Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (573.58 KB, 134 trang )
* Chiến lợc xúc tiến và hỗ trợ kinh doanh
Là chiến lợc bao gồm mọi hoạt động nhằm truyền bá những thông tin
về sản phẩm nh quảng cáo, kích thích tiêu thụ và các hoạt động khuyến mại
khác... tới ngời tiêu dùng. Chiến lợc này nhằm đẩy mạnh các luồng thông tin
hai chiều giữa nhà sản xuất và ngời tiêu dùng.
Nh vậy, Marketing-mix là loại Marketing phối hợp hài hoà các yếu tố
cơ bản của nó sao cho phù hợp với điều kiện thực tế của môi trờng kinh
doanh nhằm thu đợc lợi nhuận tối u.
Về nội dung có thể đa ra mô hình sau:
MM
P1
P2
P4
P3
Đỉnh chóp của Marketing-mix toả ra 4 trục chính xuống các điểm của
4P là MM-P1, MM-P2, MM-P3, MM-P4. Nh vậy, đỉnh chóp MM đã hình
thành sự phối hợp giữa các P. Do đó, tại bất kỳ điểm P nào cũng luôn luôn có
sự liên kết với các P khác. Mối liên kết giữa các P là mối liên hệ qua lại hai
chiều.
34
Nội dung phối hợp hài hoà 4P cần phải thực hiện đồng bộ theo một kế
hoạch thống nhất trong một thời gian nhất định nhằm đạt đợc hiệu quả tối u.
Muốn có đợc sự phối hợp thành công phải hiểu rõ vai trò của từng yếu tố P,
vừa phát hiện kịp thời mối liên hệ, tơng tác giữa chúng.
2.1.3. Vai trò của Marketing-mix trong kinh doanh
Theo định nghĩa về Marketing-mix thì đó là tập hợp những công cụ đợc
sử dụng để tạo sự thích ứng giữa sản phẩm và thị trờng mục tiêu. Nh vậy,
mục đích của Marketing-mix là đảm bảo rằng sản phẩm có thể đáp ứng đợc
thị trờng mục tiêu. Theo Kotler, 4P nằm dới sự kiểm soát của ngời bán (nhà
xuất khẩu) và đợc sử dụng để tác động đến ngời mua. Theo quan điểm của
ngời mua (nhà nhập khẩu) thì mỗi công cụ của Marketing đều có chức năng
cung ứng một ích lợi cho khách hàng. Trong xuất khẩu nói chung và xuất
khẩu gạo nói riêng, nếu đáp ứng đợc nhu cầu của khách hàng một cách tinh
tế, thuận tiện và thông tin hữu hiệu thì sẽ giành đợc thắng lợi. Nói một cách
khác, để tác động trực tiếp và có hiệu quả tới khách hàng thì các thành phần
của Marketing-mix phải đợc sử dụng một cách tổng hợp.
Marketing-mix đợc thiết kế theo những thủ tục sau: sản phẩm đợc thu
mua để đáp ứng nhu cầu của khách hàng (sản phẩm); địa điểm mà khách
hàng sẽ tìm chúng (địa điểm) và khách hàng sẽ biết nó là loại sản phẩm gì,
nó hoạt động nh thế nào (xúc tiến bán). Sau đó mức giá sẽ đợc ớc lợng với sự
cân nhắc đến tổng lợng cung cấp cho khách hàng. Quyết định đợc đa ra liên
quan đến cả 4 yếu tố trong Marketing-mix, bởi vì các yếu tố này đều có ảnh
hởng đến quá trình Marketing và đều có những đóng góp cho việc bán hàng.
2.2. Thực trạng xuất khẩu gạo của Việt Nam theo quan điểm
Marketing-mix
2.2.1. Sản phẩm
35
Trong 4 yếu tố của Marketing-mix, sản phẩm đóng vai trò quan trọng
nhất. Theo đề tài, sản phẩm đợc hiểu là các loại gạo xuất khẩu, phân tích
theo các bớc cơ bản: quá trình sản xuất, chất lợng và chủng loại...
