Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.53 KB, 27 trang )
b. Quan điểm tích hợp trong môn Tiếng Việt ở lớp 3
Trong môn Tiếng Việt ở Tiểu học quan điểm xây dựng chương
trình và sách giáo khoa được xây dựng trên quan điểm tích hợp với hai
chiều hướng là: Tích hợp theo chiều ngang và tích hợp theo chiều dọc.
* Tích hợp theo chiều ngang: Tích hợp kiến thức Tiếng Việt với
các mảng kiến thức về văn học, thiên nhiên, con người và xã hội theo
nguyên tắc đồng qui. Chương trình và sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 3
thực hiện mục tiêu tích hợp nói trên thông qua hệ thống các chủ điểm
học tập bằng việc tổ chức hệ thống bài học, bài học theo chủ điểm. Sách
giáo khoa dẫn dắt học sinh đi dần vào các lĩnh vực của đời sống, qua đó
tăng cường vốn từ, vốn diễn đạt của các em về nhà trường, gia đình và
xã hội. Đồng thời cũng mở cánh cửa cho các em bước vào thế giới xung
quanh để soi vào thế giới tâm hồn của mình. Theo quan điểm tích hợp
các phân môn trong Tiếng Việt (Tập đọc, kể chuyện, chính tả, luyện từ
và câu, tập làm văn) trước đây ít gắn bó với nhau nay đã được tập hợp
lại xung quanh trục chủ điểm và các bài đọc, các nhiệm vụ cung cấp
kiến thức và rèn luyện kỹ năng được gắn bó chặt chẽ với nhau hơn nữa.
* Tích cực theo chiều dọc là tích hợp một đơn vị kiến thức và kỹ
năng mới với những kiến thức và kỹ năng đã học trước đó theo nguyên
tắc đồng tâm. Cụ thể là kiến thức kỹ năng của lớp trên, bậc học trên bao
gồm kiến thức và kỹ năng ở lớp dưới, bậc học dưới cao hơn, sâu hơn
kiến thức và kỹ năng lớp dưới. Điều này được thể hiện rất rõ ở lớp 1,
lớp 2 và lớp 3.
- Về kiến thức ở lớp 3 toàn bộ các bài học đều được xây dựng
theo chủ điểm: Nhà trường, gia đình, xã hội và thiên nhiên. Ở lớp 1
thời gian dành cho mỗi đơn vị học là một tuần, các chủ điểm lần lượt đi
trở lại theo kiểu đồng tâm xoáy trôn ốc mỗi lần trở lại là một lần khai
4
thác sâu hơn. Đến lớp 3 mỗi chủ điểm nói trên được chia thành nhiều
chủ điểm nhỏ tạo điều kiện cho học sinh hiểu biết sâu hơn nữa.
- Về kỹ năng: Từ chỗ biết đọc trơn và đọc nhẩm ở lớp 1, lớp 2 thì
bây giờ học sinh lớp 3 được rèn để có kỹ năng đọc thầm và bước đầu
biết đọc lướt để nắm ý trả lời câu hỏi, từ chỗ biết nói một số câu đơn
giản với âm, vần đã học, học sinh có thể đặt câu theo mẫu đã cho và nói
về bản thân, gia đình, bạn bè, trường lớp... bằng một số câu đơn giản.
c. Mục đích vai trò của nội dung kể chuyện
Giờ kể chuyện có liên quan đến nhu cầu nghe kể chuyện của trẻ
em góp phần hình thành nhân cách, đem lại những cảm xúc lành mạnh
cho tâm hồn học sinh. Thích nghe kể chuyện là một đặc điểm của trẻ
em. Phân môn kể chuyện trong chương trình Tiểu học trước tiên đáp
ứng yêu cầu thích kể chuyện của trẻ, kể chuyện có sức mạnh riêng trong
chương trình Tiểu học trước tiên đáp ứng yêu cầu thích kể chuyên của
trẻ, kể chuyện có sức mạnh riêng trong việc giáo dục trẻ. Sức mạnh này
bắt nguồn từ công cụ mà môn kể chuyện sử dụng đó là tác phẩm văn
học nghệ thuật giáo viên dùng kể trước lớp. Các tác phẩm văn học có
tác dụng lớn đến tâm hồn và cảm xúc của các em, đem lại những cảm
xúc thẩm mỹ lành mạnh.
