Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.34 MB, 118 trang )
Chương 2: Định tuyến và báo hiệu trong MPLS
như các cách để router dễ dàng nhận dạng một bản tin không thay đổi hơn. Việc hồi
báo bản tin cũng được bổ sung để chuyển tải tin cậy bản tin RSVP và xử lý trường
hợp mất các bản tin PATH TEAR và RESV TEAR vì hai bản tin này không được
làm tươi trong hoạt động RSVP. Cuối cùng, giải pháp này định nghĩa một bản tin
tổng kết (summary) để làm tươi trạng thái mà không yêu cầu truyền toàn bộ bản tin
làm tươi. Các cải tiến này nhằm giảm lượng overhead làm tươi của RSVP trong
mạng MPLS.
2.5.5. RSVP và khả năng mở rộng
Một trong những điều chắc chắn về RSVP là nó có thể chịu tổn thất về khả
năng mở rộng ở một mức nào đấy. Trong thực tế, đặc tính này không chính xác
hoàn toàn. RSVP khởi đầu được thiết kế để hỗ trợ dự trữ tài nguyên cho các luồng
ứng dụng riêng và đây là nhiệm vụ với những thách thức về khả năng mở rộng vốn
có.
Nói chung thuật ngữ này được sử dụng để chỉ giới hạn sử dụng tài nguyên
tăng nhanh như thế nào khi mạng phát triển. Ví dụ: Trong mạng IP quy mô lớn như
mạng xương sống nhà cung cấp dịch vụ Internet, chúng ta có thể quan tâm đến việc
liệu một bảng định tuyến sẽ chiếm bộ nhớ của bộ định tuyến lớn đến mức nào, khả
năng bộ xử lý và băng thông liên kết. Vì thế, bảng định tuyến tăng chậm hơn nhiều
so với số người sử dụng kết nối vào mạng.
Dự trữ tài nguyên cho các luồng ứng dụng riêng rõ ràng là ảnh hưởng xấu
đến khả năng mở rộng. Có thể cho rằng mỗi người sử dụng sẽ dự trữ tài nguyên tại
một vài tốc độ trung bình, vì thế số tài nguyên dự trữ được tạo ra qua mạng lớn có
khả năng tăng nhanh bằng số người sử dụng của mạng. Điều này sẽ dẫn đến chi phí
lớn nếu mỗi bộ định tuyến phải lưu trữ trạng thái và tiến trình một vài bản tin cho
mỗi tài nguyên dự trữ cho luồng ứng dụng riêng.
Nói tóm lại, sẽ chính xác hơn nếu nói rằng mức dự trữ tài nguyên cho các
luồng ứng dụng là kém hơn so với RSVP. Sự khác nhau này đặc biệt quan trọng khi
xem xét rằng RSVP không những đòi hỏi cho việc dự trữ tài nguyên cho các luồng
ứng dụng riêng mà còn dự trữ tài nguyên cho lưu lượng tổng hợp.
SVTH: Phạm Thanh Hải
Trang 61
GVHD: ThS. Đào Minh Hưng
Chương 2: Định tuyến và báo hiệu trong MPLS
2.6. Giao thức BGP
2.6.1. BGPv4 và mở rộng cho MPLS
BGPv4 (Border Gateway Protocol) là một giao thức định tuyến để gắn kết
tập hợp các mạng cung cấp dịch vụ trên Internet. Vì nó chỉ là giao thức sử dụng
giữa các nhà cung cấp, RFC 2107 đã mở rộng BGP hỗ trợ phân phối nhãn MPLS để
có thể thiết lập các LSP liên mạng.
BGP có một tập thuật ngữ riêng. Một trong những khái niệm quan trọng là số
AS duy nhất (Autonomous System), được định nghĩa là một tập hợp bộ định tuyến
(router) thực hiện một chính sách định tuyến ngoại thống nhất có thể nhận thấy đối
với các bộ định tuyến (router) của AS khác. BGP không truyền các thông tin
topology nội giữa các AS, nó chỉ cung cấp các thông tin về các prefix địa chỉ mà có
thể tìm đến hoặc đi quá giang qua đó. Sử dụng BGP giữa các router biên (border)
nội trong một AS được gọi là BGP nội (iBGP), còn sử dụng BGP giữa các router
trong các AS khác nhau được gọi là BGP ngoại (eBGP).
BGP chạy trên một phiên TCP vì nó cần độ tin cậy, phân phát đúng thứ tự.
Nó có 3 pha (phase) hoạt động:
- Thiết lập phiên
- Trao đổi bản tin cập nhật
- Chấm dứt phiên.
Trong thiết lập phiên, các đối tác BGP (BGP peer) trong các AS lân cận trao
đổi các bản tin OPEN có chứa AS number, một giá trị keep-alive timeout, và các
tham số tùy chọn như nhận thực. Các BGP peer định kỳ trao đổi bản tin keep-alive,
nếu phát hiện timeout sẽ chấm dứt phiên. Sau khi thiết lập phiên, các BGP peer trao
đổi các bản tin UPDATE có chứa các prefix địa chỉ có thể đến được hiện hành
(reachability), được gọi là NLRI (Network Layer Reachability Information). Sau
khi trao đổi đồng bộ khởi tạo, các thay đổi định tuyến gia tăng được liên lạc bằng
bản tin UPDATE.
