1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Y khoa - Dược >

Mục tiêu cụ thể.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (422.89 KB, 43 trang )


Chương i



Tổng quan

1.1. Khái niệm về sức khoẻ .

Theo tổ chức Y tế thế giới (WHO) thì sức khoẻ không phải đơn thuần chỉ là

không có bệnh tật mà là trạng thái hoàn toàn thoải mái về thể chất, tinh thần và xã

hội [1]. Vì vậy sức khoẻ được coi là tài sản quí giá của con người, sức khoẻ đã có

và tồn tại từ khi con người sinh ra cho đến khi chết, nhưng mức độ thì thường

xuyên thay đổi trong suốt cuộc đời [9].

Nghiên cứu các quy luật phát triển của cơ thể ở lứa tuổi đang lớn và những

yếu tố ảnh hưởng lên quá trình này có ý nghĩa lí luận và thực tế lớn lao. một trong

những nội dung quan trọng của môn hình thái người là nghiên cứu đặc điểm tăng

trưởng và các kích thước nhân trắc của cơ thể. Trong quá trình phát triển bắt đầu

từ sơ sinh cho đến khi trưởng thành, chứa đựng hàng loạt các biến đổi xâu sắc,

đặc biệt là trong thời kì dậy thì. Vì vậy các nhà sinh học, y học, giáo dục học trên

thế giới đều quan tâm đến [17] .

1.2. Lứa tuổi vị thành niên .

lứa tuổi vị thành niên kéo dài trong khoảng 10 năm từ 10 đến 19 tuổi [28].

Là thời kỳ chuyển tiếp từ trẻ em thành người lớn. Nó được đánh dấu bằng những

thay đổi xen lẫn nhau về thể chất, trí tuệ và mối quan hệ xã hội chuyển từ đơn

giản sang phức tap .

đây là lứa tuổi chiếm tỉ lệ cao (34%) dân số thế giới. Lứa tuổi này được

quan tâm bởi nó không những chiếm một tỉ lệ khá cao trong tháp dân số, mà tỉ lệ

của lứa tuổi này tăng nhanh đáng kể so với các nhóm tuổi khác. Giữa những năm

của thập kỉ 60 và 80 trong khi dân số thế giới tăng 46% thì lứa tuổi vị thành niên

tăng 66%. Có một tỉ lệ rất cao thanh thiếu niên sống ở các nước đang phát triển

và tỉ lệ này tăng lên rất nhanh.Theo thông kê năm 1980 có 77% dân số là ở lứa

tuổi vị thành niên sống ở các nước đang phát triển và sẽ tăng lên 83% vào năm

-3-



2000 [23,25]. hơn nữa đây là lứa tuổi dậy thì đó là giai đoạn đánh dấu sự chín

muồi, sự trưởng thành của trẻ.

Tình trạng dinh dưỡng của lứa tuổi nữ vị thành niên là yếu tố quan trọng góp

phần làm xuất hiện sớm hay muộn một trong các dấu hiệu phát triển sinh lý của

trẻ. Nhiều nghiên cứu trên thế giới cho thấy các thiếu nữ có tình trạng dinh dưỡng

tốt thường có hành kinh sớm so với các thiếu nữ có tình trạng dinh dưỡng kém.

Tốc độ tăng trưởng nói chung ở thiếu nữ hành kinh sớm cao hơn so với những

thiếu nữ có hành kinh muộn. Tuy nhiên cả hai nhóm đủ và thiếu dinh dưỡng cuối

cùng đều đạt được chiều cao tương tự trong thời kỳ vị thành niên. Mặc dù phát

triển có thể xảy ra sớm hay muộn hơn và thời gian phát triển cũng có sự khác

nhau[24].

Các dịch vụ sức khoẻ hiện nay mới chỉ quan tâm tới bà mẹ và trẻ em dưới 5

tuổi mà chưa quan tâm một cách đầy đủ đến đối tượng quan trọng này, đặc biệt

các nước đang phát triển. Để lại những vấn đề quan trọng chưa được giải quyết

[23,25] .

Do vậy vấn đề sức khoẻ và phát triển đối với lứa tuổi vị thành niên đòi hỏi

đặt ra vấn đề cấp bách cho xã hội .

