Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.07 MB, 21 trang )
Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Tổng quan về Asen
1.1.1. Asen
Asen (As) là nguyên tố phổ biến thứ 20 trong vỏ trái đất, thứ 14 trong nước
biển và thứ 12 trong cơ thể con người. As là nguyên tố hóa học thuộc phân nhóm
chính nhóm V trong bảng Hệ thống tuần hoàn Mendeleep. As có thể tồn tại trong hợp
chất vô cơ hoặc hữu cơ với bốn mức hóa trị là: -3, 0, +3 và +5. Trong nước tự nhiên,
As tồn tại chủ yếu ở 2 dạng hợp chất vô cơ là asenat [As(V)], asenit [As(III)]. As(V)
là dạng tồn tại chủ yếu của As trong nước bề mặt và As(III) là dạng chủ yếu của As
trong nước ngầm.
1.1.2. Tác hại của Asen đối với sức khỏe
Ngộ độc asen là các bệnh kinh niên do sử dụng nước uống có chứa asen ở nồng
độ cao trong một khoảng thời gian dài (Asvà nhiều hợp chất của nó là những chất độc
cực kỳ có hiệu nghiệm). Asen phá vỡ việc sản xuất ATP thông qua vài cơ chế. Ở cấp
độ của chu trình axít citric, asen ức chế pyruvat dehydrogenaza và bằng cách cạnh
tranh với phốtphat nó tháo bỏ phốtphorylat hóa ôxi hóa, vì thế ức chế quá trình
khử NAD+ có liên quan tới năng lượng, hô hấp của ti thể và tổng hợp ATP. Sản sinh
của perôxít hiđrô cũng tăng lên, điều này có thể tạo thành các dạng ôxy hoạt hóa và
sức căng ôxi hóa. Các can thiệp trao đổi chất này dẫn tới cái chết từ hội chứng rối
loạn chức năng đa cơ quan. Các hiệu ứng bao gồm sự thay đổi màu da, sự hình thành
của các vết cứng trên da, ung thư da, ung thư phổi, ung thư thận và bàng quang cũng
như có thể dẫn tới hoại tử. Tổ chức y tế thế giới (WHO) đã đề nghị mức giới hạn của
asen là 0,01 mg/L trong nước uống.
6
1.2. Tìm hiểu về nước ngầm Việt Nam
1.2.1. Nước ngầm
Nước ngầm là chỉ loại nước nằm bên dưới bề mặt đất trong các không
gian rỗng của đất và trong các khe nứt của các thành tạo đá, và các không gian rỗng
này có sự liên thông với nhau. Một đơn vị đá hoặc các dạng tích tụ vật liệu không cố
kết được gọi là tầng chứa khi nó có thể cung cấp một lượng nước có thể sử dụng
được. Ở Việt Nam việc khai thác nước ngầm là phổ biến, các hình thức: giếng
đào, giếng khoan, giếng khoan nhà máy nước... Đối với nhiều đô thị, chẳng hạn
như Hà Nội, nguồn cung cấp nước chủ yếu là nước ngầm.
1.2.2. Thực trạng ô nhiễm Asen trong nước ngầm ở Việt Nam
Vì ở trong điều kiện yếm khí (anaerobic), hầu hết arsenic trong nước ngầm ở
Việt Nam ở dưới dạng arsenite [As(III)], một hợp chất arsenic hữu cơ có độc tính cao
nhất. Khi tiếp xúc với không khí hay tia tử ngoại (ultra violet), arsenite bị oxy hóa
thành arsenate [As(V)] ít độc hơn. Khu vực bị ô nhiễm Asen cao nhất là ở đồng bằng
sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long. ÐBSH và ÐBSCL được cấu tạo bởi phù sa
mới trong thời kỳ Holocene và Pleistocene nên nước ngầm ở hai vùng nầy có đặc tính
gần giống nhau, đó là chứa nhiều sắt (iron), manganese, và ammonium. Kết quả phân
chất cho thấy nồng độ của sắt có thể lên đến 56 milligram/lít (mg/l) (trung bình 2,26
mg/l) trong các mẩu nước ngầm ở An Giang và Ðồng Tháp vào năm 2004 và 48 mg/l
(trung bình 13 mg/l) trong các mẩu nước ngầm ở gần Hà Nội vào năm 2002 [24]. Sự
hiện diện của sắt rất quan trọng trong việc loại trừ hoặc làm giảm nồng độ arsenic
trong nước ngầm, vì arsenate kết hợp với Fe(III) để thành FeAsO 4 rồi bị loại ra khỏi
7
nước ngầm khi kết tủa với Fe(OH) 3. Khu vực đồng bằng 8ung Hồng bao gồm Hà Nội
và các tỉnh phía nam Hà Nội như Hà Nam là những khu vực có hàm lượng Asen cao.
