Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (573.58 KB, 134 trang )
thuế nhập khẩu trung bình đối với các mặt hàng gạo của các thị trờng này
cao hơn rất nhiều so với Mỹ, nên khi Hiệp định Thơng mại đợc thi hành thì
xuất khẩu gạo Việt Nam sang thị trờng Mỹ sẽ có cơ hội tăng đáng kể. Giá trị
xuất khẩu gạo trên đầu ngời của Việt Nam vẫn còn thấp so với Thái Lan và
khả năng sản xuất vẫn còn mạnh, do đó tiềm năng xuất khẩu gạo của Việt
Nam vào thị trờng Mỹ còn rất lớn.
* Cơ hội
Tác động của hiệp định Thơng mại Việt - Mỹ đến xuất khẩu gạo của
Việt Nam có thể thông qua các hớng sau:
- Thứ nhất, việc giảm hàng rào thuế quan và tiến tới loại bỏ các hàng
rào phi thuế quan của cả Mỹ và Việt Nam sẽ tạo điều kiện cho gạo tiếp cận
thị trờng dễ dàng hơn và do đó sẽ thúc đẩy thơng mại hai chiều.
- Thứ hai, khả năng tiếp cận thị trờng Mỹ dễ dàng hơn, cùng với những
điều kiện u đãi về đầu t vào sản xuất gạo sẽ làm tăng đầu t của Mỹ và các nớc khác vào ngành này của Việt Nam để xuất khẩu sang thị trờng Mỹ.
- Thứ ba, Hiệp định Thơng mại sẽ tạo điều kiện cho xuất khẩu gạo Việt
Nam phát triển hơn nữa theo chiến lợc mới: tăng khả năng cạnh tranh của
gạo Việt Nam, hình thành nền sản xuất hành hoá mạnh, giúp cho gạo Việt
Nam thay đổi cơ cấu theo hớng phát huy lợi thế so sánh trong thơng mại
quốc tế (trớc hết là đối với Mỹ), tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế
trong và ngoài nớc tham gia rộng rãi hơn vào các hoạt động sản xuất, kinh
doanh cũng nh xuất khẩu gạo.
* Thách thức
Bên cạnh những lợi ích tạo ra, việc thực thi Hiệp định Việt - Mỹ cũng
đem lại những thách thức lớn đối với Việt Nam. Các doanh nghiệp xuất khẩu
gạo trớc đây đợc hởng lợi từ sự bảo hộ của một nền kinh tế đóng thì nay sẽ
gặp nhiều khó khăn. Những thách thức mà các doanh nghiệp Việt Nam phải
đối mặt gồm có:
87
- Thứ nhất, Hiệp định Thơng mại Việt Mỹ sẽ mở cửa cho gạo của
Mỹ vào thị trờng Việt Nam. Đây không phải là lo lắng hàng đầu vì khả năng
tiêu dùng gạo Mỹ sẽ không nhiều, do giá cao và chỉ phù hợp với một bộ phận
nhỏ dân c cu trú tại các đô thị lớn. Tuy nhiên, số lợng các doanh nghiệp Mỹ
và các nớc khác đầu t vào thị trờng Việt Nam sẽ tăng lên nhằm xuất khẩu
gạo sang thị trờng Mỹ hay khai thác thị trờng nội địa, do đó sẽ gây áp lực tới
các doanh nghiệp sản xuất lúa gạo trong nớc. Nhà nớc ta đã cho phép các
doanh nghiệp có vốn đầu t xuất khẩu gạo nên các doanh nghiệp của Mỹ cũng
có thể tham gia. Nếu không có những chuẩn bị cần thiết thì các doanh nghiệp
trong nớc đặc biệt là các doanh nghiệp quốc doanh sẽ gặp phải nhiều khó
khăn trong cạnh tranh.