1.3. Tình trạng dinh dưỡng lứa tuổi vị thành niên .

đứng về góc độ sinh học lứa tuổi vị thành niên là giai đoạn chuyển tiếp rất

quan trọng, chuẩn bị cho giai đoạn phát triển đầy đủ của cơ thể. Tầm vóc thấp

(còi cọc) ở tuổi vị thành niên được coi là chỉ tiêu đánh giá tình trạng dinh dưỡng

trong quá khứ, nó phản ánh quá trình tích luỹ chồng chất của sự thiếu ăn và môi

trường sống kém. Người ta cho rằng 25% chiều cao có được của con người đạt

được ở lứa tuổi vị thành niên, kết thúc tuổi dậy thì cũng là kết thúc tăng trưởng về

chiều cao[17].

1.3.1. Tình trạng thiếu dinh dưỡng.

Lứa tuổi vị thành niên là thời kỳ phát triển rất nhanh (vượt trội) cân nặng

cũng như chiều cao, cả về cơ bắp lẫn dự trữ mỡ ... vì vậy nếu bị thiếu ăn, thiếu



-4-



chăm sóc cũng dễ bị thiếu dinh dưỡng (trọng lượng thấp) và cũng là vấn đề cần

quan tâm [17].

Theo Ye Gang thì các số đó về nhân trắc (cân nặng/ chiều cao) là rất cơ bản,

tiện lợi đánh giá tình trạng dinh dưỡng lứa tuổi này. Tình trạng dinh dưỡng kém

được xác định bởi chỉ số khối cơ thể (BMI) (cân nặng/ chiều cao 2). Tình trạng

dinh dưỡng của quân thể phản ánh quá trình nuôi dưỡng, môi trường và bệnh tật

trước đây, vì vậy trong giai đoạn tuổi vị thành niên nếu dinh dưỡng kém sau này

khi mang thai sẽ dẫn đến suy dinh dưỡng bào thai làm giảm trọng lượng sơ sinh

của trẻ [17].

ở các nước đang phát triển tỷ lệ thiếu dinh dưỡng trẻ em học đường vẫn còn



khá cao đặc biệt là trẻ em ở các vùng nông thôn nghèo. Lứa tuổi học đường ít gặp

tình trạng thiếu dinh dưỡng nặng trừ khi có nạn đói vì ở lứa tuổi này trẻ phát triển

chậm hơn so với thời kỳ trẻ < 5 tuổi, và chúng có thể đòi ăn khi chúng đói. Các

nguyên nhân gây nên thiếu dinh dưỡng ở trẻ em học đường có thể là:

- Có thể trẻ đã bị suy dinh dưỡng từ lúc bé.

- Do chế độ ăn hiện tại quá kém.

- Chúng có thể bị đói: Do bữa sáng không ăn hoặc ăn quá ít và trẻ bị đói vào

giữa buổi mà thường gọi là đói ngắn kỳ.

- Nhiều đứa trẻ phải đi bộ quá xa để đến lớp hoặc trở về nhà quá muộn vì

quãng đường dài làm cho đưá trẻ mệt không muốn ăn [29].

Những trẻ học đường có nguy cơ bị thiếu dinh dưỡng là:

- Trẻ từ các gia đình nghèo: bố, mẹ thất nghiệp.

- Có bố hoặc mẹ bị chết hoặc bị bệnh.

- Trẻ thường phải tự chăm lo cho bản thân mình do bố mẹ đi làm xa.

- Trẻ sống trong vùng bị thiếu ăn.

- Trẻ ăn nhiều quà vặt như kẹo hoặc nước ngọt, thường là những trẻ ở thành

thị mà bố mẹ thường đi làm xa hoặc thường vắng nhà [29].



-5-



Theo kết quả nghiên cứu của một số tác giả nước ngoài cho thấy tình trạng

dinh dưỡng kém ở trẻ em vị thành niên 12-18 tuổi theo chỉ số BMI khá phổ biến.

Nepal 36%, ấn Độ 33%.

ở Việt Nam cũng đã có một số các nghiên cứu về lứa tuổi học đường.



Mondiere năm 1875 đo chiều cao của 3774 trẻ em miền Nam Việt Nam, nghiên

cứu sự phát triển thể lực của học sinh Hà Nội 1943 của Đỗ Xuân Hợp. Đến 1985

là nghiên cứu của Hà Huy Khôi và Bùi Thị Nhu Thuận thì cho thấy: tuy trọng

lượng và chiều cao của học sinh Hà Nội thấp hơn so với NCHS, nhưng cao hơn

so với HSSHVN (1975) và Đỗ Xuân Hợp (1943) và các số liệu đã công bố trước

đây. Nghiên cứu này đã chỉ ra khác biệt rõ ràng giữa trẻ em nông thôn và thành

phố. Cân nặng và chiều cao trung bình của trẻ em Hà Nội cao hơn hẳn trẻ em

nông thôn [24].

