Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.34 MB, 118 trang )
Chương 1: Chuyển mạch nhãn đa giao thức MPLS
Đặc tính
Môi trường hoạt động
Router
Mô hình
Đánh địa chỉ
Giao thức định tuyến
MPOA
Campus, WAN
Router ảo
Chồng lấn
Tách biệt, IP, ATM
Unicast, Multicast
PNNI
Thiết lập kênh chuyển Theo luồng thông tin
mạch
MPLS
WAN
LSR
Ngang cấp
Chỉ đánh địa chỉ IP
IP, Unicast, Multicast IP
Theo cấu trúc (có thể hỗ
trợ theo luồng hoặc dự trữ
trước)
Giao thức điều khiển
IP, MPOA, NHRP, giao IP và LDP
thức ATM-Forum
Thiết bị
Host, thiết bị biên, Router Router và chuyển mạch
Hỗ trợ ATM gốc
Có
Không nhưng có thể cùng
tồn tại
Lựa chọn đường số liệu
PNNI pha 1
Định tuyến động IP hoặc
tuyến hiện
Tiêu chuẩn
ATM Forum
IETF
Các kênh số liệu phi ATM Qua thiết bị biên
Có
Lỗi tại 1 điểm
Có, MPLS Router Server
Không
1.7.2. Tốc độ và độ trễ
Chuyển mạch nhãn được cung cấp để giải quyết vấn đề về tốc độ và độ trễ
một cách hiệu quả. Chuyển mạch nhãn nhanh hơn nhiều chuyển mạch IP cổ điển
bởi vì giá trị nhãn được đặt trong header của gói đến, được sử dụng để quản lý bảng
định tuyến theo cách nhãn sẽ được sử dụng là chỉ mục trong bảng. Việc tìm kiếm
này yêu cầu chỉ một lần là tìm ra, ngược lại định tuyến cổ điển có thể phải tìm trong
bảng đó vài nghìn lần. Kết quả, trên luồng vận chuyển, các gói được gửi thông qua
mạng nhanh hơn thông thường, giảm thời gian trễ, và đáp ứng thời gian cho người
dùng.
1.7.3. Chất lượng dịch vụ trong MPLS
Chất lượng dịch vụ QoS chính là yếu tố thúc đẩy MPLS. So sánh với các yếu
tố khác, như quản lý lưu lượng và hỗ trợ VPN thì QoS không phải là lý do quan
trọng nhất để triển khai MPLS. Hầu hết các công việc được thực hiện trong MPLS
SVTH: Phạm Thanh Hải
Trang 30
GVHD: ThS. Đào Minh Hưng
Chương 1: Chuyển mạch nhãn đa giao thức MPLS
QoS tập trung vào việc hỗ trợ các đặc tính của IP QoS trong mạng. Nói cách khác,
mục tiêu là thiết lập sự giống nhau giữa các đặc tính QoS của IP và MPLS, chứ
không phải là làm cho MPLS QoS chất lượng cao hơn IP QoS.
Một trong những nguyên nhân để khẳng định MPLS đó là không giống như
IP, MPLS không phải là giao thức xuyên suốt. MPLS không chạy trong các máy
chủ, và trong tương lai nhiều mạng IP không sử dụng MPLS vẫn tồn tại. QoS mặt
khác là đặc tính xuyên suốt của liên lạc giữa các LSR cùng cấp. Ví dụ, nếu một
kênh kết nối trong tuyến xuyên suốt có độ trễ cao, độ tổn thất lớn, băng thông thấp
sẽ giới hạn QoS có thể cung cấp dọc theo tuyến đó. Một cách nhìn nhận khác về vấn
đề này là MPLS không thay đổi về căn bản mô hình dịch vụ IP. Các nhà cung cấp
dịch vụ không bán dịch vụ MPLS, họ bán dịch vụ IP (hay dịch vụ Frame Relay hay
các dịch vụ khác), và do đó, nếu họ đưa ra QoS thì họ phải đưa ra IP QoS (Frame
Relay QoS, v.v…) chứ không phải là MPLS QoS.