* Giờ kể chuyện góp phần tích lũy vốn văn học, mở rộng vốn
sống cho trẻ. Giờ kể chuyện giúp cho trẻ sớm tiếp xúc với tác phẩm văn
học. Suốt những năm ở bậc Tiểu học, học sinh được nghe và tham gia
kể hàng trăm câu chuyện với đủ thể loại, gồm những tác phẩm văn học
có giá trị của Việt Nam và thế giới, từ chuyện cổ tích đến chuyện hiện
đại. Do đó vốn của học sinh được tích lũy dần. Đây là những hành trang
quí sẽ theo em nhiều trong suốt cuộc đời của mình. Các chuyện kể còn
chấp cánh cho trí tưởng tượng của các em bay bổng. Cùng với lý tưởng,
5
óc tưởng tượng là bệ phóng cho những hoài bão, ước mơ cao đẹp khi
các em bước vào cuộc sống, bệ phóng cho sự sáng tạo.
Giờ kể chuyện góp phần rèn luyện và phát triển kĩ năng nói kể
trước đám đông một cách có nghệ thuật, góp phần khơi gợi tư duy hình
tượng cho trẻ. Sống với các nhân vật trong chuyện, tư duy hình tượng
cho trẻ được khêu gợi và có điều kiện phát triển cùng cảm xúc thẩm mỹ.
Qua từng câu chuyện, các em biết giá trị của từng chi tiết, thấm thía với
hình ảnh nghệ thuật, từng nhân vật... Do đó kể chuyện là mảnh đất màu
mỡ để trên đó tư duy hình tượng của em phát triển. Mặt khác giờ kể
chuyện phát triển ngôn ngữ nói cho học sinh. Điều đáng chú ý, đây là
cách nổi trước đám đông một cách nghệ thuật. Còn phải rèn luyện để
nắm được các thủ thuật hấp dẫn người nghe để có thể điều khiển được
giọng kể hợp với giọng kể, hợp với diễn biến từng loại chuyện khác
nhau. Có thể nói ngôn ngữ “nói” được rèn luyện trong giờ kể chuyện
hướng tới phong cách nghệ thuật.
d. Cách tổ chức dạy kể chuyện
* Cách tổ chức tiết dạy kể chuyện theo hướng vận dụng quan
điểm tích hợp ở lớp 3. Để tổ chức tốt một tiết kể chuyện ở lớp 3 giáo
viên có thể tiến hành theo hai cách:
- Cách thứ nhất tiến hành hiện nay theo hướng dẫn chương trình
của Bộ giáo dục đã quy định sẵn các truyện cần kể từ tiết 1 đến tiết cuối
cùng của năm học. Giáo viên là người chủ động kể lại câu chuyện có
trong sách, hướng dẫn học sinh tập kể từng đoạn và cả câu chuyện.
- Cách thứ hai là tạo một khoảng trời xanh, rộng rãi hơn cho giáo
viên và chủ yếu là học sinh.
Trong tiết kể chuyện do giáo viên và học sinh lựa chọn còn các
truyện trong sách chỉ là một gợi ý. Từ những cách tổ chức giờ dạy kể
6
chuyện như trên không nhất thiết người kể đầu tiên là giáo viên. Có thể
trong tiết học giáo viên chỉ nêu đề tài, mỗi học sinh có câu chuyện riêng
của mình xung quanh đề tài đã cho và kể lại. Lúc đó nghệ thuật kể sao
cho hấp dẫn sẽ gây sự hứng thú đối người nghe. Hai cách tổ chức tiết
dạy kể tạo cho giáo viên và học sinh có vị trí chủ động khác nhau nhấn
mạnh vào các yêu cầu rèn kĩ năng khác nhau, mỗi cách tổ chức kể
chuyện tạo ra vai trò chủ động làm sao phải chú trọng đến học sinh để
học sinh được nghe và kể lại cho mọi người cùng nghe.