2.2.1.1. Sản xuất lúa gạo - bớc khởi đầu cho xuất khẩu
Sản xuất lúa gạo đóng một vai trò rất quan trọng trong việc cung cấp lơng thực trong nớc và tạo ra lợng gạo d thừa dành cho xuất khẩu. Sản xuất
lúa gạo phụ thuộc vào các yếu tố chính nh diện tích đất trồng, khí hậu, nhân
công, phân bón...
Là một nớc nông nghiệp với 80% dân số sống và làm việc bằng nghề
nông, Việt Nam coi sản xuất lúa gạo là ngành sản xuất chính. Từ sau Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986, với những thay đổi trong đờng lối
chính sách, chúng ta đã đạt đợc những thành tựu đáng kể trong sản xuất lơng
thực nói chung và lúa gạo nói riêng. Từ chỗ thiếu lơng thực phải nhập khẩu
thờng xuyên, sau năm 1989, Việt Nam đã tự túc đợc lơng thực và có khối lợng xuất khẩu ngày càng tăng, đứng thứ hai, thứ ba trên thế giới. Sản lợng
lúa gạo tăng khá ổn định trên cả 3 mặt: diện tích, năng suất, chất lợng và
hiệu quả.
- Thứ nhất, về diện tích đất trồng, Việt Nam có gần 7 triệu ha đất dành cho
trồng trọt, chiếm 21% tổng diện tích của cả nớc. Hai vựa lúa chính là đồng
bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long đã chiếm tới 5,6 triệu ha,
trong đó đất trồng trọt chiếm diện tích lớn. Cụ thể đồng bằng sông Hồng
năm 1990 chiếm 17,5%, đến năm 1998 có giảm nhng đồng bằng sông Cửu
Long tăng từ 42% lên 51,8%. Nhìn chung diện tích đất trồng lúa cả nớc tăng
từ 5,89 triệu ha năm 1989 lên 7,33 triệu ha năm 1998, trung bình tăng
2,33%/năm.
- Thứ hai, về năng suất lúa cũng có những thay đổi đáng kể. Từ mức 26,6
tạ/ha năm 1976-1980, năng suất lúa bình quân trên cả nớc đã lên tới 32,5
tạ/ha năm 1981-1988; 34,8 tạ/ha năm 1989-1993; 38 tạ/ha năm 1994-1997
36
và 40 tạ/ha năm 2000, đạt nhịp độ tăng bình quân 4-5%/năm. Nh vậy,
khoảng 42-44% sản lợng thóc tăng do tăng diện tích, còn lại do tăng năng
suất. Điều đó có đợc nhờ ứng dụng nhiều tiến bộ KHKT, nhất là những tiến
bộ về giống lúa có năng suất và chất lợng cao nh CR 203, OM 80-81, IR 58,
IR 64 và các giống lúa lai Trung Quốc. Từ đó đã có những thay đổi trong cơ
cấu mùa vụ, tránh né đợc nhiều thiệt hại do thời tiết gây ra.
- Thứ ba, về sản lợng lúa. Do năng suất và diện tích sản xuất tăng và tăng
với tốc độ khá cao nên sản lợng lúa của cả nớc cũng tăng. Giai đoạn 19952000 sản lợng lơng thực hàng năm của nớc ta đạt trung bình 28,7 triệu tấn,
cao nhất so với những năm trớc. Cụ thể năm 1995 đạt 24,9 triệu tấn, năm
1996 đạt 26,4 triệu tấn, năm 1997 đạt 27,6 triệu tấn, năm 1998 đạt 29,1 triệu
tấn, năm 1999 đạt 31,4 triệu tấn, đặc biệt năm 2000 sản lợng lúa lên tới 32,5
triệu tấn. Dự kiến năm 2001 con số này sẽ giảm nhẹ xuống 31,4 triệu tấn.
