Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.07 MB, 21 trang )
Quan sát dưới đáy của thiết bị đựng nước ta có thể dự đoán sơ bộ được nước
của giếng khoan đó có nhiều hay ít sắt. Nếu nhiều sắt, ở dưới đáy của thiết bị đựng
nước thường có nhiều cặn vàng hơn là ít sắt.
Sắt (III) hiđroxit mới sinh (FeOOH) là chất hấp phụ As(V) tốt nhất nên nước
ngầm lấy lên phải được xử lý luôn, nếu để lâu hiệu quả loại quả As sẽ bị giảm.
3.2. Khảo sát hàm lượng Sắt và Asen trong các mẫu nước ngầm
Nước ngầm được lấy tại 3 địa điểm là xã Hồng Dương, huyện Thanh Oai (kí
hiệu TO1); xã Đông La, huyện Hoài Đức (kí hiệu ĐL1); quận Hà Đông (HĐ1), Hà
Nội.
Kết quả khảo sát như sau:
STT
2
Đơn vị
TO1
1
Tên chỉ tiêu
Kết quả
HĐ1
ĐL1
Nồng độ Arsen (As) (*)
µg/l
87
55
60
10
Nồng độ Sắt (Fe) (*)
mg/l
8,56
4,25
6,79
0,05
TCVN
6626:2000
AOAC
974.27
Bảng 3.1: Kết quả đo nồng độ sắt và asen trong các mẫu nước ngầm
Cả ba mẫu nước đều có hàm lượng As cao hơn mức độ cho phép (10 μg/l), đều
có thể gây ngộ độc nếu sử dụng làm nước uống khi chưa qua xử lý, trong đó mẫu
nước ở Thanh Oai có hàm lượng As cao nhất.
Về lượng sắt, hàm lượng của cả 3 mẫu đều cao hơn nhiều lần so với nồng độ
cho phép (0,5mg/l), cao nhất vẫn là nước lấy ở khu vực Thanh Oai. Tuy sắt không
gây độc hại cho cơ thể nhưng khi nồng độ sắt cao quá mức như vậy sẽ khiến cho
nước có vị tanh, màu vàng, độ đậm và độ đục tăng nên rất khó sử dụng.
Tỉ lệ nồng độ Sắt/Asen ở Thanh Oai, Hà Đông, Hoài Đức lần lượt là 98/1;
77/1; 113/1. Nồng độ sắt cao ở Thanh Oai, Hoài Đức sẽ tốt cho quá trình loại bỏ
Asen ra khỏi nước ngầm.
3.3. Ảnh hưởng của pH đến khả năng hấp phụ Asen
pH được điều chỉnh bằng lượng nước cốt chanh cho vào các mẫu nước lấy tại
Đông La, Hoài Đức, Hà Nội. Tiến hành làm thí nghiệm với các mẫu theo mục 2.5.
Mẫu nước không xử lý bằng chanh sau khi phơi nắng có trong hơn nhưng vẫn chưa
hết màu vàng. Các mẫu xử lý bằng chanh sau khi phơi 10h đồng hồ đều trong, có kết
tủa màu trắng lắng ở dưới.
15
Hình 3.1: Các mẫu nước ở khu vực Đông La được phơi nắng
Kết quả sau đo lại nồng độ asen và sắt như sau:
ST
Tên chỉ tiêu
Đơn vị
ĐL2
2
Nồng độ Arsen (As)
( )
*
Nồng độ Sắt (Fe) (*)
3
% loại bỏ Asen
1
µg/l
mg/l
%
Kết quả
ĐL2(5)
ĐL2(8)
ĐL2(10)
47
30
10
18
10
5,05
22
3,95
50
1,12
83
1,59
70
0,5
TCVN
6626:2000
AOAC 974.27
Bảng 3.2: Kết quả đo nồng độ Asen và sắt sau khi khảo sát bằng chanh
Nhận thấy, mẫu ĐL2(8) cho kết quả tốt nhất, hàm lượng As đạt mức độ cho
phép, lượng Fe tuy vẫn nhiều hơn mức cho phép nhưng cũng đã giảm đáng kể, chứng
tỏ lượng nước cốt chanh cho vào chỉ nên dừng ở khoảng 8 giọt, nếu nhiều hơn sẽ lại
làm tăng hàm lượng asen và sắt. Khi lượng chanh nhiều, sắt (III) hiđroxit bị tan một
nên giảm chất hấp phụ Asen do đó lượng Asen còn lại cao hơn, đồng thời lượng sắt
cũng tăng lên.
