1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Kinh tế - Thương mại >

4 Nghiên cứu về khủng hoảng tài chính 2008:

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 105 trang )


Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán”



GVHD: Th.S Dương Kha



Các công cụ phái sinh lần đầu xuất hiện không ngoài mục đích giảm thiểu hay loại

bỏ rủi ro cho nhà đầu tư. Theo thời gian, các công cụ tài chính phái sinh vẫn phát triển

mạnh mẽ và được sử dụng rộng rãi tại các thị trường lớn trên thế giới.

Theo thống kê của ngân hàng thanh toán quốc tế cho thấy, đến hết năm 2006, số dư

hợp đồng giao dịch phái sinh trên thị trường tài chính quốc tế tương đương 417 tỷ

USD. Tính đến cuối tháng 9/2008, tổng giá trị chứng khoán phái sinh trên thế giới vào

khoảng gần 600 nghìn tỷ USD, với tổng giá trị danh nghĩa lên tới trên 1,28 triệu nghìn

tỷ USD.



Hình 2.4: Tổng giá trị danh nghĩa chứng khoán phái sinh

của hệ thống ngân hàng Mỹ

Các công cụ tài chính phái sinh được xem như là phương thức duy nhất cho các

chủ thể trên thị trường phòng chống rủi ro. Trong đó, các doanh nghiệp sử dụng nhiều

nhất là hợp đồng kỳ hạn (forward contracs), hợp đồng tương lai (future contracts). Các

công cụ tài chính được các nhà đầu tư sử dụng để thực hiện các giao dịch phái sinh tiền

tệ, lãi suất và chỉ số chứng khoán.

Theo số liệu về doanh số của các công cụ tài chính phái sinh toàn cầu tháng 6/2007,

các giao dịch phái sinh tiền tệ chiếm tỷ lệ khoản 9%, giao dịch phái sinh lãi suất chiếm

khoảng 68% và giao dịch phái sinh trên chỉ số chứng khoán là 23%.

58



Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán”



GVHD: Th.S Dương Kha



Hình 2.5 : Tỷ trọng các giao dịch phái sinh

Ngoài ra, chúng còn có thể kết hợp với nhau, với những khoản vay hay những

chứng khoán truyền thống để tạo nên các công cụ lai tạo. Tuy nhiên, cũng chính vì

những biến đổi hình thái như vậy cùng với sự lớn mạnh và phức tạp của của thị trường

tài chính làm cho công cụ tài chính phái sinh có thêm một chức năng mới ngoài phòng

ngừa rủi ro, là sử dụng nhiều hơn để tìm kiếm lợi nhuận và thực hiện các hoạt động

đầu cơ. Như giáo sư Stanley R.Pliska trường đại học Illinois, Chicago Mỹ cho biết:

“Bên cạnh việc giúp các nhà đầu tư quản lý rủi ro, thị trường chứng khoán phái sinh

cũng được dùng để đầu cơ khi nhà đầu cơ hướng về sự giao động giá trong tương lai”.



Hình 2.6: Mức độ sử dụng công cụ phái sinh trong phòng ngừa và đầu cơ.

Theo điều tra đối với 500 công ty lớn nhất trên thế giới tại 26 quốc gia khác nhau

thì có tới 92% các công ty trả lời rằng họ sử dụng thường xuyên công cụ tài chính phái

sinh để phòng ngừa và quản lý rủi ro và còn lại là sử dụng nhằm mục đích kinh doanh

kiếm lời.



59



Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán”



GVHD: Th.S Dương Kha



Các công cụ tài chính ngày càng tinh vi và mang theo một số rủi ro gây gián đoạn

lớn hơn độ rủi ro thông thường. Một ví dụ đó là vào ngày 19/10/1987 - ngày thứ hai

đen tối - đã xảy ra một cuộc “di cư tập thể” ra khỏi thị trường cổ phiếu dẫn tới sự sụp

đổ của thị trường cổ phiếu Mỹ do việc sử dụng rộng rãi kỹ thuật tự bảo hiểm Delta.