Bản đồ các khu vực nhiễm Asen trên toàn quốc
1.3. Các phương pháp xử lý asen trong nước ngầm
1. 3.1. Xử lý bằng công nghệ xử lý giàn mưa
Nước nguồn hay nước giếng khoan thường tồn tại dưới dạng Fe2+, Mn2+. Giàn
mưa có tác dụng oxy hoá chuyển đổi thành Fe 3+ và Mn4+ và một số tác nhân mang
tính khử khác như As (III) cũng được oxy hoá lượng nhỏ.
1.3.2. Xử lý bằng bể lắng
Đây là phương pháp sử lý Asen mà dân gian thường sử dụng, phương pháp này
cũng gần giống với giàn mưa chỉ khác là nước được lắng tĩnh và dùng ánh nắng mặt
trời và oxy để lắng và loại bỏ Asen.
1.3. 3. Xử lý bằng bể lọc
Tuỳ theo điều kiện sử dụng, có thể xây dựng bể theo kích thước khác nhau.
8
Bể lọc được sử dụng các lớp vật liệu lọc như than hoạt tính, cát, sỏi…Nước sẽ thấm
qua lớp than hoạt tính có tác dụng hấp thụ các chất độc hại, các loại vi sinh vật nguy
hiểm và trung hoà khoáng chất khó tan trong nước, sau đó nước tiếp tục thấm qua lớp
cát và lớp sỏi.
1.3.4. Công nghệ NanoVAST (Tổ hợp vật liệu NC-MF và NC-F20 kết nối với các
kỹ thuật khác)
Trong công nghệ NanoVAST, một hệ thống tiền xử lý theo kỹ thuật thông
thường được lắp đặt trước hệ thống hấp phụ. Nhiệm vụ của hệ thống này là bão hòa
oxy không khí nhằm tách loại triệt để Fe, Mn… và qua đó giảm tối đa nồng độ asen
và các chất rắn lơ lửng. Hiệu quả làm việc của hệ thống này là rất quan trọng nhằm
giảm tải và chống làm bẩn các chất hấp phụ. Tùy theo từng nguồn nước hệ thống này
có thể được thiết kế khác nhau.
Ưu điểm: Tổ hợp vật liệu NC-MF và NC-F20 hấp phụ với tốc độ nhanh với
dung lượng rất cao, khi cân bằng nồng độ asen trong nước nhỏ hơn tiêu chuẩn cho
phép (10 ppb). Việc ghép nối hệ thống tiền xử lý với hệ thống lọc nano trên nền vật
liệu NC-F20 và NC-MF cho phép kéo dài thời gian làm việc do nồng độ asen đầu vào
của cột hấp phụ NC-F20 giảm, tăng thời gian sống của NC-MF và NC-F20 và làm
giảm giá thành.
Nhược điểm: Việc kết nối Nano VAST với hệ thống tiền xử lý thông thường
(oxy hóa, lắng, lọc) vẫn sinh ra nhiều cặn rắn (trong bể lắng) chứa nồng độ cao của
asen và chi phí sẽ tăng lên do tốn thiết bị (thiết bị lắng. Thiết bị lọc thô và vật liệu
CIM…).
1.3.5. Keo tụ - Kết tủa
Cộng kết tủa – lắng – lọc đồng thời với quá trình xử lý sắt và/hoặc mangan có
sẵn trong nước ngầm tự nhiên. Đây là phương pháp xử lý đơn giản nhất, bằng cách
bơm nước ngầm từ giếng khoan, sau đó làm thoáng để ôxy hóa sắt, mangan, tạo
hydroxyt sắt và mangan kết tủa. Asen (III) được oxy hóa đồng thời thành As (V), có
khả năng hấp phụ lên bề mặt của các bông keo tụ Hydroxyt Sắt hay Mangan tạo
thành và lắng xuống đáy bể, hay hấp phụ và bị giữ lại lên bề mặt hạt cát trong bể lọc.
