1. Trang chủ >
  2. Khoa học xã hội >
  3. Giáo dục học >

III. NHỮNG GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC KHÓ KHĂN:

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.1 KB, 12 trang )


1.



Giải pháp thứ nhất: Giúp giáo viên vận dụng linh hoạt

phương pháp dạy phù hợp với từng đối tượng học sinh; giáo viên

cần nhiệt tình quan tâm, giúp đỡ học sinh.



1.1



Phương pháp dạy học theo nhóm đối tượng:



-Yêu cầu giáo viên phân loại học sinh trong lớp thành những

nhóm đối tượng như sau:

• Nhóm 1: Gồm những học sinh chậm, yếu

• Nhóm 2: Gồm những học sinh trung bình

• Nhóm 3: Gồm những học sinh khá

• Nhóm 4: Gồm những học sinh giỏi

-Giáo viên có thể thay tên nhóm 1,2,3,4 thành tên khác như

nhóm A,B,C,D…Trong quá trình dạy giáo viên vẫn phải lấy chuẩn để

làm thước đo nhưng ở các tiết ôn tập, các giờ ôn của buổi chiều giáo

viên yêu cầu các em thực hiện nhiệm vụ với 4 mức khác nhau trong

cùng một giờ học.

Ví dụ: Nhóm 1 các em đọc nhiều lần hơn, viết ít hơn so với nhóm 3

và 4. Các dạng bài đọc và viết về vần đều có thể vận dụng phương

này. Chẳng hạn bài 46 vần ÔN, ƠN các em chỉ cần viết ôn, ơn, con

chồn, sơn ca, mỗi vần, mỗi từ chỉ một dòng, trong khi đó các em ở

nhóm 3, 4 viết nhiều hơn mỗi loại như trên từ 2 đến 3 dòng. Các em ở

nhóm 2 chỉ cần viết theo yêu cầu chuẩn.

-Ban giám hiệu chúng tôi thống nhất trong các giờ học đàn cho

những em học sinh chậm, yếu ở lại phòng học, giáo viên tiếp tục kèm

cho các em đọc, viết nội dung nào các em còn yếu.

1.2 Phương pháp sử dụng đồ dùng dạy học như tranh, ảnh,

vật thật….cho học sinh học chậm.

-Ở lứa tuổi học sinh tiểu học nhất là học sinh lớp Một khả năng

tư duy trừu tượng kém, phần lớn các em phải dựa trên những mô hình

vật thật, tranh ảnh, do vậy trong các giờ học việc yêu cầu giáo viên sử

dụng đồ dùng dạy học là không thể thiếu kể cả đồ dùng do giáo viên

tự làm, đồ dùng dạy học là phương tiện chuyển tải thông tin và là nội

dung truyền thụ kiến thức giáo dục tư cách, rèn luyện kỹ năng thực

hành cho học sinh, nó có tác dụng điều khiển hoạt động của học sinh

từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, kích thích hứng thú cho

học sinh học tập. Có nhà giáo dục trẻ cho rằng trẻ không sợ học mà

chỉ sợ những tiết học đơn điệu nhàm chán vì thế đồ dùng dạy học có

tác dụng rất lớn trong quá trình dạy môn Tiếng Việt cho học sinh, nhất

là các em học sinh học chậm.

3



Ví dụ: Ở những bài học về vần. Chẳng hạn như Bài 41 trang 86

Sách giáo khoa Tiếng Việt 1 Tập 1: Dùng trang vẽ ( hoặc vật thật) trái

lựu; Tranh con hươu sao để học sinh quan sát và tìm ra từ khoá sau

khi các em đã nhận diện vần ưu và ươu ở phần đầu tiết học. Từ những

hình ảnh như thế các em sẽ dễ nhớ và nhớ chính xác hơn các vần và

các từ được học bởi các em có sự liên tưởng từ vật thật đến vần của

bài học.

Như vậy dùng tranh, ảnh, vật thật trong các giờ Tiếng Việt giúp học

sinh nhớ vần và từ tốt hơn.

-Ngoài ra dùng tranh, ảnh có vai trò rất lớn trong phần luyện nói

ở các tiết tập đọc môn Tiếng Việt lớp 1 – học kì II.

