhập giữa những con nợ và chủ nợ và các “dòng chảy” về vốn.

+ Phương pháp tính lãi suất thực:

Hiện nay tồn tại hai phương pháp tính lãi suất thực. Một phương pháp lập theo

công thức không chú ý đến những lý do về thuế thu nhập và một phương pháp có

tính thuế thu nhập.

. Phương pháp được sử dụng phổ biến hiện nay là tính toán theo công thức:

r = i – Pe

Công thức này xác định lãi suất thực (r) chính là hiệu số giữa lãi suất danh

nghĩa (i) và tỷ lệ lạm phát được dự đoán hình thành trong suốt độ dài của chứng

khoán hoặc các công cụ tín dụng khác nhau (Pe). Ví dụ, nếu lãi suất của một trái

phiếu kho bạc là 14%/năm, và tỷ lệ lạm phát dự đoán cả năm là 7%, thì lãi suất

thực của trái phiếu kho bạc được ghi nhận là 7%.



61



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (191 trang)

×