Những người bảo hiểm này đã đầu tư mạnh hơn vào thị trường mà nếu như không có

kỹ thuật này thì có thể họ đã không làm như vậy.

Xét cụ thể trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay, Thành viên Hội

đồng tư vấn chính sách tài chính tiền tệ của Chính phủ Nguyễn Thị Mùi nhận định:

“Công cụ phái sinh như “con dao hai lưỡi”. Một mặt, nó là công cụ phòng chống rủi ro

để kiếm lời nhưng đồng thời nó cũng lại làm nảy sinh rủi ro. Cuộc khủng hoảng tài

chính lần này của Mỹ chính là do sự phát triển quá nóng của của các công cụ phái sinh

và trong đó có công cụ của thị trường bất động sản là chứng khoán hoá bất động sản”.

2.4.2 Trường phái cho rằng công ty không nên sử dụng công cụ phái sinh:

2.4.2.1 Công cụ phái sinh – Tác nhân của cuộc khủng hoảng tài chính toàn

cầu:

Một thực tế mà ta có thể thấy rõ rằng, nền kinh tế toàn cầu đã tăng trưởng như một

quả cầu lửa trong những năm gần đây bị chi phối bởi sự tiếp cận quá dễ dàng những

nguồn tín dụng với chi phí cực kỳ rẻ. Một phần của vấn đề này là do việc cắt giảm lãi

suất của FED, với việc cắt giảm lãi suất liên tục từ năm 2000 đến giữa năm 2004. Đặc

biệt, FED đã cắt giảm còn 1% vào tháng 7/2003 - mức thấp nhất trong vòng nửa thế kỷ

qua.

Điều này đã làm cho nền kinh tế Mỹ giống như một chiếc lò xo bị đè nén mạnh bây

giờ được thả bật tung ra trở nên tăng trưởng nhanh chóng thông qua việc kích cầu để

sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng.

Khi nền kinh tế đã ổn định, lãi suất thấp vẫn được duy trì cộng với sự phát triển

mạnh mẽ của thị trường bất động sản làm cho nhu cầu đi vay mua nhà, mua đất gia

tăng chóng mặt. Không chỉ có lãi suất thấp mà việc cho vay quá dễ dàng đã tạo ra một

làn sóng ồ ạt các nhà đầu cơ tham gia đầu cơ bất động sản - một thị trường đầy mật

ngọt. Rồi điều gì đến đã đến, khi FED tăng lãi suất lên 5,25% vào cuối 2006, quả bóng



60



Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán”



GVHD: Th.S Dương Kha



nổ tung, thị trường bất động sản tuột dốc và hoàn toàn đóng băng trong năm 2007 kéo

theo sự tuột dốc của giá hàng loạt các loại chứng khoán.



Hình 2.7 :Lãi suất ở Mỹ giai đoạn 2001-2005

Trong cơn bão tài chính, khi giá trị tài sản tài chính, ở đây là các chứng khoán bất

động sản, sụt giảm mạnh mẽ thì số phận của các tổ chức tín dụng cũng lung lay theo.

Và giờ đây hầu hết các ngân hàng đầu tư đã sụp đổ hoặc bị sáp nhập, những tên tuổi

lẫy lừng chỉ còn là huyền thoại.

Một điều đáng quan tâm là sự ra đời và góp mặt của các công cụ tài chính phái sinh

- công cụ đã và đang đóng vai trò vô cùng quan trọng cho sự phát triển của thị trường

tài chính. Đồng thời, cuộc khủng hoảng hiện nay xảy ra như một hậu quả tất yếu từ sự

phát triển quá nóng của chính các công cụ tài chính này. Cũng có ý kiến cho rằng sự ra

đời của công cụ phái sinh đã như một quả bom nổ chậm và tới thời điểm hiện nay quả

bom đã được khai hoả, nổ tung với tầm ảnh hưởng toàn cầu.