Điều đó không có nghĩa là MPLS không có vai trò trong IP QoS. Thứ nhất,
MPLS có thể giúp nhà cung cấp đưa ra các dịch vụ IP QoS hiệu quả hơn. Thứ hai,
hiện đang xuất hiện một số khả năng QoS mới hỗ trợ qua mạng sử dụng MPLS
không thực sự xuyên suốt, tuy nhiên có thể chứng tỏ là rất hữu ích, một trong số
chúng là băng thông bảo đảm của LSP.
1.7.4. Đơn giản hóa chức năng chuyển tiếp
MPLS sử dụng cơ chế chuyển tiếp căn cứ vào nhãn có độ dài cố định nên
quyết định chuyển tiếp có thể xác định ngay chỉ với một lần tra cứu chỉ mục trong
LFIB. Cơ chế này đơn giản và nhanh hơn nhiều so với giải thuật “longest prefix
match” dùng trong chuyển tiếp gói datagram thông thường.
1.7.5. Kỹ thuật lưu lượng
Ưu điểm lớn nhất của MPLS là ở khả năng thực hiện kỹ thuật lưu lượng TE
(Traffic Engineering). MPLS có khả năng đảm bảo lưu lượng được định tuyến đi
qua một mạng theo một cách thức tin cậy và hiệu quả nhất. Kỹ thuật lưu lượng cho
phép các nhà cung cấp dịch vụ (ISP) định tuyến lưu lượng theo cách họ có thể cung
cấp dịch vụ tốt nhất cho khách hàng ở khía cạnh thông lượng và độ trễ. MPLS-TE
cho phép lưu lượng được phân bố hợp lý qua toàn bộ hạ tầng mạng, tối ưu hóa hiệu
suất sử dụng mạng. Đây cũng là đối tượng nghiên cứu chính của đề tài này và sẽ
được trình bày kỹ ở các chương tiếp theo.
SVTH: Phạm Thanh Hải
Trang 31
GVHD: ThS. Đào Minh Hưng
Chương 1: Chuyển mạch nhãn đa giao thức MPLS
1.7.6. Định tuyến QoS từ nguồn
Định tuyến QoS từ nguồn là một cơ chế trong đó các LSR được xác định
trước ở nút nguồn (LSR lối vào) dựa vào một số thông tin về độ khả dụng tài
nguyên trong mạng cũng như yêu cầu QoS của luồng lưu lượng. Nói cách khác, nó
là một giao thức định tuyến có mở rộng chỉ tiêu chọn đường để bao gồm các tham
số như băng thông khả dụng, việc sử dụng link và đường dẫn end-to-end, độ chiếm
dụng tài nguyên của nút, độ trễ và biến động trễ.
1.7.7. Mạng riêng ảo VPN
VPN (Virtual Private Network) cho phép khách hàng thiết lập mạng riêng,
giống như thuê kênh riêng nhưng với chi phí thấp hơn nhiều, bằng cách sử dụng hạ
tầng mạng công cộng dùng chung. Kiến trúc MPLS đáp ứng tất cả các yêu cầu cần
thiết để hỗ trợ VPN bằng cách thiết lập các đường hầm LSP sử dụng định tuyến
tường minh. Do đó, MPLS sử dụng các đường hầm LSP, cho phép nhà khai thác
cung cấp dịch vụ VPN theo cách tích hợp trên cùng hạ tầng mà họ cung cấp dịch vụ
Internet. Hơn nữa, cơ chế xếp chồng nhãn cho phép cấu hình nhiều VPN lồng nhau
trên cùng hạ tầng mạng đó.
1.7.8. Chuyển tiếp có phân cấp (Hierachical forwarding)
Thay đổi đáng kể nhất được MPLS đưa ra không phải ở kiến trúc định tuyến
mà là kiến trúc chuyển tiếp. Sự cải tiến trong kiến trúc chuyển tiếp có tác động đáng
kể đến khả năng cung cấp chuyển tiếp phân cấp. Chuyển tiếp phân cấp cho phép
lồng một LSP vào trong một LSP khác (xếp chồng nhãn hay còn gọi là điều khiển
gói đa cấp). Thực ra chuyển tiếp phân cấp không phải là kỹ thuật mới; ATM đã
cung cấp cơ chế chuyển tiếp 2 mức với khái niệm đường ảo (VP) và kênh ảo (VC).