Ví dụ: Bài Chuyện ở lớp – Trang 100 Sách giáo khoa Tiếng Việt 1

tập II – Phần luyện nói: Tìm tiếng ngoài bài: Có vần uôc. Giáo viên

treo tranh một người đang tuốt lúa – Giáo viên hỏi nội dung bức tranh,

sau đó cho các em nói câu có vần uôt, động viên các em học chậm nói

trước, nhìn vào tranh tự các em có thể nói được như: Mẹ (cô, chị, dì)

đang tuốt lúa hoặc là máy tuốt lúa. Dùng tranh, ảnh trong các phần

này tôi nghĩ rằng có tác dụng rất lớn đối với các em học chậm, các em

vừa nói được câu có vần cần tìm và còn hiểu được nghĩa của câu đó.

Tuy nhiên các em học sinh khá, giỏi nói các câu khác cũng có vần uôt

như con chuột, sáng suốt mà không cần dựa vào tranh.

Như vậy rõ ràng trong cùng một giờ học giáo viên biết vận dụng

khéo léo tranh, ảnh thì vừa phát huy được tính sáng tạo chủ động cho

học sinh khá giỏi lại vừa tạo sự hứng thú cố gắng vươn lên cho học

sinh học chậm.

1.3

Người giáo viên cần có lòng nhiệt tình, luôn quan tâm

giúp đỡ học sinh.

Tôi luôn giải thích cho giáo viên dạy khối Một hiểu rằng các em

học sinh lớp Một mới từ mẫu giáo chuyển lên nên việc tiếp thu kiến

thức thông qua hình thức: Học mà chơi, chơi mà học, giáo viên phải

nhẹ nhàng ân cần dạy bảo các em luôn tạo không khí thoải mái, vui vẻ

trong giờ học, một lời nhận xét động viên các em giúp các em thấy tự

tin và phấn khởi, sự chỉ bảo ân cần là điều rất cần thiết, tránh quát

mắng các em khi các em làm sai hay chưa làm được. Đặc biệt không

được ngồi một chỗ bảo các em đọc đi, viết đi mà giáo viên phải đi

xuống bên học sinh xem em nào đã làm được còn em nào làm chưa

được nhắc nhở các em, chỉ cụ thể cho các em nhất là với các em học

chậm cần nhắc lại hay bắt tay các em để các em viết cho đúng. Làm

4



sao để mỗi ngày các em đến trường là một ngày vui. Giáo viên phải

gần gũi với học sinh thì mới hiểu được về học sinh của mình, để hình

ảnh ân cần của cô luôn là hình ảnh đẹp trong ánh mắt của các em, bản

thân các em cũng thấy cô giáo như người thân trong gia đình sẵn sàng

kể cho cô nghe những niềm vui hoặc những khó khăn của mình trong

học tập hay trong sinh hoạt hàng ngày mà cần cô giúp đỡ.

-Ví dụ: Em Lộc lớp ½ em viết rất hay sai, không đúng cỡ chữ,

không ngay hàng, một số chữ hay lẫn lộn trong 3 tháng đầu năm học.

Nhưng qua nhiều lần dự giờ và nhiều lần vào thăm lớp tôi thấy giáo

viên luôn đến tận nơi khi bắt tay, khi chỉ hàng cho em cùng với lời

khen dù chỉ là tiến bộ nhỏ nhất, tôi theo dõi hàng tháng để xem em đó

tiến bộ như thế nào, quả thật đến nay em Lộc đã tiến bộ rõ rệt, chữ

viết đã đúng, rõ ràng, thẳng hàng.

*Tóm lại: Qua việc chỉ đạo và theo dõi quá trình dạy học của

giáo viên toàn trường nói chung và giáo viên khối Một nói riêng, tôi

nhận thấy nếu người giáo viên biết lựa chọn phương pháp dạy học

thích hợp với từng trình độ học sinh của một lớp cùng với lòng nhiệt

tình, quan tâm giúp đỡ học sinh học chậm thì chất lượng học sinh

ngày một nâng lên.

2.

Giải pháp thứ 2: Người giáo viên phải làm gì để học sinh

nhận thức chậm, hay quên; học sinh có hoàn cảnh gia đình học tốt hơn.



Có lẽ nguyên nhân này là nguyên nhân lớn làm giảm chất lượng

học sinh, qua dự giờ ở tất cả các lớp khối Một, những người làm quản

lý chúng tôi thực sự băn khoăn và trăn trở bởi số học sinh này không

phải chỉ có 1 hay 2 em, nên tôi nghĩ cần có kế hoạch cụ thể để giúp

giáo viên khối Một dạy những học sinh này như thế nào cho đạt kết

quả tốt, không phải trong một tháng mà trong cả một năm học, có khi

cả trong hè.