* Các hoạt động chính trong tiết kể chuyện là nghe và kể của giáo
viên và học sinh. Do đó kỹ năng kể chuyện và phương pháp điều khiển
tiết kể chuyện là của giáo viên, phương pháp rèn luyện kỹ năng nghe và
kể chuyện và kỹ năng điều khiển tiết kể chuyện của giáo viên. Tài kể
chuyện của giáo viên có vai trò quan trọng trong tiết kẻ chuyện. Đó là
yếu tố hấp dẫn, lôi cuốn học sinh, là phương tiện đầu tiên để chuyển nội
dung câu chuyện cần kể tới học sinh là các mẫu mực về kể chuyện cho học
sinh noi theo, tài kể chuyện còn phụ thuộc vào năng khiếu nhưng chủ yếu
do công phu luyện tập mà có. Chính vì vậy người giáo viên cần:
- Nắm vững nội dung câu chuyện cần kể
- Lựa chọn giọng điệu kể và ngôn ngữ.
- Lựa chọn điểm nhấn, điểm dừng làm kích thích hứng thú người
nghe
- Sử dụng các yếu tố phi ngôn ngữ phụ trợ cho lời kể, cử chỉ và
điệu bộ cho lời kể.
- Với cấp Tiểu học, tranh ảnh minh họa có tác dụng kích thích trí
tò mò và gây hứng thú cho các em. Sử dụng những tranh ảnh phù hợp
đúng chỗ là một nghệ thuật có sáng tạo.
* Rèn kỹ năng nghe và kỹ năng kể chuyện cho học sinh.
7
+ Rèn kỹ năng nghe: Nghe là để tiếp nhận và sử lý thông tin để có
thể hiểu nội dung các thông tin đó. Nghe kể chuyện là một trong nhiều
hình thức nghe. Đối tượng của hình thức nghe này là một văn bản nói
mang tính nghệ thuật. Do đó người nghe không những cần nhớ, cần hiểu
mà còn cần cảm thụ đối với câu chuyện. Chính vì vậy, nghe kể chuyện
vừa phải vận dụng cả tư duy lẫn cảm xúc, vừa huy động cả trí nhớ lẫn
tình cảm. Đây là điều đặc thù của kỹ năng nghe kể chuyện.
Kỹ năng nghe của học sinh được tất cả các môn học rèn luyện. Vì
vậy phân môn kể chuyện hướng vào rèn luyện thao tác đặc thù, yêu cầu
đặc thù của kỹ năng nghe kể chuyện. Rèn kỹ năng nghe và nắm các chi
tiết của chuyện, rèn kỹ năng nghe để thấu hiểu được tình cảm, cảm xúc
của người kể qua nội dung câu chuyện, qua giọng điệu, ngôn ngữ của
người kể.
+ Rèn kỹ năng kể chuyện cho học sinh. Kể chuyện là một cách nói
có nghệ thuật về một văn bản mang tính thẩm mỹ, kỹ năng kể chuyện
chỉ có thể rèn luyện đạt kết quả trên cơ sở học sinh có kỹ năng nói tốt.
Muốn rèn luyện kỹ năng kể chuyện, trước tiên phải rèn luyện kỹ năng nói
tốt, rõ ràng, khúc chiết, lưu loát. Một yêu cầu quan trọng của kỹ năng kể
chuyện là phải hấp dẫn, phải có sự truyền cảm. Người kể chuyện phải có
người nghe, phải tạo cho người nghe cảm xúc theo nội dung câu chuyện
phù hợp với diễn biến, nội tâm nhân dân để tạo sự hấp dẫn, truyền cảm
người nghe. Bên cạnh đó người kể chuyện phải kể đúng, trung bình với
câu chuyện, không bỏ sót những tình tiết, chi tiết quan trọng.
e. Qui trình tiến hành một giờ kể chuyện
- GV kể lần một toàn bộ nội dung câu chuyện theo hướng dẫn
hoặc tranh minh họa.