Tuy nhiên MPLS cho phép các LSP được lồng vào nhau một cách tùy ý, cung cấp
điều khiển gói đa cấp cho việc chuyển tiếp.
1.7.9. Khả năng mở rộng (Scalability)
Chuyển mạch nhãn cung cấp một sự tách biệt toàn diện hơn giữa định tuyến
liên miền (inter-domain) và định tuyến nội miền (intra-domain). Điều này cải thiện
đáng kể khả năng mở rộng của các tiến trình định tuyến. Hơn nữa, khả năng mở
rộng của MPLS còn nhờ vào FEC (thu gom luồng), và xếp chồng nhãn để hợp nhất
(merging) hoặc lồng nhau (nesting) các LSP. Ngoài ra, nhiều LSP liên kết với các
FEC khác nhau có thể được trộn vào cùng một LSP. Sử dụng các LSP lồng nhau
cũng cải thiện khả năng mở rộng của MPLS.
SVTH: Phạm Thanh Hải
Trang 32
GVHD: ThS. Đào Minh Hưng
Chương 1: Chuyển mạch nhãn đa giao thức MPLS
1.7.10. Khả năng ứng dụng MPLS trong mạng thế hệ sau NGN
Những ưu việt của MPLS đã tăng cường khả năng cạnh tranh của các nhà
khai thác dịch vụ. Các sản phẩm MPLS đã được triển khai trên phạm vi toàn cầu.
Tuy vẫn còn nhiều vấn đề về mặt công nghệ cần giải quyết nhưng MPLS hiện đang
được coi là giải pháp tốt cho mạng thế hệ sau của các nhà cung cấp dịch vụ hàng
đầu trên thế giới.
Cấu hình này hứa hẹn khả năng điều khiển định tuyến, chuyển mạch đơn
giản dựa trên các nhãn của MPLS, khả năng cung cấp chất lượng dịch vụ xuyên
suốt bảo đảm. Tuy nhiên còn rất nhiều vấn đề kỹ thuật phải quan tâm phân tích khi
xây dựng cấu hình chi tiết để bảo đảm khả năng tương thích giữa các thiết bị và
hoạt động của mạng. Một trong những vấn đề quan trọng cần quan tâm đó là cần
xác định nguyên tắc tổ chức của những nút LSR trong mạng, cần phân định rõ ràng
giao diện và chức năng của từng thành phần thiết bị trong mạng lõi, mạng biên.
Trong quá trình xây dựng cấu hình này nên tham khảo mô hình do MSF
(Multiservice Switch Forum), một tổ chức chuyên về các thiết bị chuyển mạch
trong mạng thế hệ sau đề xuất.
Các dịch vụ có thể cung cấp trong mạng MPLS đề xuất bao gồm:
- Tải tin cho các mạng số liệu, Internet và thoại quốc gia. Lưu lượng thoại
được chuyển dần sang mạng trục MPLS quốc gia. Mạng này sẽ thay thế dần mạng
trục TDM quốc gia đang hoạt động.
- Cung cấp dịch vụ truy nhập Internet tốc độ cao tại một số địa phương trọng
điểm trên toàn quốc. Bước đầu hình thành mạng trục quốc gia trên cơ sở công nghệ
gói.
- Cung cấp dịch vụ truyền số liệu tốc độ cao cho các doanh nghiệp như Ngân
hàng, các hãng thông tấn báo chí.
- Cung cấp dịch vụ mạng riêng ảo VPN cho các công ty xuyên quốc gia và
các doanh nghiệp lớn. Đây đang được coi như dịch vụ quan trọng nhất tác động đến
việc thay đổi cơ cấu kinh doanh và tăng khả năng cạnh tranh của các nhà khai thác.
SVTH: Phạm Thanh Hải
Trang 33
GVHD: ThS. Đào Minh Hưng
Chương 1: Chuyển mạch nhãn đa giao thức MPLS
- Cung cấp dịch vụ Video.