2.1 Đối với học sinh nhận thức chậm, hay quên.

-Yêu cầu giáo viên chủ nhiệm phải phân loại và nắm được số

lượng dạng học sinh này, giáo viên cần có một phương pháp dạy và

dạy một lượng kiến thức phù hợp cho các em. Tuy nhiên với học sinh

cả lớp giáo viên vẫn lấy chuẩn để làm mục tiêu phấn đấu, còn những

em này nếu dạy chung theo chuẩn của chương trình đề ra thì các em

không thể theo kịp, vì thế tôi yêu cầu giáo viên trước hết sắp xếp chỗ

ngồi cho các em phù hợp và có tác dụng thúc đẩy.

Ví dụ: Cho các em ngồi gần các bạn học tốt để các em được sự

giúp đỡ từ bạn, được học tập từ bạn như các em tập đọc theo bạn, nhắc

5



lại câu của bạn nói, được các bạn nhắc nhở luôn với hình thức này là

điều kiện rất tốt cho các em hoạt động nhóm đôi, tránh cho các em

cùng học chậm ngồi với nhau và ngồi cuối cùng của lớp, cần tạo điều

kiện cho các em học tốt để các em biết phát huy những ưu điểm của

bạn

-Dạy các em lượng kiến thức phù hợp như: Về viết chỉ yêu cầu

các em viết một số dòng nếu như những học sinh bình thường có thể

viết nhiều dòng trở lên.

Ví dụ: Tiết tập chép bài: Mèo con đi học - Trang 105 Tiếng

Việt II, yêu cầu chuẩn học sinh chép 8 dòng thơ đầu, nhưng đối với

học sinh chậm chỉ yêu cầu các em chép 4 dòng, bên cạnh đó giáo viên

phải theo dõi sát các em, uốn nắn và hướng dẫn cụ thể cho các em.

-Về đọc tăng cường gọi các em nhắc lại nhiều lần nếu là vần,

đọc nhiều lần nếu là câu ứng dụng hay một đoạn văn, đoạn thơ.

-Ngoài ra yêu cầu giáo viên cần có kế hoạch về thời gian để kèm

cặp, phụ đạo học sinh này, mỗi lớp phải sắp xếp thời gian cho phù hợp

và phụ đạo cho học sinh có chất lượng, cụ thể các tiết ôn tập buổi

chiều các em học giỏi, khá tự làm các yêu cầu giáo viên giao và các

em ngồi cùng bàn theo dõi lẫn nhau, khi đó giáo viên phải quan tâm

đặc biệt tới những em học chậm theo dõi sát khi các em đọc, viết, cho

các em đọc nhiều hơn, động viên các em mỗi khi các em đọc tốt. Vào

các tiết học đàn có thể cho các em này ngồi tại lớp để hướng dẫn các

em viết cho đúng và đẹp cũng như luyện cho các em đọc nhiều lần.

Để kiểm tra điều này tôi thường xuyên thăm lớp vào các tiết ôn

buổi chiều, tiết học đàn của khối Một. Sau mỗi tháng cần rút kinh

nghiệm và nghe giáo viên báo cáo sự tiến bộ của các em, tôi thường

động viên toàn thể giáo viên cần có lòng nhiệt tình, kiên trì với những

học sinh này.

2.2 Đối với những học sinh có hoàn cảnh gia đình như mồ

côi, cha mẹ bất hoà, cuộc sống khó khăn.

-Nguyên nhân này cũng là yếu tố làm giảm chất lượng học sinh,

trong quá trình tìm hiểu thực tế cho thấy nhiều em đến lớp không viết

bài, ngồi ngơ ngác có khi còn ngủ gật, không chú ý cô giảng bài…Đối

tượng học sinh này cần được quan tâm nhiều cả về vật chất lẫn tinh

thần. Vì vậy muốn các học sinh này học tốt giáo viên phải nắm được

hoàn cảnh thực tế của các em từ đó mới có biện pháp cụ thể để dạy

các em.

6



-Để giúp giáo viên về biện pháp dạy và tạo điều kiện tốt cho các

em học tập, tôi bàn với Ban giám hiệu trường chủ động tham mưu với

hội phụ huynh học sinh, các cơ quan đóng trên địa bàn giúp đỡ về vật

chất như tập, đồ dùng, quần áo.