- Hướng dẫn học sinh tìm hiểu ý nghĩa câu chuyện
8
- GV kể lại lần hai theo tóm tắt câu hỏi gợi ý tranh minh họa
- Hướng dẫn học sinh kể từng đoạn của câu chuyện
- Học sinh tập kể toàn bộ câu chuyện
2. Cơ sở thực tiễn
a. Chương trình sách giáo khoa - sách giáo viên Tiếng Việt lớp 3
Chương trình tiếng Việt ở tiểu học yêu cầu dạy cả bốn kỹ năng
(nghe, nói, đọc, viết). Tiếng Việt gắn liền với đời sống, với thực tiễn, sự
tích hợp trong môn Tiếng Việt là vòng tròn đồng tâm kiến thức phân
mảng theo chủ đề, chủ điểm từ lớp một đến lớp năm. Sự tích hợp trong
việc rèn luyện các kỹ năng Tiếng Việt thể hiện trọng tâm môn kể
chuyện lớp hai là (nghe, nói, đọc, viết) trong bốn kỹ năng tối thiểu.
Đồng thời qua môn kể chuyện nhằm phát triển tốt lối nói và khả năng tư
duy trước khi giao tiếp cho trẻ. Sự đổi mới chương trình về sách giáo
khoa sau năm 2000 kéo theo sự đổi mới về phương pháp dạy học hết
sức cần thiết. Để dạy học Tiếng Việt nói chung và dạy học phân môn kể
chuyện nói riêng có hiệu quả như quan điểm tích hợp. Lời giáo viên cần
vận dụng triệt để các tính chất và phương pháp dạy học phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
b. Về nội dung chương trình lớp 3
Với 35 tuần bằng 31 câu chuyện và 4 bài ôn tập. Mỗi câu chuyện
chính là một bài tập của đầu tuần theo chủ điểm. Số tiết kể chuyện được
bố trí theo bảng sau:
STT
Chủ đề
1
Măng non
2
3
Câu chuyện
- Cậu bé thông minh
Số tiết
0,5
Mái ấm
- Ai có lỗi
- Chiếc áo len
0,5
0,5
Tới trường
- Người mẹ
- Người lính dũng cảm.
0,5
0,5
9
4
5
Cộng đồng
- Bài tập làm văn
- Trận bóng dưới lòng đường
0,5
0,5
Quê hương
- Các em nhỏ và cụ già
- Giọng quê hương
0,5
0,5
- Đất quí, đất yêu
Trung - - Nắng phương Nam
0,5
0,5
6
Bắc -
7
Nam
Anh em một nhà
8
- Hũ bạc của người cha
Thành thị và nông - Đôi bạn.
0,5
0,5
9
thôn
Bảo vệ Tổ quốc
- Mồ côi xử kiện
- Hai Bà Trưng
0,5
0,5
Sáng tạo
- Ở lại với chiến khu
- Ổng tổ nghề thêu.
0,5
0,5
Nghệ thuật
- Nhà bác học và bà cụ
- Nhà ảo thuật
0,5
0,5
Lễ hội
- Đối đáp với vua
- Hội vật
0,5
0,5
Thể thao
- Sự tích lễ hội Chử Đồng Tử
- Kho báu
0,5
0,5
Bác Hồ
- Những quả đào
- Cuộc chạy đua trong rừng
0,5
0,5
- Buổi học thể dục
0,5
10
11
12
13
14
- Người con của Tây Nguyên
- Người lên lạc nhỏ
0,5
0,5
Nhận xét: Nhìn vào bảng thống kê ta thấy với 15 chủ đề với 33
câu chuyện mỗi tuần 1 chuyện với nhiều thể loại phong phú cho cả
chương trình kể chuyện. Thời gian kể chuyện tương ứng là 15 - 20 phút
mỗi tiết. Thời gian như vậy đủ cho học sinh phát huy hết khả năng nghe
kể lại câu chuyện đã được học kỹ trong hơn một tiết tập đọc trước đó.
10
c. Về nội dung và yêu cầu kỹ năng
- Các chuyện được lựa chọn dạy trong chương trình kể chuyện lớp
3 là những câu chuyện thần thoại, cổ tích, truyện về nhân dân, truyện
người tốt việc tốt... có tính hấp dẫn trẻ nhỏ ở những tình tiết thần bí.