Mặc dù tốc độ tăng dân số ở nớc ta còn cao nhng tốc độ tăng trởng của sản lợng lúa tăng nhanh hơn tốc độ tăng dân số nên lơng thực bình quân đầu ngời
cũng tăng qua các năm.
Sản lượng (tấn)
Biểu đồ 2.1: Sản lượng lúa qua từng năm
35000000
30000000
25000000
20000000
15000000
10000000
5000000
0
Sản lượng
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
Năm
Nguồn: Vụ xuất nhập khẩu - Bộ thơng mại
Nhìn chung, tình hình phát triển sản xuất lúa gạo ở Việt Nam trong
những năm qua có những dấu hiệu tích cực với những thành tích đáng kể. Có
đợc thành công đó là do thay đổi kịp thời và đúng đắn trong cơ chế quản lý,
đặc biệt là cơ chế khoán 10 năm 1988. Bên cạnh đó, những tiến bộ trong
37
các khâu cơ giới hoá, thuỷ lợi hoá và nghiên cứu sinh học cải tạo giống lúa
đã góp phần không nhỏ vào việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, cơ cấu mùa
vụ, tăng diện tích đất gieo trồng, thâm canh tăng năng suất lúa...
Tuy nhiên, dù đã có sự tiến bộ vợt bậc so với thời kỳ trớc, sản xuất lúa
gạo ở nớc ta vẫn còn biểu hiện những hạn chế khó tránh khỏi. Về mặt kỹ
thuật, dù đã áp dụng công nghệ mới nhng nhìn chung vẫn còn lạc hậu, phải
sử dụng lao động thủ công trên đồng ruộng. Năng suất lao động, chất lợng
sản phẩm tuy có sự cải thiện rõ nét nhng vẫn còn thấp so với các nớc trong
khu vực và trên thế giới. Chúng ta thờng chú trọng đến việc tạo ra số lợng
gạo lớn nhằm đảm bảo an ninh lơng thực trong nớc và xuất khẩu song lại
không quan tâm nhiều đến việc nâng cao chất lợng sản phẩm để tạo sức cạnh
tranh, nâng cao giá của mặt hàng gạo xuất khẩu trên thị trờng quốc tế.
Trong thời gian tới, sản xuất lúa gạo sẽ tập trung thực hiện ba mục tiêu:
đảm bảo vững chắc an ninh lơng thực quốc gia, thoả mãn nhu cầu lơng thực
cho tiêu dùng trong bất cứ tình huống nào; đảm bảo đủ nguyên liệu cho công
nghiệp chế biến và tăng khối lợng xuất khẩu với hiệu quả cao.
2.2.1.2. Chất lợng gạo xuất khẩu
* Chất lợng
Tuy trong những năm gần đây Việt Nam đạt vị trí cao về số lợng gạo
xuất khẩu nhng về chất lợng thì có nhiều yếu kém. Chất lợng của gạo nói
chung phụ thuộc nhiều vào các yếu tố tự nhiên và tác động của con ngời nh
đất đai, khí hậu, nớc tới, phân bón, giống lúa, chế biến, vận chuyển, bảo
quản... mà quan trọng nhất là giống lúa, các phơng pháp sản xuất và các
khâu sau thu hoạch.
- Về giống lúa: từ nhiều năm qua, Việt Nam đã nghiên cứu, chế tạo và áp
dụng nhiều giống lúa mới cho năng suất cao, chất lợng tốt và có khả năng
chống chịu giỏi với tình hình thời tiết, thiên tai, sâu bệnh. Tuy nhiên, các
giống lúa làm hàng xuất khẩu đòi hỏi những yêu cầu cao hơn các loại khác.