Như đã đề cập, thị trường nhà đất phát triển mạnh mẽ trong 10 năm trở lại đây. Lúc

này các định chế tài chính đổ xô nhau “sản xuất” ra những hợp đồng cho vay dưới

chuẩn thậm chí còn tiếp thị rồi khuyến khích cả những người không đủ khả năng về tài

chính đi vay tiền mua nhà góp phần tham gia vào thị trường béo bở này. Điều tệ hại

hơn khi các tổ chức tài chính phố Wall đã tập hợp các hợp đồng cho vay bất động sản

này lại thành tài sản đảm bảo để phát hành trái phiếu ra thị trường tài chính quốc tế.

Đó là một dạng của “phát kiến tài chính” được mang tên “Mortgage backed

securities” - một sản phẩm tài chính phái sinh được đảm bảo bằng những hợp đồng

61



Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán”



GVHD: Th.S Dương Kha



cho vay bất động sản có thế chấp. Các ngân hàng, các công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư

cùng các quỹ hưu trí đã tranh nhau mua các hợp đồng này do họ đã bị che đi bởi một

bức màn vô hình do các tổ chức giám định hệ số tín nhiệm (Credit rating agencies ) tạo

ra khi các tổ chức này đã đánh giá cao cho các loại sản phẩm phái sinh này. Họ mua

mà không hề hay biết rủi ro thực sự của các hợp đồng cho vay này - những hợp đồng

cho vay bất động sản dùng để đảm bảo không đủ tiêu chuẩn. Việc mua bán các khoản

nợ trong đó có rất nhiều nợ dưới chuẩn tiếp tục thực hiện từ tổ chức này sang tổ chức

khác, từ cá nhân này sang cá nhân khác. Các hợp đồng nợ dưới chuẩn đã được “bôi

trơn và đánh bóng” bởi những nhà đầu tư lớn ở phố Wall thông qua các “phát kiến tài

chính”. Từ đây, nghiệp vụ chứng khoán hoá được phát huy mạnh mẽ hơn bao giờ hết.

Như một quy luật tất yếu của tự nhiên, tức khi thời tiết trở nên ngày càng nóng bức,

đến một mức độ nào đó trời bắt đầu mưa làm nhiệt độ hạ xuống. Cũng theo quy luật

đó, khi thị trường bất động sản đã phát triển quá nóng, đi đến đỉnh điểm nó bắt đầu hạ

nhiệt.



Hình 2.8: Nhu cầu nhà ở Mỹ giai đoạn 1995 - 2007

Rồi khi thị trường bất động sản đóng băng, người đi vay không trả được nợ do bán

bất động sản với giá cực kỳ thấp không đủ để thanh toán các khoản nợ thậm chí là

không bán được, bất động sản rớt giá trầm trọng. Từ đó nảy sinh hậu quả là các hợp

đồng cho vay bất động sản dùng để đảm bảo cho trái phiếu MBS là nợ khó đòi, các trái

phiếu MBS cũng như bất động sản trở nên mất giá trên thị trường thứ cấp thậm chí

62



Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán”



GVHD: Th.S Dương Kha



còn không mua bán được trên thị trường. Các ngân hàng rơi vào tình trạng khốn đốn,

gánh chịu các khoản lỗ khổng lồ dẫn tới mất khả năng thanh toán.