Như: Tặng cho các em sách vở, quần áo, đồ dùng học tập. Cần

động viên các em trong mọi hoạt động nhất là với những em mồ côi,

gần gũi quan tâm các em khi các em bệnh, ốm, tạo không khí thoải

mái trong học tập, để các em thấy cô giáo là người mẹ thứ hai của

mình, các em không còn thấy cô đơn khi tới trường.

Ví dụ: Lớp 1/6 có em Vũ cha mẹ em đều bị bệnh và qua đời,

giáo viên có báo lại em hay nghỉ học, đến lớp ngồi một mình không

tham gia hoạt động cùng với các bạn, em học kém, hay quên tập vở.

Tôi luôn nhắc giáo viên của em Vũ nên gần gũi, động viên em, khi

thấy em nghỉ học không lí do cần đến nhà gặp gia đình của em, giúp

em cùng chơi và hoà nhập với các bạn. Đồng thời giáo viên cho em để

một số sách vở ở lớp để em khỏi quên như tập hát, tự nhiên xã hội, vở

bài tập các loại. Một vài lần kiểm tra, tôi thấy em Vũ cũng đã tiến bộ

nhiều, em vui hơn khi tham gia chơi cùng bạn bè và không còn ngồi

buồn nữa.

*Tóm lại: Đối với học sinh có hoàn cảnh đặc biệt, giáo viên cần

quan tâm, giúp đỡ, động viên các em giúp các em tự tin trong học tập

và hoà nhập với cộng đồng, cần giúp đỡ các em cả vật chất và tinh

thần

3. Giải pháp thứ 3: Làm thế nào để phụ huynh quan tâm

tới con em mình không khoán trắng cho nhà trường và thấy được

sự phối hợp giữa nhà trường và gia dình là rất cần thiết.



Từ thực tế cho thấy nhiều cha mẹ học sinh cho con đến trường là

xong nhiệm vụ còn trách nhiệm dạy, giáo dục con mình là phần thầy

cô giáo, có những em bị bệnh nhưng cha mẹ không hề biết vẫn cho

con đi học có khi các em đi học cả buổi mà vẫn chưa ăn gì, ngay cả

khi các em bị ốm mà phụ huynh cũng không quan tâm tới các em. Với

các trường hợp này đòi hỏi giáo viên cần phải thường xuyên liên lạc

với phụ huynh, trao đổi với phụ huynh để họ hiểu rằng kết quả học tập

của các em có tốt là phải có sự phối hợp nhịp nhàng giữa gia đình và

nhà trường. Yêu cầu quan tâm tối thiểu như cha mẹ các em cần kiểm

tra bài vở của các em sau mỗi buổi học ở trường xem con mình đã học

những môn nào, các em có ghi chép đủ không, giúp các em soạn sách

vở trong thời gian đầu và theo dõi kiểm tra nhắc nhở các em việc soạn

sách vở khi cho các em đã tự làm, hướng dẫn các em đọc bài nhiều lần

7



ở nhà, chuẩn bị cho bài mới. Còn giáo viên ngoài họp phụ huynh theo

kế hoạch chỉ đạo định kì chung 3 lần/ năm học, phải thường xuyên

liên lạc với phụ huynh học sinh bằng phiếu liên lạc hay trực tiếp trao

đổi với phụ huynh khi cần thiết. Bên cạnh đó giáo viên cần phối hợp

với hội phụ huynh của lớp nhờ hội trưởng của lớp giúp đỡ.

Ví dụ: Lớp 1/5 của có 4 em thường xuyên quên mang tập vở,

không học bài ở nhà, lần họp phụ huynh đầu tiên cha mẹ của các em

không đi. Sau khi nghe giáo viên chủ nhiệm báo lại tình hình như vậy,

tôi đã bàn với Ban giám hiệu nhà trường giúp đỡ giáo viên tìm ra

nguyên nhân và biện pháp giúp giáo viên dạy cho tốt các em học sinh

đó như liên lạc trực tiếp với phụ huynh, đến tận nhà thông báo tình

hình học tập của các em và nhờ phụ huynh tiếp tay với nhà trường,

bản thân tôi gặp trực tiếp hai lần trao đổi với bố mẹ của các em đó để

phụ huynh hiểu được vai trò của gia đình trong việc dạy các em là rất

quan trọng, mối quan hệ giữa nhà trường và gia đình không thể tách

rời nhau. Thời gian sau cha mẹ 4 em đó đã quan tâm tới các em hơn

và thường xuyên liên lạc với giáo viên chủ nhiệm, kì họp phụ huynh

lần hai cha mẹ các em đi đầy đủ. Sau một thời gian giáo viên báo lại 4

học sinh đó có tiến bộ rõ rệt, cho đến nay cả 4 em đều học khá tốt.