38
Ví dụ nh đồng bằng sông Cửu Long - chiếc nôi sản xuất gạo của nớc ta - có
tới 70 giống lúa khác nhau thì chỉ có 5 giống lúa có thể làm hàng xuất khẩu
đợc là IR 9729, IR 64, IR 59606, OM 132, và OM 997-6. Tơng tự nh vậy, ở
miền Bắc, lợng giống lúa cũng dừng lại ở con số 5 gồm C70, C71, CR 203,
Q5, IR 1832 là đủ tiêu chuẩn xuất khẩu, trên tổng số lợng giống lúa gieo
trồng khá phong phú. Qua đó cho thấy, giống lúa kém chất lợng là một
nguyên nhân quan trọng ảnh hởng đến chất lợng của gạo xuất khẩu Việt
Nam. So sánh với các quốc gia xuất khẩu gạo lớn trên thế giới nh Thái Lan,
ấn Độ thì thấy đợc rằng họ có những giống lúa có thể cho gạo có chất lợng
cao hơn nhiều. Điển hình là Thái Lan, cờng quốc hàng đầu về xuất khẩu gạo,
với giống lúa Khaodaumali chất lợng cao, với sản lợng xuất một năm là 1,2
triệu tấn. ấn Độ cũng rất tự hào với gạo Basmati, một loại gạo thơm đặc sản,
đang cạnh tranh gay gắt với hàng của Thái Lan và chiếm tỷ trọng lớn trong
tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của nớc này.
- Về phơng pháp sản xuất và các khâu sau thu hoạch, khâu đóng vai trò
khá quan trọng, quyết định tới chất lợng gạo xuất khẩu cũng còn nhiều bất
cập. Dù đã áp dụng các phơng pháp mới vào trong sản xuất nhng không toàn
bộ nên rất dễ ảnh hởng đến chất lợng khi thu hoạch. Sau khi gặt hái, hạt thóc
phải đợc xay xát, chế biến, bảo quản tốt nhằm làm tăng giá trị. Tuy nhiên,
thực tế cho thấy ngành công nghiệp xay xát chế biến lúa gạo ở nớc ta còn
nhỏ bé và thờng áp dụng những công nghệ lạc hậu. Cụ thể, công việc ở một
số khâu đợc tiến hành nh sau:
Phơi sấy: giai đoạn này phụ thuộc chủ yếu vào hệ thống kho chứa và cách
thức bảo quản, nhất là đối với một nớc có khí hậu nhiệt đới nh ở Việt Nam.
Kỹ thuật phơi nói chung thờng rất lạc hậu, nông dân thờng làm theo cách thủ
công. ở đồng bằng sông Cửu Long, nơi cung cấp tới 90% lợng gạo xuất khẩu
thì cũng phải trên 90% phơi thóc trên đờng giao thông, bờ kênh rạch, ngay
trên ruộng và phơi qua đêm. Cách phơi này rất bị động, lại gây tình trạng lẫn
39
lộn, lẫn tạp và nhất là hạt thóc không khô đều từ ngoài vào trong nên khi xay
xát tỷ lệ gạo gãy, gạo tấm cao làm giảm giá trị hạt gạo. Hiện nay trong nớc
đã có nhiều loại máy sấy có chất lợng tốt, song vì chi phí cao (cả đầu t ban
đầu cũng nh năng lợng cho quá trình sấy), thời gian sử dụng lại ngắn, chỉ
phù hợp với điều kiện sản xuất hàng hoá lớn nên cha phát triển.
Bảo quản: thóc sau khi phơi khô phải đợc bảo quản nơi thoáng mát, trong
những bao bì sạch, có khả năng hạn chế ẩm, mốc, sâu mọt. Nông dân thờng
bảo quản tại nhà. ở đồng bằng sông Hồng, nông dân thờng sử dụng các kho
không có hệ thống thông hơi và các thiết bị bảo vệ chống côn trùng và chuột.
Hơn nữa, khí hậu ở khu vực này rất khắc nghiệt với nhiệt độ trung bình là
26-280C và lên tới 36-370C vào mùa hè; độ ẩm là 80%, có lúc tới 100% nên
khó có thể bảo quản tốt lúa gạo xuất khẩu.