Khi cuộc khủng hoảng bùng nổ, các chuyên gia đã ước tính rằng trong 22000 tỷ

USD giá trị bất động sản tại Mỹ - tâm chấn của cuộc khủng hoảng – có tới hơn 12000

tỷ USD là tiền đi vay và trong đó khoảng 4000 tỷ USD là nợ xấu. Thực hiện theo Mỹ,

các nước trên thế giới cũng bán ra thị trường tài chính các loại trái phiếu phái sinh

MBS. Điều này khiến cho việc tính toán và đo lường tổng số nợ bất động sản khó đòi

và tổng số MBS đã phát hành đang “gieo mầm bệnh” toàn cầu là một nghiệp vụ bất

khả thi. Một sản phẩm “mang mầm bệnh” nữa đó là những “Credit Default Swap” –

CDS – “hợp đồng bảo lãnh nợ khó đòi”. Các hợp đồng này do các tổ chức tài chính và

các công ty bảo hiểm quốc tế bán ra. Các tổ chức này cam kết sẽ hoàn trả đầy đủ số nợ

cho vay cho bên mua CDS nếu bên đi vay không trả được nợ. Thống kê của hiệp hội

“International Swap and Derivatives Association” về sản phẩm này cho thấy tại Mỹ

tổng số CDS ước tính khoảng 35000 tỷ USD và trên toàn thế giới khoảng 54600 tỷ

USD.

Một ví dụ điển hình là: sự chao đảo của tập đoàn tài chính và bảo hiểm hàng đầu

thế giới AIG khi tập đoàn này đầu tư vào cả MBS và CDS. Không chỉ riêng gì AIG mà

hàng loạt các tổ chức tín dụng từ các đại gia cho đến các tổ chức tài chính không tên

tuổi cũng không nằm ngoài tầm ảnh hưởng. Mọi nỗ lực đang dồn vào giải cứu thị

trường tài chính Mỹ. Nếu tình hình trở nên tồi tệ nhất, thị trường tài chính Mỹ không

được giải cứu kịp thời theo đó thị trường tài chính thế giới bị đóng băng, lúc này các

công cụ phái sinh phát huy mặt trái của nó, một sự tàn phá khủng khiếp các định chế

tài chính trên toàn cầu mà hậu quả ta không thể nào đo lường hết được. Điều này cho

thấy điểm khác biệt giữa cuộc khủng hoảng lần này so với cuộc đại suy thoái 1930 đó

chính là các “phát kiến tài chính” - những công cụ phái sinh góp phần tăng thêm mức

độ trầm trọng cho cuộc khủng hoảng hiện nay.

2.4.2.2 Phòng ngừa rủi ro không những không làm giảm thiểu rủi ro mà

còn làm gia tăng rủi ro:

Khi điều kiện thị trường có những chuyển biến theo chiều hướng thuận lợi, nếu một

doanh nghiệp thực hiện việc phòng ngừa thì có thể sẽ bỏ qua những cơ hội thực hiện

63



Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán”



GVHD: Th.S Dương Kha



các ưu thế mà thị trường đang có. Trên thực tế, thực hiện phòng ngừa rủi ro, doanh

nghiệp sẽ giảm đi được các khoản lỗ nhưng đồng thời cũng làm giảm đi các khoản lãi

tiềm năng. Ngoài ra, người đi thực hiện phòng ngừa rủi ro phải gánh chịu thêm rủi ro

basic ngoài rủi ro trên tài sản do tính không chắc chắn trong basic (vì basic = giá giao

ngay – giá giao sau). Phòng ngừa rủi ro chính là ta không thực sự tin vào điều gì cả.

Tức là nhà đầu tư phòng ngừa rủi ro vì nghĩ là sẽ có những sự kiện không mong muốn

xảy ra trong thị trường và điều này trở thành hành vi đầu cơ khi mà tất cả tiền của một

người đều tập trung vào thị trường cổ phiếu. Trong một giới hạn nào đó nếu các cổ

đông có thể dự báo chính xác tất cả các rủi ro có thể phòng ngừa đi chăng nữa nhưng

nếu như xuất hiện độ nhạy cảm do những bất ổn trong giá cả, nguyên vật liệu thì họ

khó có khả năng tính toán chính xác mức độ của những rủi ro này cũng như xác định

được thời điểm mà lúc các rủi ro này gây ra những tổn thất lớn nhất, hay xác định

chính xác số lượng hợp đồng giao sau để phòng ngừa rủi ro. Một điều đáng lưu tâm

nữa là phòng ngừa rủi ro có thể làm cho nhà đầu tư cảm nhận sai lệch về số lượng rủi

ro giảm đi. Bởi một mặt phòng ngừa rủi ro không thể cũng như không hoàn toàn có thể

loại trừ hết rủi ro. Điều này cho thấy phòng ngừa rủi ro chỉ mang lại lợi ích cho doanh

nghiệp trong một khía cạnh nào đó thôi, nếu không có sự am hiểu kỹ càng về phòng

ngừa rủi ro thì sẽ làm gia tăng rủi ro công ty.