- Mức độ kỹ năng cần đạt đối với học sinh lớp 3 là biết kể lại một
đoạn ngắn trong câu chuyện mà giáo viên đã kể.
* Hình thức kể chuyện là kể theo tranh, kể theo dàn ý cho sẵn,
phân vai diễn lại một đoạn hoặc toàn bộ câu chuyện.
* Sách giáo khoa: Sách giáo khoa Tiếng Việt in chung tất cả các
phân môn trong Tiếng Việt. Phân môn kể chuyện là một phần trong sách
giáo khoa - Nội dung ở bài tập đọc đã học trước đó - Phần hướng dẫn kể
chuyện là những câu hỏi gợi ý hoặc tranh minh họa. Bên cạnh đó còn có
một cuốn truyện đọc riêng nhưng cuốn sách đó chỉ là bổ trợ cho những
câu chuyện mở rộng của giáo viên nếu còn thời gian.
II. THỰC TIỄN VIỆC VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TÍCH HỢP ĐỂ
TỔ CHỨC DẠY KỂ CHUYỆN LỚP 3
1. Thuận lợi
- Nội dung kể chuyện ở lớp 3 là kể lại câu chuyện đã học ở bài tập
đọc hai tiết trước đó.
- Hình thức kể chuyện thì phong phú, giáo viên có thể vận dụng
tất cả hình thức kể chuyện vào như: Kể chuyện theo tranh, kể chuyện
theo dàn ý cho sẵn hoặc phân vai (đóng vai) kể chuyện trong bất kỳ câu
chuyện nào nếu phù hợp với yêu cầu của bài học.
- Tranh ảnh ở phân môn kể chuyện rất đẹp và nhiều về số lượng
hầu như câu chuyện nào cũng có một vài tranh minh họa rất cụ thể và
chia làm hai loại rất rõ ràng là tranh minh họa và có kèm theo gợi ý là
một câu đầu hoặc một đối thoại trong đoạn truyện và tranh không kèm
11
theo gợi ý nhưng cũng rất hài hòa phù hợp kích thích hứng thú quan sát
cho học sinh.
- Hệ thống câu hỏi gợi ngắn gọn, rõ ràng tạo ra một dàn ý ngắn
gọn dễ hướng dẫn học sinh kể lại từng đoạn hoặc toàn bộ câu chuyện.
Giáo viên khi dạy kể chuyện cho học sinh bao giờ cũng dùng những câu
hỏi gợi ý rất gần với nhận thức của các em, nên các em để nắm bắt được
ý đồ của câu gợi ý để kể lại đoạn truyện một cách ngắn gọn và cô đọng
nhất.
- Kể chuyện phân vai là hình thức gây hứng thú cho học sinh
mạnh nhất vì ở đó các em kể chuyện đang biểu diễn diễn cho nhân vật
của mình hoàn thiện nhất, đồng thời khi kể chuyện các em có thể đối
thoại với nhau theo đúng cảm xúc của lời nhân vật để làm cho nhân vật
đó nổi bật nhất một con người có tình cảm, cảm xúc và hoạt động phù
hợp.
- Khi dạy phân môn kể chuyện thực tế nơi tôi ở và trực tiếp làm
công tác giảng dạy, giáo viên chúng tôi đã phần nào vận dụng tốt quan
điểm tích hợp để dạy học làm cho môn học, giờ học sinh động, thu hút
và kích thích tốt hứng thú học tập của các em và phần lớn các em đã tự
tin, tự nhiên hơn trong giờ học kể chuyện.
2. Khó khăn
- Các em học sinh ở trường tôi chủ yếu là con em ở vùng nông
thôn xen lẫn hộ kinh doanh và con cán bộ, nên trình độ nhận thức không
đồng đều, lời nói Tiếng Việt của các em còn hạn chế.
Kể chuyện
Tiết 186: ĐỐI ĐÁP VỚI VUA
I. Mục đích, yêu cầu:
12
- Có khả năng khái quát ND để đặt tên cho từng đoạn chuyện dựa
vào tranh.
- Kể lại được từng đoạn chuyện theo tranh, Giọng kể phù hợp với
từng ND.