Các doanh nghiệp thờng có kho lớn hơn. Tuy nhiên, mạng lới kho từ lâu
năm, một số không phù hợp, chất lợng kho kém, thiếu phơng tiện bốc dỡ và
hầu hết vẫn dùng lao động thủ công.
Xay xát, tái chế: công nghiệp xay xát đóng vai trò rất quan trọng đối với
chất lợng gạo xuất khẩu. Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn, hiện nay có hơn 300 cơ sở xay xát quy mô vừa và 6.000 cơ sở quy
mô nhỏ có thể xử lý 15 triệu tấn gạo mỗi năm. Phần lớn các cơ sở này sử
dụng máy xát do các doanh nghiệp nhà nớc cung cấp, một số khác thì nhập
khẩu từ nớc ngoài. Tỷ lệ thu hồi gạo ở các cơ sở xay xát t nhân chỉ đạt 6062% trong đó gạo nguyên 42-45%, tấm 18-20%. Nh vậy, khâu xay xát ở khu
vực này nghiễm nhiên làm mất đi trên dới 10% giá trị do chất lợng gạo giảm.
Chỉ các nhà máy thuộc Tổng công ty lơng thực và công ty lơng thực ở các
tỉnh đợc trang bị máy tốt, các công đoạn đợc thực hiện hoàn chỉnh từ đầu đến
cuối (loại bỏ tạp trớc khi xay, bóc vỏ trấu, xát trắng, đánh bóng gạo, phân
loại gạo, tách màu và đóng bao) nên đạt tỷ lệ thu hồi gạo tới 75-76% (gạo
nguyên 52-55%).
40
Nhìn chung, công đoạn sau thu hoạch ở Việt Nam vẫn còn những yếu
kém. Theo những ghi nhận từ cuộc điều tra của Viện nghiên cứu sau thu
hoạch, những khu vực mục tiêu của đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng
sông Hồng và miền Trung thì tỷ lệ thất thoát của gạo là từ 13% đến 16%.
Đây là một tỷ lệ cao so với trung bình của thế giới (10%). Do đó thực tiễn
đòi hỏi chúng ta cần nâng cao hơn nữa các phơng pháp xử lý gạo sau khi thu
hoạch qua tất cả các công đoạn nh trang bị, làm mới công nghệ, cung cấp
các thiết bị hiện đại... Nh vậy mới có thể giảm tỷ lệ thất thoát, tăng chất lợng
và nâng cao khả năng cạnh tranh của gạo xuất khẩu Việt Nam trên thị trờng
quốc tế.
* Tỷ lệ tấm và các chỉ tiêu khác
Chất lợng gạo xuất khẩu phụ thuộc vào các tiêu thức khác nhau để đánh
giá. Trên thơng trờng gạo quốc tế, gạo đợc phân ra 5 loại thị hiếu, mỗi loại
có chất lợng khác nhau dựa trên các chỉ tiêu: tỷ lệ tấm, kích thớc hạt, độ ẩm,
mức độ đánh bóng, tỷ lệ amylaza, tỷ lệ protein, nhiệt hồ hoá, mùi thơm... và
ứng với mỗi loại chất lợng sẽ có giá mua khác nhau. Trong hoàn cảnh cụ thể
của Việt Nam là nớc mới xuất khẩu gạo từ 1989 thì bớc đầu các doanh
nghiệp chỉ quan tâm tới tỷ lệ tấm, kích thớc hạt và màu gạo. Đối với chỉ tiêu
tỷ lệ tấm, nếu gạo đạt tỷ lệ dới 10% đợc coi là chất lợng cao, 10-15% là chất
lợng trung bình và trên 15% là chất lợng thấp.