Nghiên cứu của Trung tâm KTMT ĐT & KCN (CEETIA), Trường ĐHXD và Trung
tâm CNMT & PTBV (CETASD), Trường ĐHKHTN năm 2000 – 2002 cho thấy công
nghệ hiện đại có tại các nhà máy nước ở Hà Nội, chủ yếu để xử lý sắt và mangan, cho
phép loại bỏ 50 – 80% Asen có trong nước ngầm mạch sâu khu vực Hà Nội. Nghiên
cứu gần đây của CETASD và Viện Công nghệ Môi trường Liên bang Thụy Sĩ cho
9
thấy đối với các hộ gia đình sử dụng giếng khoan đơn lẻ, nơi có hàm lượng sắt cao
trong nước ngầm, mô hình làm thoáng nước ngầm bằng cách phun mưa trên bề mặt
bể lọc cát (lọc chậm), phổ biến ở các hộ gia đình hiện nay, cho phép loại bỏ tới 80%
Asen trong nước ngầm cùng với việc loại bỏ sắt và mangan. Những nghiên cứu này
cũng đã chỉ rằng hàm lượng Asen trong nước sau khi xử lý bằng phương pháp trên
phụ thuộc nhiều vào thành phần các hợp chất khác trong nước nguồn và trong đa số
trường hợp, không cho phép đạt nồng độ Asen thấp dưới tiêu chuẩn, do vậy cần tiếp
tục xử lý bằng các phương pháp khác.
1.3.6. Oxi hóa
Oxi hóa bằng các chất oxi hóa mạnh: Các chất oxi hóa được phép sử dụng
trong cấp nước như Clo, KmnO4, H2O2, Ozon.
Oxi hóa điện hóa: Có thể xử lý nước chứa Asen bằng phương pháp dùng điện
cực là hợp kim và áp dụng cho các hộ sử dụng nước quy mô nhỏ.
Oxy- quang hóa: Công nghệ loại bỏ Asenite (As(III)) và cả các chất hòa tan
khác như Sắt, Phosphorus, Sulfur,... khỏi nước bằng cách đưa chất oxy hóa và chất
hấp phụ quang hóa: (chiếu tia cực tím vào nước rồi sau đó lắng). Chất oxy hóa có thể
là oxy tinh khiết hoặc sục khí. Chất hấp phụ quang hóa có thể là Fe(II), Fe(III),
Ca(II). Có thể sử dụng ánh sáng mặt trời làm nguồn tia cực tím. Phản ứng có thể xảy
ra ở nhiệt độ trong phòng và ánh sáng thấp, không đòi hỏi các thiết bị phức tạp. Do
As(III) bị oxy hóa thành As(V) với tốc độ rất chậm, có thể sử dụng các chất oxy hóa
mạnh như Cl2, H2O2 hoặc O3. Phần lớn chi phí xử lý chính là các chất oxy hóa này.
1.4. Cơ sở lí thuyết của đề tài
Trên cơ sở nguyên lý phản ứng oxi hóa quang hóa với nguồn năng lượng từ
ánh sáng mặt trời, kết hợp điều chỉnh pH bằng nước cốt chanh phù hợp cho quá trình
oxi hóa Fe(II) thành Fe(III), As(III) thành As(V), làm tăng cường khả năng hấp phụ
As(V) trên hiđroxit sắt mới sinh dẫn đến làm tăng khả năng loại bỏ As trong nước.
Nước ngầm khi vừa lấy lên thường chứa nhiều sắt (II) và Asen (III). Sắt ở
trong nước ngầm sẽ được sử dụng để tạo chất hấp phụ asen. Khi phơi nắng cho thêm
chanh thì xảy ra các quá trình sau:
hv,chanh →
Fe(II)
Fe(III) dạng FeOOH
As(III) (asenit)
As(V) (asenat)
hv
→
10
Sắt hiđroxit mới sinh có khả năng hấp phụ asen dạng asenat tốt nhất. As(V)
hấp phụ trên bề mặt của kết tủa FeOOH và lắng xuống dưới.
Với việc sử dụng các tấm giấy thiếc hoặc nhôm được gấp lại làm tăng cường
khả năng phản xạ, tích tụ nhiệt và các tia UV trong ánh sáng mặt trời vào khối nước
tạo điều kiện cho phản ứng quang hóa diễn ra triệt để, đồng thời cho phép diệt khuẩn,
đảm bảo nước sau xử lý an toàn về mặt sinh học.
11
Chương 2
THỰC NGHIỆM
2.1. Dụng cụ và hóa chất:
- Chai nhựa Lavie loại 500 ml; 350 ml.
- Dung dịch HNO3 (xuất xứ: Trung Quốc).