- Thứ hai, các doanh nghiệp xuất khẩu gạo sẽ phải đối mặt với sự canh
tranh của các đối thủ trên thị trờng Mỹ. Chúng ta đã biết rằng Mỹ là một nớc xuất khẩu gạo lớn trên thế giới nên khi gạo Việt Nam thâm nhập vào Mỹ
sẽ vấp phải những rào cản về số lợng và chất lợng gạo của Mỹ. Hơn thế nữa,
mặc dù các doanh nghiệp Việt Nam sẽ tiếp cận dễ dàng hơn với thị trờng Mỹ
so với trớc đây nhng lại có sự cạnh tranh gay gắt từ các nớc xuất khẩu gạo
truyền thống nh Thái Lan, nớc đã có chỗ đứng trên thị trờng Mỹ từ lâu hoặc
Trung Quốc, quốc gia đã ký Hiệp định với Mỹ năm 1999 và vừa gia nhập
WTO cũng sẽ là thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam.
- Thứ ba, muốn xuất khẩu gạo Việt Nam sang Mỹ, các doanh nghiệp
phải tìm hiểu những quy định về thơng mại và hải quan vốn rất phức tạp của
Mỹ. Luật pháp Mỹ quy định tất cả mọi vấn đề có liên quan đến việc nhập
khẩu hàng hoá từ nớc ngoài vào đều thuộc thẩm quyền của Chính phủ liên
bang. Bộ Thơng mại, văn phòng đại diện thơng mại, uỷ ban thơng mại quốc
tế và cụ thể nhất là Hải quan Mỹ là những cơ quan có trách nhiệm đối với
vấn đề này. Ngoài các thủ tục hải quan còn có các quy định thơng mại liên
88
quan đến luật nh chống độc quyền, chống bán phá giá trách nhiệm sản
phẩm, thơng mại thống nhất...
2.3.3.2. Tham gia khu vực tự do thơng mại ASEAN (AFTA)
Tham gia khu vực tự do thơng mại ASEAN là bớc khởi động đầu tiên,
có ý nghĩa đối với quyết định đối với quá trình hội nhập kinh tế khu vực và
toàn cầu của nền kinh tế Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp Việt Nam
nói riêng. Theo lộ trình gia nhập AFTA thì từ nay đến năm 2006, Việt Nam
phải từng bớc cắt giảm thuế xuống đối với các mặt hàng. Khi đó sự bảo hộ
thuế quan và phi thuế quan đối với hàng hoá sản xuất trong nớc sẽ không còn
tác dụng, câu hỏi đặt ra là liệu gạo Việt Nam có thể cạnh tranh với gạo các
nớc khác tại thị trờng trong nớc lẫn thị trờng ASEAN đợc không?
Đối với sản xuất và xuất khẩu gạo, ảnh hởng lớn nhất trong bối cảnh
quốc tế hiện nay sẽ là quá trình tự do hoá thơng mại trong khuôn khổ AFTA
của Việt Nam và tác động của cắt giảm thuế quan, phi thuế quan tới khả
năng cạnh tranh của ngành gạo xuất khẩu. Sự tăng trởng sản xuất và xuất
khẩu gạo Việt Nam trong những năm qua cho thấy thế mạnh và tiềm năng có
thể tham gia vào thị trờng thế giới và khu vực các nớc ASEAN, kể cả các
trong các điều kiện thơng mại quốc tế có sự tự do hoá. Vì gạo là một mặt
hàng thiết yếu đối với nhu cầu tiêu dùng, đặc biệt là các nớc trong khu vực,
các đối thủ cạnh tranh trong xuất khẩu gạo của Việt Nam không nhiều, chủ
yếu là Thái Lan và một số nớc xuất khẩu tiềm năng có tác động tích cực đến
ngành sản xuất lúa gạo và ngành công nghiệp xay xát của nớc ta.