Bảng 2.2. Chất lợng gạo xuất khẩu (1989-2001)
(% so với tổng số lợng xuất khẩu năm đó)
Năm/Tỷ lệ % tấm
1989-1995 (*)
1996
1997
1998
Cấp trung bình
41,20
45,50
41,00
53,00
41
Cấp thấp (25-30%)
(15%)
14,15
11,00
9,00
11,00
Cấp cao (5-10%)
và loại khác
44,65
43,50
50,00
36,00
1999
2000
2001 (đến 31/8)
34,78
42,68
39,00
23,34
26,24
13,20
41,88
31,08
47,80
Nguồn: Vụ Xuất nhập khẩu-Bộ Thơng mại
Năm 1989 là năm đầu tiên Việt Nam xuất khẩu gạo, chủ yếu là gạo cấp
thấp (97,42%) còn gạo cấp trung bình và gạo cấp cao chiếm tỷ lệ ít. Đó là do
những đầu t về mặt kỹ thuật và chế biến của chúng ta có nhiều hạn chế dẫn
đến tỷ lệ tấm là 35% trong gạo, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong khối lợng xuất
khẩu, gây ra những thiệt thòi lớn. Xuất khẩu ở thời kỳ này do kém về chất lợng nên sức cạnh tranh kém dẫn đến việc chúng ta phải bán cho các nớc có
truyền thống xuất khẩu gạo để chế biến lại và tái xuất, chịu chi phí trung
gian cao. Qua nhiều năm, khi sản xuất đợc cải thiện, chất lợng gạo đã tiến bộ
do có nhiều giống mới và công tác chế biến, bảo quản tốt, Việt Nam đã có
nhiều loại gạo tốt đáp ứng yêu cầu cạnh tranh của thị trờng thế giới.
Xét về tỷ lệ tấm, chất lợng gạo xuất khẩu của Việt Nam có xu hớng
tăng tỷ lệ gạo cấp cao và trung bình, đồng thời giảm tỷ lệ gạo cấp thấp. Tuy
nhiên mức tăng không ổn định. Năm 1998, tỷ lệ gạo cấp cao là 53% tăng so
với 41,2% trung bình 7 năm (1989-1995). Trong năm 1999, gạo 5-10% tấm
lại giảm xuống còn 34,78%, thấp nhất so với các năm trớc. Dự báo năm 2001
tỷ lệ gạo theo thứ tự cấp cao, trung bình, thấp lần lợt là 39%, 13,2%, và
47,8% - một kết quả không mấy khả quan cho việc đánh giá chất lợng gạo
xuất khẩu dựa theo tỷ lệ tấm. Tình hình này cũng không có nghĩa chất lợng
gạo Việt Nam nói chung bị tụt lùi mà có thể là sự ứng xử hợp lý trong chiến
thuật kinh doanh xuất khẩu của ta căn cứ vào nhu cầu giá cả và diễn biến
thực tế của thị trờng gạo thế giới. Năm 2001 là năm kinh tế toàn cầu có nhiều
khó khăn, đặc biệt cả lợng gạo xuất-nhập đều có nguy cơ giảm so với năm
2000. Trong điều kiện giá gạo tăng, nhiều nớc nghèo chỉ có thể tiêu dùng
những loại gạo có chất lợng thấp do sức mua hạn chế, đẩy giá gạo loại này
42
tăng nhiều so với giá gạo chất lợng cao. Giảm tỷ lệ gạo tấm 5-10% có thể là
một ứng xử linh hoạt trong việc hoạch định chính sách xuất khẩu của Việt
Nam nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh, đặc biệt khi chúng ta mở rộng thị
trờng sang các nớc châu Phi và châu á - những nớc có nhiều nhu cầu về gạo
phẩm cấp thấp và trung bình. Bên cạnh đó, để phù hợp với xu hớng phát triển
của thị trờng thế giới, Việt Nam vẫn chủ trơng tăng tỷ trọng gạo chất lợng
cao nhằm hớng ra thị trờng châu Âu, Nhật và Bắc Mỹ. Mặc dù những năm
gần đây gạo có chất lợng cao ngày càng chiếm tỷ trọng lớn - một tiến bộ nói
chung của ngành sản xuất và xuất khẩu gạo - nhng vẫn còn những nhợc điểm
khác nh độ trắng không đồng đều, lẫn thóc và tạp chất, gạo vụ hè thu thờng
có độ ẩm cao, bạc bụng, vàng hạt, tỷ lệ gãy cao... Khi đánh giá chất lợng gạo
xuất khẩu của nớc ta, ngoài tỷ lệ tấm cũng cần chú trọng đến các tiêu thức
khác thì mới có thể có những kết quả phân tích chính xác về gạo xuất khẩu
đợc.