Nghiên cứu của Trần Văn Dần và cộng sự về sự phát triển thể lực của học

sinh 6-14 tuổi sau một thập kỷ (81-90) thấy rằng không có sự khác biệt giữa nam

và nữ về chiều cao và cân nặng, học sinh Hà Nội nói chung thời điểm 1990 đều

cao hơn 1981, sự gia tăng về chiều cao nhanh, sự gia tăng về cân nặng chậm.

Nghiên cứu cũng chỉ ra sự khác biệt giữa trẻ em nông thôn và trẻ em thành phố,

trẻ em thành phố có xu hướng phát triển thể lực tốt hơn ở nông thôn ở mọi lứa

tuổi [2]. Một nghiên cứu khác của Trần Văn Dần và cộng sự về sự phát triển thể

lực của học sinh 8-14 tuổi trên một số vùng dân cư miền Bắc thập kỷ 90 cũng cho

thấy có sự gia tăng về chiều cao của cả học sinh nông thôn và thành phố, cân

nặng gia tăng rõ ở trẻ em thành phố [3].

Theo dõi tình hình phát triển thể lực của học sinh Hà Nội của Viện Dinh

dưỡng 1995 so với số liệu 1985 của Hà Huy Khôi và Bùi Thị Nhu Thuận, sau 10

năm tốc độ tăng về chiều cao trung bình là 5-6 cm và phát triển chiều cao ở trẻ

trai tốt hơn trẻ gái ở các lứa tuổi. Các tác giả Thẩm Hoàng Điệp 1992, Phan Thị

Thuỷ 1996 cho thấy chiều cao trẻ em Hà Nội tăng cực đại vào khoảng 11-12 tuổi

thì sự gia tăng về chiều cao của trẻ em vùng ven biển Lệ Thuỷ, Quảng Bình thấp

hơn (15 tuổi) [5,17].



-6-



Nghiên cứu của nhiều tác giả về tình trạng dinh dưỡng của trẻ em ở thành

thị, và đặc biệt ở Hà Nội như Bùi Thị Nhu Thuận và một số tác giả khác ở lứa

tuổi từ 6-18 tuổi cao hơn HSSHVN. Trong khi đó nghiên cứu của Trần Đình

Long, Lương Bích Hồng thì các chỉ số nghiên cứu thu được kém HSSH VN năm

1975 [12,13,14,18].

Nghiên cứu của nhiều tác giả cho thấy sự tăng trưởng giữa các vùng khác

nhau đỉnh tăng trưởng cũng khác nhau. ở Hà Nội, đỉnh tăng trưởng trẻ gái đếm

sớm hơn 11-12 tuổi, đỉnh tăng trưởng của trẻ trai đến muộn hơn 13-14 tuổi. Đỉnh

tăng trưởng liên quan đến tuổi dậy thì, thường diễn ra sau khi bắt đầu có dấu hiệu

dậy thì và đến trước tuổi dậy thì hoàn toàn. Trong khi đó theo nghiên cứu của

Phan Thị Thuỷ ở Quảng Bình thì sự tăng trưởng này muộn hơn (15 tuổi)

[5,12,13,17,18].

Các công trình nghiên cứu về tình trạng dinh dưỡng năm 1994 ở Hà Nội của

Cao Quốc Việt; nghiên cứu năm 1996 của Phan Thị Thuỷ ở Quảng Bình [17,18]

cho thấy tốc độ tăng trưởng ngày càng tăng cao, tuy nhiên có sự khác biệt rõ rệt ở

các vùng kinh tế, xã hội khác nhau.

Một nghiên cứu mới đây năm 1999 của Viện Dinh dưỡng ở Hà Nội, Hải

Dương, Phú Thọ, Tiền Giang có sự khác biệt về giới ở toàn bộ các nhóm tuổi.

Cân nặng và chiều cao của học sinh Hà Nội đều cao hơn so với học sinh các khu

vực khác theo thứ tự là Đồng bằng sông Cửu Long, nông thôn đồng bằng Sông

Hồng và trung du Bắc Bộ [16].