- Dung dịch H2O2 3% (nước oxi già) có thể mua ở các hiệu thuốc thông thường.
- Nước cất 2 lần, chanh, giấy nhôm.
- Đo tại: Trung tâm phân tích và giám định thực phẩm quốc gia – Viện Công
nghiệp thực phẩm (địa chỉ: 301 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội).
2.2. Thu mẫu nước:
Nước ngầm được lấy tại 3 địa điểm là xã Hồng Dương, huyện Thanh Oai; xã
Đông La, huyện Hoài Đức; quận Hà Đông (HĐ1), Hà Nội.
Tiến hành làm thực nghiệm ngay sau khi nước được lấy lên. Nước chưa đem
phân tích được phải bảo quản trong tủ lạnh (4oC).
2.3. Khảo sát hàm lượng Sắt và Asen trong mẫu nước ngầm
Lấy các mẫu nước ngầm đã chọn để đo nồng độ Fe và As ban đầu có trong các
mẫu nước đó tại Trung tâm phân tích và giám định thực phẩm quốc gia – Viện Công
nghiệp thực phẩm. Kí hiệu các mẫu như sau: Thanh Oai (TO1); Đông La, Hoài Đức
(ĐL1); Hà Đông (HĐ1).
Hình 2.1: Lấy
nước ngầm ở Đông La, Hoài
Đức, Hà Nội
2.4. Các bước làm một thí
nghiệm
Mỗi một thí nghiệm
sẽ được làm theo các bước sau:
+ Cho 400 ml nước ngầm
vào chai Lavie loại 500ml (chai
đã được tráng sạch bằng
dung dịch axit nitric loãng, sau
đó tráng bằng nước cất).
+ Thêm các điều kiện cần
khảo sát vào chai (ví dụ: nước
cốt chanh, dung dịch H2O2
3% , ...).
+ Nút kín, lắc mạnh trong khoảng 30 giây để oxi tan tối đa trong nước.
+ Phơi nắng trong một ngày từ 7.00h đến 17.00h: chai được đặt nằm ngang và tốt
nhất là đặt trên tấm giấy nhôm (loại bọc thực phẩm)
12
Yêu cầu: trời phải nắng ráo, ít mây, tốt nhất là làm vào mùa hè.
+ Sau khi phơi nắng, đặt chai thẳng đứng và để lắng qua đêm.
+ Gạn, lọc qua lớp bông y tế (lớp bông xốp dày 1,0 cm đặt trên phễu nhựa), loại bỏ
phần cặn rồi trút vào chai 350ml (cũng được tráng như chai 500ml).
+ Mẫu nước được bảo quản trong ngăn mát tủ lạnh (4oC).
+ Nước sau khi xử lý được đem xác định lại nồng độ Asen và Fe đó tại Trung tâm
phân tích và giám định thực phẩm quốc gia – Viện Công nghiệp thực phẩm.
Hình 2.1: Chuẩn bị các chai Lavie để làm thí nghiệm
2.5. Ảnh hưởng của pH đến khả năng hấp phụ Asen
pH được điều chỉnh bằng lượng nước cốt chanh cho vào các mẫu nước lấy tại
Đông La, Hoài Đức, Hà Nội. Tiến hành làm thí nghiệm với các mẫu (theo mục 2.4):
+ Không cho thêm nước cốt chanh.(ĐL2)
+ Thêm nước cốt chanh ở các mức độ: 5 giọt ( ĐL2(5)); 8 giọt (ĐL2(8)); 10 giọt
(ĐL2(10)).
Đem các mẫu đã làm thực nghiệm xác định lại hàm lượng As và Fe.
2.6. Ảnh hưởng của H2O2 đến khả năng oxi – hóa Asen(III)
Làm thí nghiệm với nước ngầm lấy ở Thanh Oai (hàm lượng As và Fe đều
cao), cụ thể làm với các mẫu (tiến hành thí nghiệm theo mục 4.4):
13
+ 1 mẫu chỉ làm với nước cốt chanh (8 giọt) + phơi nắng (TO2(8)): điều kiện tốt
nhất được xác định ở mục 2.5.
+ 1 mẫu: nước cốt chanh (8 giọt) + dung dịch H2O2 3% (10 giọt) + phơi nắng.(TO3)
Đem các mẫu đã làm thực nghiệm xác định lại hàm lượng As và Fe.