SVTH: Phạm Thanh Hải
Trang 62
GVHD: ThS. Đào Minh Hưng
Chương 2: Định tuyến và báo hiệu trong MPLS
Hình 2.20 : Nội dung bản tin BGP Update
Nội dung bản tin BGP UPDATE gồm 3 phần: các tuyến thu hồi (withdrawn
route), một danh sách các prefix địa chỉ NLRI, và một danh sách tùy chọn các thuộc
tính liên quan. Các BGP peer tạo quyết định chính sách cục bộ khi xem xét công bố
một NLRI với các thuộc tính đường được chọn hay thu hồi thông cáo trước đó.
Chính sách thường dùng là chọn NLRI có prefix địa chỉ đặc tả so trùng nhất, chọn
một đường có số hop AS ít nhất.
Khi bản tin UPDATE chứa thông tin NLRI, một số thuộc tính đường là bắt
buộc trong khi một số khác là tùy chọn. Các thuộc tính đường bắt buộc là: ORIGIN,
AS-PATH, và NEXT-HOP. ORIGIN nhận diện nguồn gốc của NLRI, thí dụ nó
được học qua giao thức đinh tuyến nội hay ngoại. AS-PATH liệt kê một path-vector
gồm một tập AS đã đi qua đến thời điểm hiện tại (một chuỗi thứ tự các AS). Vì
chiều dài của AS-PATH thường là yếu tố quyết định chọn một tuyến, nên BGP
được gọi là giao thức định tuyến path-vector. Các router sử dụng AS-PATH để
tránh loop bằng cách không chuyển tiếp các thông cáo tuyến có chứa số AS của
chúng. NEXT-HOP nhận diện địa chỉ IP của router biên cần dùng để tìm đến NLRI.
BGP có một số tham số tùy chọn có thể thực hiện một dạng cân bằng tải:
LOCALPREF và MED. LOCALPREF cho phép AS đầu gởi chỉ định một sự ưu
tiên (preference) định tuyến lưu lượng đi ra trên nhiều liên kết đến AS khác; trong
khi MED (multiple exit discriminator) cho phép một AS phía nhận chỉ định một ưu
tiên cho lưu lượng đến từ một AS khác.
RFC 2283 định nghĩa các mở rộng đa giao thức cho BGP để phân phối nhãn
MPLS nằm trong một phần của NLRI. Các BGP peer thương lượng hỗ trợ cho khả
năng tùy chọn này vào lúc thiết lập phiên. Thủ tục cơ bản là “ký sinh” việc phân
phối nhãn theo kiểu không cần yêu cầu song song khi thực hiện phân phối tuyến
BGP.
SVTH: Phạm Thanh Hải
Trang 63
GVHD: ThS. Đào Minh Hưng
Chương 2: Định tuyến và báo hiệu trong MPLS
2.6.2 Kết nối MPLS qua nhiều nhà cung cấp dịch vụ
Hình 2.21 : BGP phân phối nhãn qua nhiều Autonomous System
BGP có thể dùng để thiết lập phân phối nhãn cho các LSP đi xuyên qua các
mạng của nhiều nhà cung cấp khác nhau. Xét ví dụ như hình 2.21 trên:
Hình trên gồm 3 hệ tự trị là A, B và C. AS A cấp phát cho khách hàng prefix
địa chỉ (FEC) “a.b/16”. Router C3 quảng bá nó như một NLRI cho AS-A và AS-B
bằng bản tin BGP UPDATE có chứa next-hop và ASPATH. Bản tin UPDATE được
gởi bởi C3 đến A3 còn mang một ánh xạ từ FEC “a.b/16” sang nhãn L. Router A3
trong AS A thu thập tất cả các thông cáo này vào trong bảng RIB của nó, thí dụ
thông qua một lưới các phiên iBGP hoặc một “route reflector”. Nhằm tìm cách tốt
nhất để chuyển tiếp các gói đến prefix “a.b/16”, A1 có thể xác định rằng đường AS
ngắn nhất là qua hop kế A3 sử dụng nhãn L. Nhờ định tuyến nội và giao thức phân
phối nhãn của mình, router A1 cũng biết rằng tuyến tốt nhất để đến A3 là đi qua A2
sử dụng nhãn M. Kết quả là khi chuyển gói đến prefix “a.b/16”, router A1 push
nhãn L lên gói rồi push tiếp nhãn M trên đỉnh stack.
Như vậy, một LSP được chui bên trong một đường hầm LSP khác. LSP1 bên
ngoài kéo dài từ A1 đến A3. Trong khi đó, LSP2 kéo dài từ AS A đến AS C và có
một đoạn chui bên trong LSP1.
2.7. So sánh CR-LDP và RSVP
Sự khác biệt cơ bản giữa hai giao thức trên nằm ở độ tin cậy của giao thức tải
tin và phụ thuộc vào việc dự trữ tài nguyên được thực hiện theo chiều thuận hay
ngược.
SVTH: Phạm Thanh Hải
Trang 64
GVHD: ThS. Đào Minh Hưng