1.3.2. Tình trạng thừa cân và béo phì.

Béo phì là một tình trạng sức khoẻ có nguyên nhân dinh dưỡng. Cân nặng

của cơ thể tăng lên có thể do chế độ ăn dư thừa vượt quá nhu cầu hoặc nếp sống

làm việc tĩnh tại ít tiêu hao năng lượng. Người ta thấy đối với sức khoẻ, người

càng béo thì các nguy cơ càng nhiều. Trước hết, người béo phì dễ mắc các bệnh

tăng huyết áp, bệnh tim do mạch vành, đái đường hay bị các rối loạn dạ dày, ruột,

sỏi mật ... Theo Popkin ở Mỹ béo phì là 26% [26].



-7-



ở nước ta nền kinh tế đang trong thời kỳ chuyển tiếp, với sự phân cực ngày

càng tăng giữa giàu và nghèo đã ảnh hưởng không ít đến dinh dưỡng và sức khoẻ

của trẻ. Bên cạnh tỷ lệ suy dinh dưỡng còn khá cao, tỷ lệ thừa cân và béo phì đã

có xu hướng gia tăng đặc biệt là tại các đô thị lớn [7].

Theo số liệu năm 1990 của FAO, tỷ lệ béo phì chung ở thành thị nước ta là

1,57%, tăng gấp 4 lần so với năm 1985 là 0,4% [22].

1.4. Các yếu tố ảnh hưởng.

1.4.1. Yếu tố kinh tế, xã hội.

Một trong những biểu hiện của tình trạng kinh tế - xã hội đó là thu nhập.

Nghiên cứu của Ahmed và cộng sự (1991) về ảnh hưởng của tình trạng kinh tế xã hội đến sự phát triển của trẻ học đường ở Banglades cho thấy trẻ từ các gia

đình có thu nhập cao có cân nặng và chiều cao theo tuổi cao hơn so với trẻ từ các

gia đình có thu nhập thấp [19].

Một nghiên cứu khác ở Thái Lan cũng thấy rằng tình trạng dinh dưỡng của

trẻ em tuổi học đường cần được lưu tâm, học sinh ở tầng lớp xã hội thấp có tỷ lệ

mắc các bệnh thiếu dinh dưỡng cao [21]. Một nghiên cứu ở Anh về vấn đề liên

quan giữa tình trạng thất nghiệp của bố các em, những trẻ em bố bị thất nghiệp có

chiều cao thấp hơn so với những trẻ em có bố đi làm việc.

Một nghiên cứu ở Malaysia (1997) cho thấy các gia đình có thu nhập thấp

thì có nguy cơ nhẹ cân và thấp còi hơn hẳn gia đình có thu nhập cao[6].

Kích cỡ gia đình cũng ảnh hưởng đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ, đặc biệt

là các nước đang phát triển. Các tác giả còn cho thấy tình trạng học vấn của cha

mẹ có liên quan đến chất lượng bữa ăn của trẻ [6].

1.4.2. Khẩu phần:

Để đảm bảo cho cơ thể phát triển tốt, yếu tố quan trọng hàng đầu là chế độ

dinh dưỡng. Ngay từ thời xa xưa, các nhà y học cổ đại đã biết được vai trò của

dinh dưỡng trong phòng và điều trị bệnh.



-8-



Hyporcat khuyên rằng tuỳ theo tuổi tác, công việc, thời tiết nên ăn nhiều, ít,

ăn một lúc hay giải rác ra nhiều bữa. Trong việc điều trị ông viết: “Thức ăn cho

bệnh nhân là một phương tiện điều trị đó là các chất dinh dưỡng”, “hạn chế ăn

một số chất nguy hiểm đối với người mắc bệnh mãn tính”.[17].

Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy ăn uống hợp lý là yếu tố căn bản nhất

cho sự tăng trưởng và phát triển. Năng lượng prôtêin, chất béo, vitamin và các

yếu tố vi lượng cần được cung cấp đầy đủ và cân đối để trẻ em, nhất là lứa tuổi vị

thành niên phát triển đầy đủ và tăng cường dự trữ các chất trong cơ thể[31].

1.4.3. Kiến thức, thực hành về dinh dưỡng và tập quán ăn uống của trẻ.

Sức khoẻ của học sinh là một bộ phận quan trọng của sức khoẻ cộng đồng,

các dịch vụ sức khoẻ trong nhà trường mang lại hiệu quả kinh tế cao bởi vì trẻ

học tập và vui chơi cùng với nhau sẽ học tập nhau và trẻ em sẽ chia sẻ những gì

chúng học được cho cha mẹ và những người khác.