*Tóm lại: Giáo viên cần giữ mối liên hệ thường xuyên với phụ

huynh học sinh, cần nhiệt tình, mềm dẻo trước những phụ huynh khó

tính, phải thường xuyên trao đổi và cả tư vấn cho phụ huynh hiểu

được quá trình học tập của các em tốt phải có sự hỗ trợ quan tâm từ

phía gia đình.

IV. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC:

Sau một năm học với nhiệm vụ chỉ đạo, theo dõi và giúp đỡ giáo

viên khối Một trong quá trình dạy học nói chung và dạy môn Tiếng

Việt nói riêng, tôi nhận thấy chất lượng dạy môn Tiếng Việt đã được

nâng lên, kết quả cuối năm ( cuối tháng 4/2007), cụ thể như sau:

Phân loại học sinh

Học sinh đọc, viết tốt

Học sinh đọc, viết theo chuẩn

Học sinh đọc, viết chậm so với chuẩn

Học sinh chưa đọc, viết được một số

vần, tiếng khó



Học kì I

Tổng số học sinh



Cuối học kì II

Tổng số học sinh



270

90

100

75

5



267

117

140

10

0



8



Ngoài số liệu trên tôi còn nhận thấy rõ kết quả cụ thể của giáo

viên và học sinh.

*

Giáo viên biết vận dụng khéo léo và vận dụng linh hoạt các

phương pháp dạy học cho phù hợp với từng đối tượng học sinh của

lớp.

*

Tìm hiểu rõ được nguyên nhân và hoàn cảnh của các em,

giáo viên chủ động bàn bạc với Ban giám hiệu nhà trường với các

thành viên trong tổ khối tìm giải pháp hợp lí, sẵn sàng nhiệt tình giúp

đỡ các em .

*

Học sinh có sự chuyển biến tích cực trong học tập, tự giác

học và có rất nhiều cố gắng nhất là các em có hoàn cảnh đặc biệt, các

em có bệnh lí đồng thời các em còn cảm nhận được sự gần gũi, yêu

thương của thầy cô, biết hoà đồng cùng các bạn, biết chia sẻ những

vui, buồn, khó khăn với bạn bè, thầy cô. Các em tự tin trong học tập

và thực sự thấy mỗi ngày đến trường là một ngày vui.

*

Làm nền móng tốt cho các em học lên lớp trên, tạo đà để

chất lượng học tập ngày một tốt hơn.

*

Một số phụ huynh nhận thấy rõ vai trò của gia đình trong

quá trình giáo dục con em mình, nhiệt tình chỉ bảo, quan tâm tới các

em nhiều hơn, thường xuyên giữ mối liên hệ với nhà trường, hiểu

được tầm quan trọng của sự kết hợp giữa nhà trường và gia đình.

BÀI HỌC KINH NGHIỆM

Với kết quả đạt được ở trên, bản thân tôi rút ra bài học sau:

*

Người quản lí trong nhà trường phải chuyên tâm, say sưa,

nhiệt tình trong công việc, không ngừng học tập để nâng cao kiến thức

và năng lực lãnh đạo trong việc quản lí các hoạt động giáo dục trong

nhà trường.

*

Đoàn kết, thống nhất từ Ban giám hiệu cho đến các giáo

viên.

*

Có kế hoạch chỉ đạo và thường xuyên giúp đỡ giáo viên

trong quá trình giải quyết những khó khăn.

*

Có kiểm tra theo dõi, đánh giá rút kinh nghiệm sau từng

đợt kiểm tra.

*

Dự giờ, thăm lớp đột xuất để đánh giá giáo viên trong quá

trình giảng dạy và nắm được tình hình học tập của học sinh.

*

Cần mềm mỏng, khéo léo, động viên giáo viên trong giảng

dạy, nhưng cương quyết trong quá trình chỉ đạo.

9



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

×