2.4.3 Trường phái cho rằng công ty nên sử dụng công cụ phái sinh:

Trường phái này lại cho rằng nguyên nhân thực sự của cuộc khủng hoảng tài chính

toàn cầu là:

 Lãi suất được cắt giảm liên tục:

Năm 2000, lãi suất cơ bản của FED là trên 6%. Lãi suất này liên tục được cắt giảm,

thậm chí như đã nói ở trên, đến giữa năm 2003 thì chỉ còn 1%. Chính sách cắt giảm lãi

suất được thực hiện nhằm kích thích tiêu dùng trong dân cư, kích thích đầu tư trong

khối doanh nghiệp, giúp nền kinh tế thoát khỏi trì trệ sau sự kiện bong bóng dotcom

bùng nổ và sự kiện nước Mỹ bị tấn công khủng bố vào năm 2001. Với bối cảnh hiện

thời, chính phủ Mỹ cho rằng chính sách kích cầu là thích hợp nhất và mục tiêu chính là

thị trường nhà ở.



64



Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán”



GVHD: Th.S Dương Kha



Hình 2.9: Chênh lệch lãi suất ở Mỹ

 Chính sách ưu đãi của chính phủ:

Từ những năm 1999 đến 2006, hệ thống ngân hàng luôn đạt được mức lợi nhuận

tăng trưởng đầy ấn tượng. Một phần nguyên nhân là do các ngân hàng đã đẩy mạnh

hoạt động cho vay bất động sản dưới sự khuyến khích của chính phủ Mỹ. Tiêu biểu

cho vấn đề này là sự kiện trong những năm cuối cùng của nhiệm kỳ chính quyền Bill

Clinton đã ban hành đạo luật tái phát triển cộng đồng, tập trung vào mục tiêu xã hội là

giải quyết nhà ở cho người dân có thu nhập thấp. Thêm vào đó năm 1980, chính phủ

Mỹ đã ban hành Luật Giao dịch thế chấp tương đương (Alternative Mortgage

Transaction Parity Act), nới lỏng những quy tắc cho vay và khuyến khích những kênh

tài trợ khác phi ngân hàng. Đạo luật này góp phần ra đời nhiều công ty cho vay thế

chấp và không chịu sự ràng buộc bởi các luật lệ của ngân hàng. Ngay cả những ngân

hàng cũng thành lập hoặc liên kết với các công ty cho vay thế chấp làm bùng nổ các

kênh cung cấp vốn cho thị trường bất động sản. Chính sách lãi suất thấp cùng với sự ưu

đãi của chính phủ, hai yếu tố này như hai liều thuốc tăng lực đã thúc đẩy ngân hàng

cho vay và đi vay, còn người dân thì đua nhau đi vay tiền ngân hàng mua nhà.

 Chính phủ buông lỏng giám sát – Ngân hàng nới lỏng tín dụng:

Một sai lầm của Chính phủ Mỹ trong cuộc khủng hoảng lần này là đã buông lỏng

việc giám sát hoạt động cho vay địa ốc dưới chuẩn. Một nguyên tắc truyền thống “bất

di bất dịch” của ngành ngân hàng là không được phép thực hiện nghiệp vụ cho vay đối

65



Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán”