Khi Việt Nam thực hiện AFTA, thuế nhập khẩu hàng hoá vào nớc ta sẽ
giảm xuống đáng kể (5%). Trong trờng hợp thơng mại hoá hoàn toàn, gạo
Thái Lan nhập khẩu vào Việt Nam có thuế xuất bằng 0%. Tuy vậy, gạo Thái
Lan cũng không có khả năng chiếm lĩnh phần lớn thị trờng của Việt Nam do:
* Thứ nhất, gạo Thái Lan là mặt hàng có chất lợng cao nên giá cao. Khi
xâm nhập vào Việt Nam, gạo Thái Lan chỉ có thể tiêu thụ ở những khu vực
89
có mức sống và thu nhập của ngời dân cao nh ở các đô thị, khách sạn, nhà
hàng... Hiện nay trong các siêu thị Việt Nam đã có bán nhiều gạo Thái Lan
song doanh số không cao do ngời dân thành thị vẫn cha tiêu dùng loại gạo
mới này. ở các khu vực nông thôn, nơi có mức thu nhập thấp, giá gạo cao
không phù hợp với khả năng và nhu cầu của ngời dân. Khu vực này chiếm tới
80% dân số của cả nớc nên khả năng gạo Thái Lan chiếm lĩnh thị trờng là
gần nh khó có thể xảy ra. Nhìn chung, kể cả khi vào AFTA, Việt Nam vẫn
có lợi thế so sánh về sản xuất gạo hơn so với Thái Lan.
* Thứ hai, nh đã đề cập, những năm gần đây, sản lợng lơng thực đặc
biệt là lúa gạo của Việt Nam tăng dù bị ảnh hởng của thiên tai, đặc biệt là
bão lũ ở hai vùng đồng bằng sản xuất lúa chính. Khi vào thị trờng Việt Nam,
gạo Thái Lan chỉ có thể phát huy lợi thế một cách tối đa trong trờng hợp
cung gạo Việt Nam không đủ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nớc. Tuy
nhiên, khả năng thiếu lơng thực trong những năm tới là không thể xảy ra, vì
sản xuất lúa đợc đảm bảo, diễn ra trên địa bàn khá rộng, nếu có mất mùa
cũng chỉ là cục bộ, không ảnh hởng lớn đến thu hoạch của cả nớc. Bên cạnh
đó, tính bền vững trong sản xuất lúa rất cao khi chúng ta đã đảm bảo đợc an
toàn lơng thực một cách vững chắc.
* Thứ ba, tác động trong ngân sách. Trong những năm tới khi tham gia
vào AFTA, chúng ta sẽ nhập khẩu gạo chất lợng từ Thái Lan để phục vụ nhu
cầu gạo của các tầng lớp dân c có mức sống cao. Vì khối lợng nhập loại gạo
này sẽ không nhiều do đặc tính tiêu dùng của ngời dân Việt Nam nên việc
cắt giảm thuế sẽ không ảnh hởng đến nguồn thu ngân sách. Hiện nay, chúng
ta đang tiến hành đặt lịch trình giảm thuế khẩn trơng đã chuẩn bị cho các bớc
thực hiện AFTA.
Qua các nguyên nhân trên, có thể khẳng định lịch trình cắt giảm thuế
quan nhập khẩu đối với mặt hàng gạo Việt Nam có sức cạnh tranh trên thị trờng khu vực ASEAN. Quá trình thực hiện AFTA sẽ giúp Việt Nam hạn chế
90
đợc sự bảo hộ gạo ở các nớc nhập khẩu gạo Việt Nam nh Inđônêxia,
Philippin, Malaixia. Việt Nam có thể cạnh tranh với Thái Lan trên thị trờng
này do yếu tố giá thấp hơn và chất lợng gạo đang dần đợc cải tiến. Mặt khác,
chúng ta đang áp dụng một cơ chế khuyến khích bảo hộ xuất khẩu, hạ thuế
suất xuống 0% khi giá quốc tế giảm để các doanh nghiệp duy trì xuất khẩu,
lúc bình thờng để 1% và khi giá gạo trên thị trờng thế giới tăng mạnh thì
thuế suất đợc điều chỉnh lên 3% để vừa tăng thu ngân sách quốc gia và hạn
chế việc xuất khẩu quá mức có thể làm ảnh hởng xấu đến tình hình cân đối
lúa gạo trong nớc. Việc giảm miễn thuế cũng đợc áp dụng cho từng nhóm
hàng, nh đầu năm 1996 thuế suất xuất khẩu gạo là 3%, đến giữa năm do gạo
cấp thấp chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu nguồn hàng và có nguy cơ bị ứ đọng
nhiều nên Chính phủ đã miễn hoàn toàn thuế suất với loại gạo 25% tấm trở
lên trong khi vẫn giữ mức thuế suất 1% đối với loại gạo 5-20% tấm.