2.7. Xử lí Asen trong nước có hàm lượng sắt ít.
Mẫu nước lấy ở Hà Đông, Hà Nội có hàm lượng sắt thấp được làm thực
nghiệm như sau (theo mục 4.4):
+ 1 mẫu cho thêm nước cốt chanh (8 giọt) + phơi nắng.(HĐ2(8))
+ 1 mẫu cho thêm nước cốt chanh (8 giọt) + 5 đinh sắt gỉ (rửa sạch bụi bẩn) +
lắc đều trong vài phút + phơi nắng.(HĐ3)
- Đem các mẫu đã làm thực nghiệm xác định lại hàm lượng As và Fe.
2.8. Kiểm tra E.Coli và Coliform trong nước sau xử lý
Làm lại thực nghiệm như mẫu ĐL2(8), TO3, HĐ3 sau đó đem kiểm tra E.Coli
và Coliform trong nước sau xử lý.
Chương 3
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Thu mẫu nước
Nước ngầm ở 3 khu vực Thanh Oai, Hoài Đức, Hà Đông , Hà Nội là những
khu vực mà các nhà khoa học đã nhận định trong nước ngầm có Asen. Khi mới lấy
lên nước ngầm đều chưa có màu vàng, để trong không khí khoảng 1h đồng hồ nước
chuyển dần sang màu vàng. Nguyên nhân là do trong nước mới lấy lên sắt ở dạng
Fe(II), khi tiếp xúc với không khí Fe(II) bị oxi hóa thành Fe(III) nên nước chuyển
sang màu vàng.
14
Quan sát dưới đáy của thiết bị đựng nước ta có thể dự đoán sơ bộ được nước
của giếng khoan đó có nhiều hay ít sắt. Nếu nhiều sắt, ở dưới đáy của thiết bị đựng
nước thường có nhiều cặn vàng hơn là ít sắt.
Sắt (III) hiđroxit mới sinh (FeOOH) là chất hấp phụ As(V) tốt nhất nên nước
ngầm lấy lên phải được xử lý luôn, nếu để lâu hiệu quả loại quả As sẽ bị giảm.
3.2. Khảo sát hàm lượng Sắt và Asen trong các mẫu nước ngầm
Nước ngầm được lấy tại 3 địa điểm là xã Hồng Dương, huyện Thanh Oai (kí
hiệu TO1); xã Đông La, huyện Hoài Đức (kí hiệu ĐL1); quận Hà Đông (HĐ1), Hà
Nội.
Kết quả khảo sát như sau:
STT
2
Đơn vị
TO1
1
Tên chỉ tiêu
Kết quả
HĐ1
ĐL1
Nồng độ Arsen (As) (*)
µg/l
87
55
60
10
Nồng độ Sắt (Fe) (*)
mg/l
8,56
4,25
6,79
0,05
TCVN
6626:2000
AOAC
974.27
Bảng 3.1: Kết quả đo nồng độ sắt và asen trong các mẫu nước ngầm
Cả ba mẫu nước đều có hàm lượng As cao hơn mức độ cho phép (10 μg/l), đều
có thể gây ngộ độc nếu sử dụng làm nước uống khi chưa qua xử lý, trong đó mẫu
nước ở Thanh Oai có hàm lượng As cao nhất.
Về lượng sắt, hàm lượng của cả 3 mẫu đều cao hơn nhiều lần so với nồng độ
cho phép (0,5mg/l), cao nhất vẫn là nước lấy ở khu vực Thanh Oai. Tuy sắt không
gây độc hại cho cơ thể nhưng khi nồng độ sắt cao quá mức như vậy sẽ khiến cho
nước có vị tanh, màu vàng, độ đậm và độ đục tăng nên rất khó sử dụng.
Tỉ lệ nồng độ Sắt/Asen ở Thanh Oai, Hà Đông, Hoài Đức lần lượt là 98/1;
77/1; 113/1. Nồng độ sắt cao ở Thanh Oai, Hoài Đức sẽ tốt cho quá trình loại bỏ
Asen ra khỏi nước ngầm.
3.3. Ảnh hưởng của pH đến khả năng hấp phụ Asen
pH được điều chỉnh bằng lượng nước cốt chanh cho vào các mẫu nước lấy tại
Đông La, Hoài Đức, Hà Nội. Tiến hành làm thí nghiệm với các mẫu theo mục 2.5.
Mẫu nước không xử lý bằng chanh sau khi phơi nắng có trong hơn nhưng vẫn chưa
hết màu vàng. Các mẫu xử lý bằng chanh sau khi phơi 10h đồng hồ đều trong, có kết
tủa màu trắng lắng ở dưới.
15