Tuy nhiên ở lứa tuổi này trẻ cũng đã chịu phần nào chăm lo về sức khoẻ, do

vậy gia đình ít quan tâm. Vì vậy trẻ có thể có những hiểu biết khác nhau về dinh

dưỡng có thể có những hiểu biết đúng hoặc sai. Những hiểu biết và thói quen dinh

dưỡng của trẻ ảnh hưởng đến sự lựa chọn thực phẩm, cách ăn uống của trẻ và cuối

cùng là ảnh hưởng đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ. Một số nghiên cứu gần đây

cho thấy tập tính ăn uống của trẻ có liên quan đến tình trạng dinh dưỡng. Những trẻ

ăn nhiều đồ ngọt, thức ăn giàu chất béo hoặc hay ăn snack vào ban đêm thường có

dấu hiệu thừa cân, béo phì (Trần Thị Hồng Loan)[11]. Ngược lại những trẻ sợ béo

thường ăn kiêng; bỏ bữa sáng thường là những trẻ thiếu dinh dưỡng.

Ngoài ra, một số nghiên cứu cho thấy các ảnh hưởng của hoạt động thể lưc,

học tập ở lứa tuổi này cũng dễ gây ra những ảnh hưởng như cận thị học đường,

cong vẹo cột sống[18].



-9-



Chương ii



Đối tượng và phương pháp nghiên cứu

2.1. Đối tượng nghiên cứu

Học sinh trung học cơ sở từ 12 - 15 tuổi ở nội thành Hà Nội.

2.2. Địa điểm nghiên cứu

Trường trung học cơ sở Ngô Sỹ Liên Hà Nội.

2.3. Thiết kế nghiên cứu

Sử dụng phương pháp nghiên cứu mô tả với cuộc điêu tra cắt ngang tại thời

điểm tháng 5 -2001.

2.4. Chọn mẫu

2.4.1. Cỡ mẫu điều tra nhân trắc

áp dụng công thức: n = Z21-α/2



pq

e2



Trong đó:

Z là giá trị tương ứng của hệ số giới hạn tin cậy với hệ số tin cậy 95%.

P tỉ lệ điều tra trước là: 23% tỷ lệ thiếu cân vị thành niên.

q=1-p

e sai số mong muốn = 5%

Vậy theo công thức tính cỡ mẫu n = 1,962 x



0,23x 0,77

0,05 2



≈ 280



Lấy tròn 300.

2.4.2. Phương pháp chọn mẫu.

• Chọn trường vào nghiên cứu.



Chọn trường theo mục đích nghiên cứu là trường Trung học cơ sở Ngô Sỹ Liên.

- 10 -



• Chọn học sinh vào điều tra.



Theo phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên phân tầng theo kiểu phân bố tỷ lệ.

Coi mỗi khối là 1 tầng thì số học sinh lấy ra ở mỗi khối sẽ là: nh = Nh

Trong đó:

n: Tổng số học sinh cần lấy vào nghiên cứu.

N: Tổng số học sinh của trường.

Nh : Tổng số học sinh ở mỗi khối.

Sau đó chọn ngẫu nhiên hệ thống bằng danh sách ở mỗi khối lấy đủ số học

sinh vào nghiên cứu.

2.5. Số liệu cần thu thập.

2.5.1. Các chỉ số cần thu thập.

• Chỉ tiêu nhân trắc.(Các kỹ thuật cân đo dựa theo hướng dẫn của WHO



1979 ) [30].

Đo chiều cao đứng .

Cân trọng lượng cơ thể.

Đo vòng cánh tay duỗi.

Chỉ số khối cơ thể BMI. Dựa theo tiêu chuẩn phân loại BMI của lứa tuổi vị

thàh niên của WHO 1995 phân ra các mức độ :

Gầy: giới hạn ngưỡng tạm thời là BMI theo tuổi < 5 pexen tin.

Bình thường: chỉ số BMI từ 5 –85 pexen tin .

Trên 85 pexentin chỉ số khối cơ thể (BMI) của quần thể tham chiếu chuẩn

coi là có nguy cơ thừa cân.

• Khẩu phần: Hỏi tần suất tiêu thụ thực phẩm.

• Nữ sinh hỏi tuổi bắt đầu có kinh.

• Hỏi các yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ.



- 11 -



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (43 trang)

×