Những nhận định trên cho thấy, việc dỡ bỏ hàng rào thuế quan là cơ hội
tốt cho sản xuất lúa gạo Việt Nam tăng thêm sức cạnh tranh trên thị trờng.
Chính vì vậy, ta có thể khẳng định việc Việt Nam thực hiện AFTA nói chung
và tham gia các tổ chức kinh tế quốc tế nh APEC, WTO trong thời gian tới là
những cơ hội lớn đối với việc phát triển và đẩy mạnh xuất khẩu gạo Việt
Nam. Chúng ta phải tận dụng những thuận lợi khách quan từ bên ngoài, phát
huy tối đa nội lực quốc gia để tạo đà cho ngành sản xuất và xuất khẩu gạo
ngày càng có những kết quả to lớn hơn nữa.
91
Chơng 3. Chiến lợc đẩy mạnh xuất khẩu gạo.
3.1. Định hớng và mục tiêu của sản xuất và xuất khẩu gạo.
3.1.1. Mục tiêu và định hớng sản xuất lúa gạo.
3.1.1.1. Mục tiêu
Sản xuất lơng thực nói chung và sản xuất lúa gạo nói riêng luôn là
ngành quan trọng bậc nhất của nông nghiệp nhằm thực hiện ba mục tiêu cơ
bản mà Đảng và Chính phủ đã vạch ra:
* Thứ nhất: Bảo đảm vững chắc và an toàn lơng thực quốc gia, tăng thêm
khối lợng dự trữ, thoả mãn nhu cầu lơng thực cho tiêu dùng trong bất cứ tình
huống nào.
* Thứ hai: Bảo đảm đủ nguyên liệu cho công nghiệp chế biến.
* Thứ ba: Tăng khối lợng xuất khẩu với hiệu quả cao.
Ba mục tiêu trên khẳng định sự cần thiết của ngành sản xuất lúa gạo là
phải bảo đảm an ninh lơng thực, vấn đề có tính quan trọng hàng đầu đối với
sự tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia, đặc biệt với một nớc nông nghiệp
nh Việt Nam. Nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và xuất khẩu cũng là
mục tiêu hớng tới, nhất là trong bối cảnh hiện nay khi chúng ta có thể khẳng
định rằng đã và đang thực hiện tốt vấn đề an toàn lơng thực trên phạm vi toàn
quốc.
Phát triển ngành sản xuất lúa gạo thờng liên quan tới nhiều thành phần
khác nh nghiên cứu, triển khai, các yếu tố sản xuất (hệ sinh thái, luật pháp,
nhân công, vị trí địa lý, các yếu tố đầu vào và tài chính) và các yếu tố để thơng mại hóa sản phẩm (thị trờng tiêu thụ, hệ thống kho chứa, các phơng tiện
vận chuyển...). Những thay đổi lớn của Việt Nam trong những năm gần đây
đã có tác động trực tiếp tới sản xuất lúa của cả hai vùng đồng bằng sông
Hồng và sông Cửu Long đợc thể hiện trên 3 khía cạnh sau:
92
* Một là quá trình tự do hoá kinh tế đang tiến triển và ngày càng sâu sắc
của nền kinh tế Việt Nam. Hiện nay gần nh không còn những kiểm soát chặt
chẽ của Nhà nớc vì giá gạo sản xuất và các yếu tố đầu vào. Trên thị trờng
gạo, việc cân hàng và chuyển gạo từ vùng thừa gạo sang các khu vực thiếu
hụt cũng không gặp nhiều vớng mắc đáng kể. Năm 2001, Chính phủ bỏ đầu
mối xuất khẩu và hạn ngạch càng thể hiện việc giảm nhẹ những kiểm soát
gắt gao quá trình tự do thơng mại, tạo thế chủ động cho các nhà xuất khẩu.