- GD ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
II. Đồ dùng dạy học:
- GV: Tranh minh họa trong SGK
- HS: SGK
III. Các hoạt động dạy học chủ yếu
1. Tổ chức:
2. Kiểm tra bài cũ:
- Kể chuyện: Hội vật
- 3 HS kể nối tiếp - Nhận xét
3. Bài mới: Giới thiệu bài
a. Hoạt động 1: HD kể chuyện
- GV nêu nhiệm vụ: Sắp xếp lại các tranh - HS lắng nghe
theo đúng thứ tự của câu chuyện Đối đáp
với vua rồi kể lại toàn bộ câu chuyện
- HS quan sát 4 tranh
- Hướng dẫn HS kể chuyện:
- HS phát biểu thứ tự đúng
của từng tranh 3-1-2-4
- Sắp xếp lại 4 tranh theo đúng thứ tự 4 - 4 HS dựa vào thứ tự đúng
đoạn trong tranh
của 4 tranh, tiếp nối nhau kể
- Kể lại toàn bộ câu chuyện.
lại câu chuyện
- 1-2 Hs kể lại toàn bộ câu
- GV nhận xét, đánh giá, cho điểm
chuyện
- HS nhận xét đánh giá
Qua giáo án trên, một giờ dạy kể chuyện tôi đã dạy ở lớp 3 đã trôi
đi nhanh chóng trong thời gian 10 phút. Thời gian tôi kể mẫu cho các
em nghe có tới 5 - 7 phút, thời gian hướng dẫn các em quan sát, sắp xếp
tranh hết đến 6 phút và các em nói nội dung tranh ấp a ấp úng hết 6 -7
13
phút. Vậy thời gian để các em kể, các em luyện nói chỉ còn khoảng 5
phút thì quả là ít vì nếu mỗi em đứng dậy nói nhanh chóng có lưu loát
thì cũng hết 3 phút/1em cho một nội dung tranh. Vậy thì thời gian để
nói đúng còn chưa đủ cho các em kể chứ chưa nói gì đến việc các em kể
chuyện hay, kể chuyện hấp dẫn, thu hút người nghe và liên hệ thực tế
nữa. Chính vì thế mà tôi phải cố gắng hết sức mình cho giờ học này đạt
kết quả nhưng không như mong muốn. Số học sinh được nói, được kể
chuyện ít, khả năng nói kém, hiệu quả giờ học thấp.
III. CÁC BIỆN PHÁP MỚI
1. Giáo viên phải nắm vững mục đích yêu cầu, nội dung chính của
giờ dạy. Biết dự tính trước những tình huống có thể xảy ra trong giờ học
để chọn phương pháp dạy học thích hợp.
2. Muốn học sinh có khả năng biết kể chuyện tốt cần rèn luyện
cho các em biết diễn đạt trực tiếp không chỉ trong giờ kể chuyện mà
phải tiến hành tất cả các giờ học khác để hình thành cho các em một
thói quen tự tin, có văn hóa. Giờ kể chuyện cần nâng cao kỹ năng nói
thành lời nói nghệ thuật có hiệu quả cao trong quá trình giao tiếp.
3. Kể chuyện là môn học kế tiếp phân môn tập đọc, thừa kế những
kiến thức kỹ năng được phát triển tự nhiên. Tập đọc nên nó cần có sự
củng cố bổ trợ từ phân môn Tập đọc cùng các phân môn khác trong rèn
kỹ năng nói cho học sinh lớp 3 chuẩn bị cho những cấp học tiếp theo.
4. Câu hỏi gợi ý trong phân môn kể chuyện là hết sức ngắn gọn
không có sự chẻ nhỏ như các phân môn khác nên khi dạy học, người
giáo viên cần đặc biệt lưu ý khả năng trả lời, trả lời rõ ràng đúng nội
dung mà câu hỏi nêu ra đối với học sinh. Giáo viên không nên nêu câu
hỏi quá khó, quá tổng quát, dài dòng không rõ nghĩa, rõ ý làm cho học
sinh không kể được hoặc không có khả năng tổng hợp được nội dung để
14