* Kiểm tra
Một vấn đề nữa cần quan tâm là việc kiểm tra chất lợng gạo Việt Nam
trớc khi xuất khẩu. Cơ quan quan trọng nhất của Việt Nam trong lĩnh vực
kiểm tra chất lợng là Vinacontrol, cơ quan chịu trách nhiệm kiểm tra tới 95%
lợng gạo xuất khẩu.
Tiến trình kiểm tra chất lợng bao gồm các bớc sau:
- Kiểm tra chất lợng kho chứa gạo
- Kiểm tra chất lợng đóng bao
- Kiểm tra chất lợng trớc khi xuất khẩu
Theo kết quả nhận định của Vinacontrol, trong xuất khẩu gạo tồn tại hai
vấn đề chính: do chất lợng yếu kém của các kho gạo dẫn đến tăng tỷ lệ gạo
ẩm mốc trong mùa ma, các kho chứa phải di chuyển đến nơi khác gây khó
43
khăn cho việc vận chuyển gạo xuất khẩu.Việc khắc phục những nhợc điểm
về chất lợng gạo là một vấn đề không đơn giản. Tuy nhiên, chúng ta phải cố
gắng nỗ lực tìm ra mấu chốt và giải quyết hợp lý, nâng cao chất lợng gạo, từ
đó tăng sản lợng và kim ngạch xuất khẩu.
2.2.1.3. Chủng loại gạo xuất khẩu
Trên thị trờng thế giới, gạo thờng đợc chia làm 6 nhóm nh sau:
Nhóm gạo hạt dài chất lợng cao chủ yếu xuất khẩu từ Mỹ. Loại gạo này
đợc a chuộng ở thị trờng châu Âu, Trung Đông, Hồng Kông, Singapo và
chiếm 25% thị phần thế giới.
Nhóm gạo hạt dài chất lợng trung bình. Loại gạo này đợc dùng chủ yếu
trong thơng mại quốc tế mà khách hàng chính là các nớc châu á và châu
Phi, những nớc cần nhập khẩu gạo để giải quyết vấn đề thiếu hụt về gạo.
Nhóm gạo hạt ngắn và trung bình. Loại gạo này đợc xuất khẩu chủ yếu
sang các nớc nghèo nh Băng-la-đét, Sri-lan-ca, Tây Phi, ấn Độ
Nhóm gạo sấy chia làm hai loại:
- Gạo sấy có màu, chất lợng kém đợc tiêu dùng chủ yếu trong các nớc có
tổng thu nhập quốc dân thấp.
- Gạo sấy trắng, chất lợng tốt. Đợc tiêu dùng ở thị trờng các nớc phát triển
nh Mỹ, châu Âu và Trung Đông.
Nhóm gạo đặc sản xuất khẩu của các nớc châu á nh Thái Lan với gạo
Jasmin; Việt Nam với gạo Nàng Hơng, Chợ Đào; ấn Độ với gạo Basmati.
Gạo đặc sản rất đợc a chuộng trên thế giới, nhất là các nớc châu Âu, đồng
thời cũng đợc tiêu thụ nhiều tại các thành phố giàu có ở châu á nh Băngcốc, Hồng-kông, Ma-ni-la...
Nhóm gạo nếp. Loại gạo này là gạo tiêu thụ hàng ngày trong khu vực
Đông Bắc Thái Lan và một vài vùng ở Lào, Cam-pu-chia.
44