* Hai là, sức tăng trởng nhanh của nền kinh tế Việt Nam. Sản phẩm
quốc nội và các chỉ tiêu khác về phát triển không ngừng tăng trong những
năm qua. Mức tăng trởng bao gồm cả sản xuất nông nghiệp (trung bình
5,8%/năm kể từ những năm đầu thập kỷ 90), nhanh hơn khu vực công công
nghiệp và dịch vụ.
* Ba là, việc sử dụng đất trồng và nhân công bị hạn chế do những vấn
đề về nhân khẩu học. Việc tăng dân số không ngừng dẫn tới phải giảm đáng
kể diện tích đất trồng do mở rộng làng xã, xây dựng cơ sở hạ tầng và đô thị
hoá.
3.1.1.2. Định hớng
Xuất phát từ thực trạng và mục tiêu trên, chúng ta cần lu ý phát triển
sản xuất lúa gạo theo một số định hớng sau đây:
* Thứ nhất: tăng cờng thâm canh tăng năng suất lúa gạo, kết hợp khai
hoang, tăng vụ ở những nơi có điều kiện trong đó tập trung vào định hớng có
tính chiến lợc lâu dài là thâm canh tăng năng suất lúa. Đây là một định hớng
đề cập trong tất cả các đại hội Đảng thời gian gần đây vì nó xuyên suốt quá
trình phát triển nền kinh tế gắn với nông nghiệp của nớc ta và sẽ là kế hoạch
phát triển cho tơng lai. Định hớng này cho phép chúng ta bảo đảm mục tiêu
lớn nhất là an ninh lơng thực quốc gia, tăng sản lợng gạo đồng thời có thể
chuyển các loại lúa canh tác trong thời vụ hiệu quả nhằm đem lại năng suất
cao nhất.
93
* Thứ hai: đa dạng hoá trong sản xuất lúa gạo bao gồm chủng loại gạo,
phẩm chất các giống lúa gạo và ngời sản xuất lúa gạo cho xuất khẩu. Theo
định hớng này thì đa dạng hoá phải căn cứ vào nhu cầu của thị trờng trên cơ
sở nhu cầu và biến động của thị trờng quốc tế để sản xuất. Cụ thể là chủng
loại gạo bao gồm gạo thờng, gạo đặc sản phẩm cấp các loại gạo đợc cung
cấp phong phú với cùng một mặt hàng lúa gạo nhng có nhiều giống thuần
chủng và siêu thuần chủng, nguồn sản xuất đợc định hớng theo quy mô lớn,
nhỏ khác nhau.
* Thứ ba: tích cực ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất
để vừa tăng năng suất và sản lợng lúa gạo cho tiêu dùng và cho xuất khẩu,
vừa không ngừng nâng cao chất lợng gạo xuất khẩu đồng thời bảo vệ đợc
môi trờng sinh thái. Yêu cầu bảo vệ môi trờng sinh thái khi áp dụng khoa
học kỹ thuật là hoàn toàn cần thiết vì nếu không tính đến yếu tố này sẽ rất dễ
gây nên tình trạng ứng dụng không hợp lý các thành tựu công nghệ hiện đại,
tăng cao năng suất lúa nhng phá hoại môi sinh môi trờng, ảnh hởng nghiêm
trọng đến đời sống của con ngời, nhất là trong tơng lai. Vì vậy Chính phủ cần
có những quy định cụ thể và chi tiết hơn.