1.7.11. MPLS và kiến trúc Internet
Từ khi ARPNET được triển khai, thời đại của Internet bắt đầu, kiến trúc của
Internet cũng được thay đổi. Nó mở ra các đáp ứng về sự tiến bộ của kỹ thuật, phát
triển và hỗ trợ cho nhiều dịch vụ mới. Hầu hết các sự thay đổi gần đây của kiến trúc
Internet là do sự thêm vào của MPLS. Nhưng cần chú ý rằng kỹ thuật chuyển tiếp
của Internet là dựa vào việc định tuyến địa chỉ đích, và nó không hề thay đổi từ khi
ARPANET xuất hiện. Sự thay đổi chính đó là sự thay thế của giao thức định tuyến
cổng biên giới phiên bản 4 (Border Gateway Protocol Version 4 – BGP4) từ giao
thức định tuyến cổng bên ngoài (Exterior Gateway Protocol – EGP), sự bổ sung của
định tuyến miền trong không phân lớp (Classless Interdomain Routing – CIDR), các
nâng cấp cố định của băng thông và các thiết bị đầu cuối như có thêm nhiều các bộ
định tuyến mạnh.
MPLS đã tác động đến cả kỹ thuật chuyển tiếp gói tin IP và việc xác định
đường đi (đường đi của các gói tin được chuyển tiếp trên mạng Internet). Và kết quả
là sự ra đời các cấu trúc mạng của Internet. MPLS có thể hỗ trợ cho IP phiên bản 6
(IP version 6) bởi vì thuật toán chuyển tiếp của MPLS cho IP phiên bản 4 cũng có
thể áp dụng cho IP phiên bản 6 với việc sử dụng các giao thức định tuyến hỗ trợ cho
địa chỉ IP phiên bản 6. MPLS được triển khai bởi vì nó có ưu điểm gần gũi và trực
tiếp đến Internet. Hầu hết ưu điểm gần gũi của MPLS với các chi tiết cụ thể cho
mạng đường trục của nhà cung cấp dịch vụ Internet là khả năng triển khai kỹ thuật
lưu lượng (Traffic Engineering). Kỹ thuật lưu lượng cho phép các nhà cung cấp
dịch vụ loại bỏ tải của các tuyến (link) bị tắc nghẽn và điều khiển các tải chia xẻ
sang các tuyến khác chưa được sử dụng đúng mức. Kết quả của công việc trên là độ
tận dụng tài nguyên sẽ ở cấp độ cao hơn và cũng có nghĩa là sẽ hiệu quả và chi phí
sẽ được tiết kiệm hơn.
SVTH: Phạm Thanh Hải
Trang 34
GVHD: ThS. Đào Minh Hưng
Chương 1: Chuyển mạch nhãn đa giao thức MPLS
1.8. Các nhược điểm của MPLS
Việc triển khai mạng MPLS không đơn giản như những gì đã đề cập trong
phần trên. Ở đây còn rất nhiều vấn đề phải nghiên cứu giải quyết trước khi triển
khai trên mạng.
Thứ nhất: cần xác định phạm vi triển khai MPLS chỉ trong lớp trục hay
xuống đến các tổng đài đa dịch vụ. Khi xác định chỉ triển khai trong lớp trục (3 nút)
thì tính ưu việt của công nghệ không được phát huy hết, nếu triển khai đồng loạt
đến tận các tổng đài đa dịch vụ thì mức độ đầu tư lớn hơn rất nhiều và sẽ xuất hiện
nhiều vấn đề kỹ thuật hơn khi triển khai. Hơn nữa hiện nay sự chín muồi của công
nghệ cũng là một vấn đề đáng quan tâm.
Thứ 2: giải quyết việc phân cấp điều khiển. Đối với MPLS các thủ tục điều
khiển chuyển mạch, định tuyến thông qua LDP, tuy nhiên khi xây dựng mạng MPLS
cần thực hiện theo nguyên tắc mở: điều khiển thông qua softswitch với các giao
thức như Megaco/H.248, Sigtran, SIP, BICC...thì vấn đề kết hợp để điều khiển các
LSR như thế nào là điều cần quan tâm. Như vậy cần xác định rõ phạm vi và các
khối chức năng trong các nút chuyển mạch MPLS và trình tự thực hiện kết nối cuộc
gọi thông qua Megaco, LDP.
Thứ ba: các dịch vụ giá trị gia tăng và VPN. Để tăng hiệu suất sử dụng mạng
MPLS cần gia tăng các dịch vụ khuyến khích khách hàng sử dụng đặc biệt như
VPN. Với MPLS, mạng riêng ảo VPN được tổ chức đơn giản, hiệu quả và tăng
doanh thu cho nhà khai thác mạng.