GVHD: Th.S Dương Kha



với những khách hàng không có khả năng thanh toán các khoản vay khi đến hạn. Tuy

nhiên, quy định này bị “làm ngơ” trong hoạt động cho vay dưới chuẩn tại Mỹ. Thậm

chí, vào năm 1994, Quốc hội Mỹ đã thông qua Đạo luật Quyền sở hữu nhà và Bảo vệ

tài sản nhằm cho phép FED buộc các tổ chức cho vay địa ốc phải tuân thủ các tiêu

chuẩn cho vay truyền thống. Nhưng ông Alan Greenspan – Chủ tịch FED lúc bấy giờ,

đã từ chối quyền lực được giao này vì ông cho rằng thị trường tài chính sẽ tự điều

chỉnh. Cũng do sự cạnh tranh gay gắt trong ngành, các ngân hàng cho vay sẵn lòng cho

người dân vay, nới lỏng tín dụng, thậm chí đối với những khách hàng có hạng mức tín

dụng dưới chuẩn - những đối tượng không có thu nhập ổn định, có tiền sử tài chính

xấu, không có được các tài sản đảm bảo cho các khoản vay của mình.

So với trước đây, ở Mỹ để có thể vay tiền ngân hàng mua nhà ở trả góp thì người

vay gọi là “đủ tiêu chuẩn” phải có được ba tiêu chuẩn cơ bản là: tiền cọc ít nhất bằng

10% tiền mua nhà , thu nhập phải ổn định để cho số tiền trả góp hàng tháng không quá

28% thu nhập và có điểm tín nhiệm vay trả sòng phẳng. Bên cạnh đó ngân hàng chỉ

được phép cho vay tuỳ thuộc vào lượng tiền gửi hiện đang có tại ngân hàng cũng như

tỷ lệ dự trữ bắt buộc của chính phủ đối với ngân hàng.



Hình 2.10: Doanh số bán nhà ở Mỹ giai đoạn 1995 - 2007

Một điều tất yếu, rủi ro cao thì lãi suất cao. Tuy nhiên, nếu lãi suất cao thì đại bộ

phận những người dân nghèo sẽ không dám đi vay tiền. Do đó, các ngân hàng cho vay

bất động sản để tạo ra các sản phẩm cho vay “hấp dẫn” như Alt-a tức cho vay với lãi

suất rất thấp trong năm đầu sau đó lãi suất sẽ tính theo lãi suất thị trường. Do đó bất cứ

66



Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán”



GVHD: Th.S Dương Kha



cá nhân, tổ chức nào cũng có thể vay tiền mua nhà một cách dễ dàng. Điều này làm cho

doanh số nhà ở tại Mỹ tăng lên nhanh chóng.

Các ngân hàng dám mạnh tay thực hiện những nghiệp vụ cho vay này với một tâm

lý ỷ lại do đã có sự bảo đảm ngấm ngầm từ chính phủ mà hiện thân lúc bấy giờ là hai

công ty Fannie Mae và Freddie Mac. Sở dĩ tồn tại hai công ty này vì để hỗ trợ cho vay

tạo lập nhà ở, Chính phủ Mỹ cho lập Hiệp hội quốc gia tài trợ bất động sản (Federal

National Mortgage Association - gọi tắt là Fannie Mae) và Tập đoàn cho vay quốc gia

(Federal Home Loan Mortgage Corporation - gọi tắt là Freddie Mac). Hoạt động chính

của hai công ty này là mua lại những món vay nợ thế chấp bằng bất động sản, đặc biệt

là các khoản vay thế chấp “dưới chuẩn” (subprime mortgage) của các ngân hàng rồi

dùng bất động sản thế chấp để phát hành “trái phiếu tái thế chấp” (Mortgage-backed

Securities) bán cho các nhà đầu tư khác nhằm tăng tính thanh khoản cho ngân hàng.

Lúc này các món nợ nhà ở đã được “trái phiếu hoá” thành sản phẩm tài chính thông

dụng có thể mua bán dễ dàng trên thị trường tiền tệ.