Theo số liệu của bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, mục tiêu và
định hớng sản xuất lúa gạo năm 2000 đợc khái quát nh bảng sau:
Bảng 3.1. Mục tiêu cụ thể của sản xuất gạo năm 2010
Chỉ tiêu
Năm 2010
Diện tích đất
4,1 4,2 triệu ha
Diện tích đất trồng
7,5 triệu ha
Năng suất
50 55 tạ/ha
Sản xuất (quy thóc)
38 40 triệu tấn
Xuất khẩu (quy gạo)
4 4,5 triệu tấn
Nguồn: Báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
94
3.1.2. Định hớng và mục tiêu xuất khẩu gạo
3.1.2.1. Cơ chế mới
Theo quyết định 46/QĐ - TTg của Thủ tớng Chính phủ mới ban hành về
cơ chế xuất nhập khẩu các mặt hàng trong năm năm 2001 2002 có một số
thay đổi liên quan đến gạo xuất khẩu, cụ thể là:
- Chính phủ quyết định chính thức bãi bỏ cơ chế giao hạn ngạch xuất khẩu
gạo và việc quy định doanh nghiệp đầu mối kinh doanh xuất khẩu. Doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đợc xuất khẩu gạo nếu có đăng ký kinh
doanh ngành hàng lơng thực hoặc nông sản.
- Những hợp đồng xuất khẩu gạo sang một số thị trờng có sự thoả thuận
của Chính phủ ta với Chính phủ các nớc (hợp đồng Chính phủ), sau khi trao
đổi với Hiệp hội lơng thực Việt nam đợc giao cho Bộ Thơng mại chỉ định và
chỉ đạo doanh nghiệp làm đại diện giao dịch, kí kết hợp đồng.
- Việc xuất khẩu theo kế hoạch trả nợ, viện trợ của Chính phủ, thực hiện
theo cơ chế đấu thầu hoặc quyết định riêng của Thủ tớng chính phủ.
- Để đảm bảo lợi ích nông dân, ổn định sản xuất nông nghiệp và thị trờng
trong nớc, giảm bớt khó khăn đối với hoạt động sản xuất, lu thông lúa gạo và
phân bón khi thị trờng trong ngoài nớc có biến động, Thủ tớng Chính phủ sẽ
xem xét, quyết định các biện pháp can thiệp có hiệu quả vào thị trờng lúa
gạo.
Quy định trên của Thủ tớng Chính phủ đã mở rộng hớng đi cho các nhà
xuất khẩu. Không còn các đầu mối nên mọi thành phần kinh tế đều có thể tự
do ký kết hợp đồng với đối tác nớc ngoài sau khi đã đăng ký kinh doanh. Cơ
chế mới đã thông thoáng hơn rất nhiều so với cơ chế ban hành trớc đây song
cũng đặt ra nhiều vấn đề bức xúc, đòi hỏi một sự quản lý chặt chẽ, thờng
xuyên của các ngành, các cấp, tránh tình trạng tranh mua, tranh bán, ép giá
của các doanh nghiệp nhằm thao túng thị trờng và thu lợi cao nhất.
31.2.2. Định hớng và mục tiêu xuất khẩu gạo
95
Cơ chế mới ban hành trong thời điểm chúng ta bớc sang thế kỷ mới với
những cơ hội và thách thức mới là một công cụ để thực hiện các mục tiêu đặt
ra với sản xuất gạo, tăng lợng gạo xuất khẩu, mở rộng thị trờng và nâng cao
chất lợng đảm bảo hiệu quả hơn trong xuất khẩu. Thực chất mục tiêu này hớng vào tăng số lợng, cải thiện chất lợng có nghĩa là tăng tổng kim ngạch
gạo xuất khẩu. Bên cạnh đó việc mở rộng thị trờng cũng đợc các nhà hoạch
định chiến lợc coi trọng vì thị trờng là cái đích mà các nhà xuất khẩu hớng
đến. Ba mục tiêu trên đợc tiến hành song song đảm bảo cho gạo sản xuất ra
có thể xuất khẩu tạo thành một quá trình thông suốt đồng thời phù hợp với
các mục tiêu của sản xuất lúa và xu thế phát triển chung của nền kinh tế thị
trờng trong giai đoạn mới.