Thứ tư: Hỗ trợ đồng thời nhiều giao thức sẽ gặp phải những vấn đề phức tạp
trong kết nối.
Thứ năm: Khó hỗ trợ QoS xuyên suốt.
Thứ sáu: Hợp nhất VC cần phải được nghiên cứu sâu hơn để giải quyết vấn
đề chèn gói tin khi trùng nhãn (interleave).
SVTH: Phạm Thanh Hải
Trang 35
GVHD: ThS. Đào Minh Hưng
Chương 1: Chuyển mạch nhãn đa giao thức MPLS
Tổng kết chương
Với các khuyết điểm thuộc về bản chất và ngày càng bộc lộ ra khi sự phát
triển mạng ngày càng nhanh về tốc độ và số lượng thì TCP/IP cổ điển đang đứng
trước những vấn đề hết sức khó khăn. Tuy nhiên, với sự xuất hiện của chuyển mạch
nhãn đa giao thức MPLS cùng các ưu điểm đã được nêu trên và nếu như được áp
dụng vào thực tế cho các mạng đường trục lớn của các nhà cung cấp dịch vụ thì có
thể giải quyết nhanh chóng các bài toán mà TCP/IP cổ điển đang mắc phải. Và thực
tế chứng minh điều đó khi đã có một số nhà cung cấp dịch vụ ứng dụng MPLS vào
mạng đường trục của mình và thu được khá nhiều lợi ích.
Trong các giao thức lớp mạng truyền thống, khi một gói đi từ một router đến
hop kế tiếp thì quyết định chuyển tiếp phải được đưa ra độc lập ở mỗi hop. Việc
chọn hop kế dựa trên việc phân tích header của gói và kết quả chạy giải thuật định
tuyến. Một router xem hai gói là thuộc cùng một luồng nếu chúng có cùng prefix
địa chỉ mạng bằng cách áp dụng luật “longest prefix match” cho địa chỉ đích của
từng gói. Khi gói di chuyển qua mạng, ở mỗi hop đến lượt mình sẽ lại kiểm tra gói
và gán lại vào một luồng.
Công nghệ chuyển mạch nhãn cho phép thay thế chuyển tiếp gói truyền
thống theo kiểu hop-by-hop dựa trên địa chỉ đích bằng kỹ thuật chuyển tiếp hoán
đổi nhãn. Kỹ thuật này dựa vào các nhãn có độ dài cố định, cải thiện được năng lực
định tuyến lớp 3, đơn giản hóa việc chuyển gói, cho phép dễ dàng mở rộng và đặc
biệt là hỗ trợ kỹ thuật lưu lượng.
SVTH: Phạm Thanh Hải
Trang 36
GVHD: ThS. Đào Minh Hưng
Chương 2: Định tuyến và báo hiệu trong MPLS
CHƯƠNG 2: ĐỊNH TUYẾN VÀ BÁO HIỆU TRONG MPLS
2.1. Định tuyến trong MPLS
MPLS hỗ trợ cả hai kỹ thuật định tuyến: định tuyến từng chặng (hop-by-hop)
và định tuyến cưỡng bức (constrain-based routing). Định tuyến từng chặng cho
phép mỗi nút nhận dạng các FEC và chọn hop kế cho mỗi FEC một cách độc lập,
giống như định tuyến trong mạng IP. Tuy nhiên, nếu muốn triển khai kỹ thuật lưu
lượng với MPLS, bắt buộc phải sử dụng kiểu định tuyến cưỡng bức.
2.1.1. Định tuyến cưỡng bức (Constrain-based Routing)
Để có thể hiểu được khái niệm định tuyến cưỡng bức một cách cặn kẽ, trước
hết phải xem cơ chế định tuyến truyền thống được sử dụng trong mạng IP. Một
mạng được mô hình hóa như tập hợp các hệ thống độc lập (AS). Trong đó việc định
tuyến trong mỗi AS tuân theo giao thức định tuyến nội vùng và việc định tuyến giữa
các AS tuân theo giao thức định tuyến liên vùng. Các giao thức định tuyến nội vùng
nổi bật như : RIP, OSPF, IS-IS.. Và giao thức định tuyến liên vùng điển hình đang
được sử dụng rộng rãi là BGP.