Nước sau xử lý bằng chanh rất trong, cảm quan tốt, lượng chanh cho vào ít nên
không ảnh hưởng nhiều đến pH của nước (sau xử lý pH≈7). Nước này đã gần như có
thể sử dụng được luôn.
16
Hình 3.1: Các mẫu nước ở khu vực Đông La sau khi phơi nắng
3.4. Ảnh hưởng của H2O2 đến khả năng oxi – hóa Asen(III)
Làm thí nghiệm với nước ngầm lấy ở Thanh Oai (hàm lượng As và Fe đều cao)
theo mục 2.6.
Đem các mẫu đã làm thí nghiệm xác định lại nồng độ As và Fe.
STT
1
2
3
Tên chỉ tiêu
Nồng độ Arsen (As)
( )
*
Nồng độ Sắt (Fe)
( )
*
% loại bỏ Asen
Đơn vị
tính
µg/l
Kết quả
TO2(8)
20
TO3
12
mg/l
3,15
1,02
%
77
QCVN 02:
2009/BYT
Phương pháp thử
10
TCVN 6626:2000
0,5
AOAC 974.27
86
Bảng 3.3: Kết quả đo nồng độ sắt và asen sau khi khảo sát bằng H2O2.
Từ bảng kết quả thu được, ta thấy khi dùng thêm chất oxi hóa là H 2O2 khả năng
loại bỏ As ra khỏi nước tốt hơn. Khả năng hấp phụ trên sắt (III) hiđroxit của As(V)
tốt hơn As(III) nên khi nồng độ As và Fe cao (hoặc khi nắng ít) nên bổ sung thêm
chất oxi hóa (H2O2) để quá trình oxi hóa As(III) thành Asen (V) được tốt hơn từ đó
khả năng loại bỏ As cũng tốt hơn. Không chỉ có vậy lượng sắt ở mẫu dùng H 2O2 giảm
ba lần so với chỉ dùng chanh không, chứng tỏ việc sử dụng chất oxi hóa giúp cho quá
trình loại bỏ sắt và asen đều tốt hơn.
17
3.5. Xử lý Asen trong nước có hàm lượng sắt ít.
Mẫu nước lấy ở Hà Đông, Hà Nội có hàm lượng sắt thấp (tỉ lệ nồng độ sắt/asen
Hà Đông là 77/1) được làm thí nghiệm theo mục 2.7.
Đem các mẫu đã làm thí nghiệm xác định lại nồng độ As và Fe. Kết quả như
sau:
STT
1
2
3
Tên chỉ tiêu
Nồng độ Arsen (As) (*)
( )
Nồng độ Sắt (Fe) *
% loại bỏ Asen
Đơn vị
tính
µg/l
mg/l
%
Kết quả
HĐ2(8)
29
0,65
47
HĐ3
8
0,78
85
QCVN 02:
2009/BYT
Phương pháp thử
10
0,5
TCVN 6626:2000
AOAC 974.27
Bảng 3.4: Kết quả đo nồng độ sắt và asen trong các mẫu nước ngầm
Khi hàm lượng sắt trong nước ngầm không cao, sắt (III) hiđroxit mới sinh
không được nhiều nên lượng chất hấp phụ Asen bị giảm. Từ số liệu đo được ta thấy
rất rõ điều này, khi không bổ xung thêm sắt chỉ loại bỏ được 47% Asen, nhưng nếu
bổ xung thêm sắt thì hiệu quả tăng lên khá rõ có 85% Asen trong nước ngầm đã bị
loại bỏ.