Cũng nh trong sản xuất lúa gạo, trong xuất khẩu để thực hiện các mục
tiêu đã đặt ra cần có các định hớng. Cụ thể là:
- Thứ nhất: đa dạng hoá chủng loại gạo cấp cao nhập khẩu đáp ứng nhu
cầu đa dạng của thị trờng thế giới.
- Thứ hai: đa phơng hoá thị trờng tiêu thụ gạo trong đó tập trung vào
những thị trờng tơng đối ổn định về số lợng và chất lợng.
- Thứ ba: đa dạng hoá hình thức tổ chức tham gia xuất khẩu gạo để có thể
đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và phức tạp của khách hàng.
3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu gạo
3.2.1. Nhóm giải pháp vĩ mô
3.2.1.1. Các giải pháp hoàn thiện hệ thống tổ chức xuất khẩu
Những năm gần đây, gạo Việt Nam đã có mặt trên 80 nớc và Việt Nam
là nớc xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới sau Thái Lan. Tuy nhiên, sản xuất
lúa gạo xuất khẩu còn thiếu quy hoạch, cha đa dạng hoá chủng loại hàng, hệ
thống chế biến, bảo quản phục vụ xuất khẩu còn nhiều yếu kém, lại phân bổ
không hợp lý. Hệ thống nhà máy xay xát, đánh bóng còn ít, tập trung chủ
96
yếu tại TP Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Mỹ Tho. Đầu mối xuất khẩu bó hẹp trong
khu vực TP Hồ Chí Minh, làm tăng chi phí vận chuyển và các chi phí trung
gian. Bên cạnh đó, chúng ta vẫn cha xác định đợc chiến lợc về thị trờng và
chiến lợc sản phẩm rõ ràng, cha thiết lập đợc hệ thống thị trờng, bạn hàng
lớn ổn định và vẫn còn tình trạng bán qua trung gian, tranh mua, tranh bán ở
thị trờng nớc ngoài. Khâu điều hành xuất khẩu tầm vĩ mô còn nhiều lúng
túng, không kịp thời, gây khó khăn cho doanh nghiệp xuất khẩu về nguồn
hàng và ký kết hợp đồng.
Để nâng cao khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam trên thị trờng thế
giới thì vấn đề đặt ra hiện nay chính là hoàn thiện hệ thống tổ chức xuất khẩu
gạo. Năm 2001, với cơ chế bãi bỏ hạn ngạch và đầu mối xuất khẩu có thể tạo
điều kiện cho doanh nghiệp phát huy đợc u thế của mình, giải quyết đợc
những vớng mắc trong vấn đề quản lý, tránh tình trạng độc quyền nhng cũng
gây nhiều khó khăn mới cho các cơ quan chức năng về kiểm soát lợng gạo
xuất khẩu, đảm bảo an ninh lơng thực quốc gia.
Vì vậy, cùng với quyết định này cần đa ra các giải pháp đồng bộ để
ngăn chặn những vớng mắc mới phát sinh. Cụ thể là:
* Thứ nhất: khi bãi bỏ đầu mối hạn ngạch các cơ quan có trách nhiệm
cần đánh giá sản lợng thóc để định hớng và công bố ngay tổng mức dự định
sẽ xuất khẩu ở năm sau từ cuối năm trớc để doanh nghiệp dựa vào đó xác
định thời gian và tiến độ, chủ động điều tiết các hoạt động của mình cho phù
hợp với hoàn cảnh cụ thể. Chính phủ chỉ đạo giao cho Uỷ ban nhân dân các
tỉnh và các ngành có liên quan theo dõi, tạo điều kiện hỗ trợ về vốn, tổ chức
tốt hơn nữa việc mua lúa cho nông dân vào đúng thời điểm thu hoạch nhằm
có những biện pháp bảo quản hàng hoá tốt và ngăn chặn không cho giá
xuống.
* Thứ hai: vì không còn hạn ngạch và đầu mối, số lợng doanh nghiệp
tham gia xuất khẩu sẽ tăng. Nhà nớc cần có biện pháp sắp xếp một cách hợp
97