Cơ chế tính toán xác định đường đi trong các các giao thức định tuyến nội
vùng tuân theo thuật toán tối ưu. Trong trường hợp giao thức RIP là tối ưu số nút
mạng trên đường. Chúng ta biết rằng bao giờ cũng có thể lựa chọn nhiều đường để
đi đến một đích. RIP sử dụng thuật toán Bellman-Ford để xác định sao cho đường
đi sẽ qua số nút mạng nhỏ nhất. Trong trường hợp của giao thức OSPF hay IS-IS
dùng thuật toán tìm đường ngắn nhất. Nhà quản trị mạng ứng với giao thức OSPF
(hay IS-IS) sẽ ấn định cho mỗi kênh trong mạng một giá trị tương ứng với độ dài
của kênh đó. OSPF (IS-IS) sử dụng thuật toán tìm đường ngắn nhất Dijkstra để lựa
chọn đường ngắn nhất trong số các đường có thể tới đích. Với định nghĩa độ dài
đường là tổng độ dài của các kênh trên đường đó.
Về cơ bản có thể định nghĩa thuật toán định tuyến cưỡng bức như sau : Một
mạng có thể được biểu diễn dưới dạng sơ đồ theo V và E (V,E), trong đó V là tập
hợp các nút mạng và E là tập hợp các kênh liên kết nối giữa các nút mạng. Mỗi
kênh sẽ có các đặc điểm riêng. Đường kết nối giữa những nút thứ nhất đến nút thứ 2
trong cặp thỏa mãn một số các điều kiện ràng buộc. Tập hợp các điều kiện ràng
buộc này được coi là các đặc điểm của các kênh và chỉ có nút đầu tiên trong cặp
đóng vai trò khởi tạo đường kết nối mới biết các đặc điểm này. Nhiệm vụ của định
tuyến cưỡng bức là tính toán xác định các đường kết nối từ nút này đến nút kia sao
cho đường này không vi phạm các điều kiện ràng buộc và là một phương án tối ưu
SVTH: Phạm Thanh Hải
Trang 36
GVHD: ThS. Đào Minh Hưng
Chương 2: Định tuyến và báo hiệu trong MPLS
theo một tiêu chí nào đó (Số nút ít nhất hoặc đường ngắn nhất). Khi đã xác định
được một đường kết nối thì định tuyến cưỡng bức sẽ thực hiện thiết lập, duy trì và
chuyển trạng thái kết nối dọc theo các kênh trên đường đó.
Định tuyến cưỡng bức là một phương tiện để thực hiện xử lý tự động hóa kỹ
thuật lưu lượng, khắc phục được các hạn chế của định tuyến theo đích (Destinationbased routing). Nó xác định các tuyến đường (route) không chỉ dựa trên topology
mạng (thuật toán chọn đường ngắn nhất SPF – Shortest Path First) mà còn sử dụng
các metric đặc thù khác như băng thông, trễ, cost và biến động trễ. Giải thuật chọn
đường có khả năng tối ưu hóa theo một hoặc nhiều metric này. Metric thường được
dùng dựa trên số lượng hop và băng thông. Để đường được chọn có số lượng hop
nhỏ nhất nhưng phải đảm bảo băng thông khả dụng trên tất cả các chặng liên kết,
quyết định cơ bản như sau: chọn đường ngắn nhất trong số tất cả các đường có băng
thông khả dụng thỏa mãn yêu cầu.
Hình 2.1: Một ví dụ định tuyến cưỡng bức
Để minh họa hoạt động của định tuyến cưỡng bức, xét cấu trúc mạng “con
cá” điển hình như hình 2.1 trên. Giả sử rằng định tuyến cưỡng bức sử dụng số hop
(hop-count) và băng thông khả dụng làm các metric. Lưu lượng 600 Kbps được
định tuyến trước tiên, sau đó là lưu lượng 500 Kbps và 200 Kbps. Cả 3 loại lưu
lượng này đều hướng đến cùng một egress-router. Ta thấy rằng:
- Vì lưu lượng 600 Kbps được định tuyến trước nên nó đi theo đường ngắn
nhất là R8-R2-R3-R4-R5.Vì băng thông khả dụng là như nhau trên tất cả các chặng
kênh (1 Mbps), nên lưu lượng 600 Kbps chiếm 60% băng thông.