 Vấn đề lương, thưởng cho các CEO ngành tài chính:

Một nguyên nhân nữa cho sự “mạnh tay” này còn xuất phát từ triết lý và cung cách

kinh doanh của các nhà lãnh đạo phố Wall, liên quan tới vấn đề chi phí đại diện. Kết

quả đạt được từ hoạt động kinh doanh sẽ quyết định cho mức lương và tiền thưởng.

Điều này khiến cho các nhà quản lý như con thiêu thân lao vào các hoạt động kinh

doanh đầy rủi ro. Đối với họ lúc bấy giờ, lợi nhuận trước mắt mới quan trọng, họ sẵn

sàng bỏ qua sự phát triển bền vững của doanh nghiệp. Các khoản lợi nhuận và các

khoản thu được kếch sù từ các khoản cho vay thứ cấp có sức hấp dẫn cực kỳ ghê gớm.

Với mức lãi suất được tính toán một cách công phu và khéo léo thậm chí có thể các nhà

đầu tư cũng không thể hiểu hết được. Cũng bởi sự hấp dẫn quá lớn từ cho vay dưới

chuẩn đã dấy lên lòng tham của các ngân hàng và chính lòng tham đó đã giết chết họ.

Trong khi đó những người có đủ quyền hạn và trách nhiệm trong thị trường tài chính

Mỹ thì “giả câm, giả điếc” hay suy nghĩ lạc quan hơn là họ không kiểm soát nổi. Hệ

thống ngân hàng ở Mỹ chịu sự giám sát của FED nhưng hoạt động mua bán chứng

khoán chịu sự giám sát của SEC, hoạt động này hầu như hoàn toàn tự do. Thêm một kẻ

hở nữa cho hoạt động kiếm lời của các tổ chức tài chính. Các ngân hàng thì thả sức gia

67



Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán”



GVHD: Th.S Dương Kha



tăng nguồn vốn tài trợ cho các tổ chức cá nhân mua bán nhà ở thông qua kỹ thuật

“chứng khoán hoá bất động sản thế chấp” trong khi hệ thống kiểm soát thì không theo

kịp.

Các ngân hàng đua nhau cho vay dưới chuẩn với những điều kiện cho vay quá dễ

dãi. Họ không xét đến khả năng chi trả và điểm tín dụng theo quy định nhưng lúc này

người đi vay phải trả lãi suất cao hơn 1 đến 2%. Ngoài ra, việc cho vay dưới chuẩn còn

thể hiện ở chỗ ngân hàng thực hiện ở mức cho vay cao tới 85% giá trị bất động sản thế

chấp. Người mua chỉ cần đóng góp 15% là đủ điều kiện cho vay. Các tổ chức tín dụng

tranh nhau phát hành những gói tín dụng hấp dẫn.



Hình 2.11 Đòn bẩy tài chính của các ngân hàng Mỹ Q1 năm 2008

Một thời cơ có thể nói là hiếm hoi cho các nhà đầu cơ bất động sản. Khi thị trường

bất động sản đang lên, chỉ cần có một ít tiền là có thể đặt cọc mua nhà và thực hiện

việc bán lại khi giá nhà lên cao, lợi nhuận thu được là khó tưởng tượng nổi. Giá bất

động sản tại Mỹ liên tục tăng đã lôi kéo các nhà đầu tư và cả người dân đổ xô vào kinh

doanh bất động sản tạo một lực đẩy “bong bóng” bất động sản lên cao, làm cho cung

vượt quá cầu. Rồi khi thị trường địa ốc Mỹ tuột dốc, bong bóng tài sản vỡ tung, như

một cơn sóng thần ập lên khắp nước Mỹ. Cuộc khủng hoảng bắt đầu. Những hợp đồng

trước đây được các chuyên gia phố Wall gom lại và phát hành chứng khoán phái sinh,

được đảm bảo bằng những hợp đồng cho vay thế chấp, bây giờ mất giá thảm hại, thị

68



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×