3.6. Kiểm tra E.Coli và Coliform trong nước sau xử lý
Làm lại thực nghiệm như các mẫu ĐL2(8), TO3, HĐ3 sau đó đem kiểm tra
E.Coli và Coliform trong nước sau xử lý.
Kết quả:
STT
1
Tên chỉ tiêu
E.Coli
Kết quả
Đơn vị tính
ĐL2(8)
0
TO3
0
HĐ3
0
QCVN 02:
2009/BYT
Vi khuẩn/
0
100ml
2 Coliform tổng Vi khuẩn/
21
5
12
50
số
100ml
Bảng 3.5: Kết quả đo khuẩn e.coli và coliform trong nước sau xử lý.
Các mẫu nước sau xử lý đều đạt tiêu chuẩn về mặt sinh học, ít hơn cả mức độ
cho phép của e. coli và coliform. Trong điều kiện không thể đun sôi nước có thể uống
trực tiếp. Tuy nhiên, nước đun sôi luôn được khuyến cáo sử dụng.
18
KẾT QUẢ
Sau một thời gian nghiên cứu và làm thí nghiệm chúng em đã thu được các kết
quả sau:
1. Khi dùng chanh và ánh sáng mặt trời kết hợp với sắt có sẵn trong nước
ngầm đã loại bỏ được Asen với hiệu quả cao hơn so với khi không dùng
19
chanh. Hiệu quả loại bỏ Asen tốt nhất đạt 83% được xác định là khi cho
thêm nước cốt chanh với hàm lượng 20 giọt/1lít.
2. Khi nước ngầm có nồng độ asen và sắt cao cần cho thêm chất oxi hóa vào
(dùng H2O2 vì dễ mua và cũng không độc hại), hiệu quả loại bỏ asen thu
được cũng rất tốt (86%).
3. Tỉ lệ nồng độ Fe/As có ảnh hưởng đến khả năng hấp phụ As. Khi tỉ lệ này
thấp cần cho thêm sắt vào (dùng đinh sắt gỉ).
Chúng em đưa ra quy trình đơn giản sau để các hộ gia đình có thể áp dụng
được:
- Cho nước ngầm mới lấy vào 4/5 bình nhựa trong dung tích 20 lít.
- Thêm nước cốt chanh vào với hàm lượng 20 giọt/1lít. Lắc bình khoảng 30
giây.
- Nút kín, đặt bình nằm ngang và phơi nắng trong 1 ngày. Tốt nhất nên đặt
bình trên tấm giấy nhôm.
Tùy theo lượng sắt ít hay nhiều có thể dùng thêm dung dịch H2O2 hoặc đinh sắt
gỉ để làm tăng hiệu quả loại bỏ asen.
- Sau khi phơi nắng, đặt bình thẳng đứng và để lắng qua đêm.
- Gạn, lọc bỏ phần cặn bằng bông y tế hoặc vải sạch lấy phần nước trong để
dùng.
Một hộ gia đình 4 người cần mỗi ngày 50 lít nước sạch để dung cho việc ăn
uống.
Định hướng trong thời gian tới
- Hoàn thiện tiếp những nội dung đã làm ở trên.
- Tuyên truyền, vận động và hướng dẫn các hộ gia đình ở vùng nông thôn có
hàm lượng asen cao sử dụng phương pháp trên để có thể làm giảm thiểu/loại bỏ asen
và khử trùng nước để ăn uống, sinh hoạt nhằm bảo vệ sức khỏe cho chính mình và
cộng đồng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Alexander J.B. Zehnder
Solar powered cleaning - Chemistry&Industry • June 2013
2. Krishna Parajuli
Rural methods to mitigate arsenic contaminated water - December 2013
3. Nguyễn Minh Quang
20
PHƯƠNG PHÁP ÐƠN GIẢN VÀ RẺ TIỀN ÐỂ LOẠI TRỪ HOẶC GIẢM BỚT
ARSENIC (THẠCH TÍN) TRONG NƯỚC NGẦM Ở VIỆT NAM
Tháng 9 năm 2010
4. Information collected from: www.sodis.ch
5. Back to the Household –Also in Water Treatment
EAWAG news 48
21