- Sau đó, vì băng thông khả dụng của đường ngắn nhất không đủ cho cả 2
lưu lượng 600Kbps và 500 Kbps, nên lưu lượng 500 Kbps được định tuyến đi theo
đường mới qua R6 và R7 mặc dù nhiều hơn một hop so với đường cũ. Với lưu
lượng 200 Kbps tiếp theo, vì vẫn còn băng thông khả dụng trên đường ngắn nhất
nên đường này được chọn để chuyển lưu lượng 200 Kbps.
SVTH: Phạm Thanh Hải
Trang 37
GVHD: ThS. Đào Minh Hưng
Chương 2: Định tuyến và báo hiệu trong MPLS
Định tuyến cưỡng bức có 2 kiểu: định tuyến online và định tuyến offline.
Kiểu online cho phép các router tính đường cho các LSP bất kỳ lúc nào. Trong kiểu
offline, một server tính đường cho các LSP theo định kỳ (chu kỳ có thể được chọn
bởi nhà quản trị, thường là vài giờ hoặc vài ngày). Các LSP được báo hiệu thiết lập
theo các đường đã được chọn.
2.1.2. Định tuyến tường minh (Explicit Routing)
Định tuyến tường minh (Explicit Routing) là một tập con của định tuyến
cưỡng bức, trong đó sự ràng buộc là đối tượng tuyến tường minh ER (explicit
route). Tuyến tường minh ER là một danh sách các “nút trừu tượng” (abstract node)
mà một đường chuyển mạch nhãn cưỡng bức CR-LSP phải đi qua. Nút trừu tượng
có thể là một nút (địa chỉ IP) hoặc một nhóm nút (như IP prefix hoặc một AS).
Nếu ER chỉ quy định một nhóm trong số các nút mà CR-LSP đi qua thì nó
được gọi là tuyến tường minh thả lỏng (loose ER). Ngược lại, nếu ER quy định toàn
bộ các nút trên CR-LSP thì được gọi là tuyến tường minh nghiêm ngặt (strict ER).
CR-LSP được mã hóa như là một chuỗi các ER-Hop (chặng tường minh)
chứa trong một cấu trúc Type-Length-Value cưỡng bức (constraint-based route
TLV). Mỗi ER-Hop có thể xác định một nhóm các nút. CR-LSP khi đó bao gồm tất
cả các nhóm nút đã được xác định theo thứ tự xuất hiện trong cấu trúc TLV.
2.1.3. Định tuyến dựa trên QoS
Ngày nay, Internet hỗ trợ chỉ dịch vụ "kết quả tốt nhất", nhưng không có cơ
chế đảm bảo cho việc mất gói, băng thông, độ trễ, jitter… trong khi các dịch vụ cũ
như là FPT, mail… làm việc tốt với nền tảng Internet cũ, thì các dịch vụ hiện tại
như là điện thoại Internet, Video trực tuyến… yêu cầu băng thông cao, độ trễ thấp
và jitter nhỏ.
QoS là một tập các yêu cầu về dịch vụ cho mạng khi truyền tải dữ liệu. Nói
cách khác, QoS là mức độ yêu cầu về dịch vụ của người dùng, được đặc trưng bởi tỉ
lệ mất gói, băng thông, độ trễ đầu cuối. QoS là thỏa thuận giữa người dùng và nhà
cung cấp mạng bởi Thỏa Thuận Về Mức Độ Dịch Vụ SLA (Service Level
Agreement).
Định tuyến dựa trên QoS: định tuyến sao cho tuyến đường đảm bảo dịch vụ
QoS (là thỏa thuận giữa người dùng và nhà cung cấp dịch vụ mạng về băng thông,
độ trễ, tỉ lệ mất gói… ). Bên cạnh đó là các ràng buộc, các ràng buộc phải đảm bảo
là tối ưu tài nguyên mạng.
SVTH: Phạm Thanh Hải
Trang 38
GVHD: ThS. Đào Minh Hưng