1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Kinh tế - Thương mại >

Mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (458.42 KB, 62 trang )


con đường đi vay và xin viện trợ nước ngoài nhằm phát triển kinh tế. Thực tế đã cho thấy

các nước này có thể đạt được mức tăng trưởng cao nhưng là tăng trưởng nóng, không bền

vững và có sự lệ thuộc vào nước cho vay bởi họ không thấy được cũng như không phát

huy được tính quyết định của nguồn vốn trong nước.

Nguồn vốn trong nước chiếm một tỉ trọng ưu thế (>50%) trong tổng vốn đầu tư toàn

xã hội. Nếu tỷ trọng này quá thấp so với vốn nước ngoài thì sẽ dẫn đến giảm khả năng

thanh toán và có thể không kiểm soát được sự thâm nhập của các tập đoàn xuyên quốc gia

gây lũng đoạn thị trường, thu hẹp thị trường của các doanh nghiệp trong nước và sản xuất

trong nước không phát triển. Các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay vẫn chủ yếu là các

doanh nghiệp vừa và nhỏ, khả năng cạnh tranh còn hạn chế ở rất nhiều mặt, sự hỗ trợ từ

nhà nước bằng chính sách pháp luật là rất cần thiết. Chính vì vậy chúng ta phải giữ cho tỷ

trọng nguồn vốn trong nước ở mức có thể kiểm soát được hoạt động của nền kinh tế. Như

vậy, chúng ta có thể chủ động ứng phó kịp thời với các biến động của nền kinh tế, cũng

như trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam cạnh tranh trên thị trường nhất là trong

bối cảnh nước ta mới gia nhập tổ chức WTO.

2.1.2 Đóng vai trò định hướng cho dòng đầu tư nước ngoài chảy vào các

ngành, các lĩnh vực cần thiết

Nguồn vốn trong nước đóng vai trò then chốt trong việc định hướng các hoạt động

đầu tư. Mỗi nền kinh tế phát triển đều phải trải qua những giai đoạn khác nhau và không

thể áp dụng dập khuôn một chính sách cho cả quá trình phát triển. Với mỗi giai đoạnh phát

triển sẽ đặt ra những mục tiêu trọng tâm, ưu tiên cho việc phát triển những ngành kinh tế

phù hợp. Muốn xây dựng một đất nước phát triển về mọi mặt thì các ngành, các vùng của

chúng ta đều phải có một sự phát triển nhất định với một cơ cấu hợp lý. Việc đầu tư vốn

trong nước để xây dựng cơ sở hạ tầng, mạng lưới giao thông, thông tin liên lạc… vào

ngành, địa phương nào sẽ tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi, từ đó có thể thu hút các nhà

đầu tư nước ngoài. Vì vậy, việc sử dụng vốn trong nước cho những ngành nào, vùng nào

cần phải được cân nhắc kỹ lưỡng theo sự định hướng của nhà nước. Vốn nhà nước có vai

trò quan trọng trong việc tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi, nhằm đẩy mạnh hoạt động đầu

tư của mọi thành phần kinh tế theo định hướng chung của kế hoạch, chính sách và pháp

luật. Đồng thời trực tiếp tạo ra năng lực sản xuất của một số lĩnh vực quan trọng nhất của

14



nền kinh tế đảm bảo phát triển theo đúng định hướng chiến lược và quy hoạch phát triển

kinh tế xã hội.

2.1.3 Tạo cơ sở hạ tầng căn bản cho việc chủ động tiếp nhận nguồn vốn đầu tư

nước ngoài

Bất cứ một nhà đầu tư nước ngoài nào khi quyết định đầu tư ra nước ngoài đều quan

tâm đến khả năng sinh lợi của số vốn mình bỏ ra. Môi trường đầu tư bao gồm cả hệ thống

cơ sở hạ tầng và hệ thống luật pháp. Nhà đầu tư sẽ thường lựa chọn nơi có môi trường kinh

doanh tốt hơn vì họ có thể giảm bớt chi phí kinh doanh. Vì vậy, một hệ thống cơ sở hạ tầng

không tốt luôn là trở ngại đối với nhà đầu tư nước ngoài. Khi vốn nước ngoài còn đang e

ngại đầu tư vào thị trường trong nước thì vốn trong nước ( hầu hết là vốn từ ngân sách nhà

nước) phải đứng ra đầu tư vào lĩnh vực này. Trước là để tạo cơ hội cho sự phát triển kinh tế

địa phương, tạo môi trường đầu tư kinh doanh tốt cho nhà đầu tư trong nước, sau là để tạo

điều kiện thu hút vốn đầu tư của nước ngoài.

Mặt khác, nguồn vốn trong nước chính là cơ sở để thu hút vốn đầu tư nước ngoài.

Trước tiên, xét về nguồn vốn FDI: Thực tế những năm qua, dòng vốn FDI trên thế giới chủ

yếu di chuyển trong nội bộ các nước phát triển, chỉ có khoảng 25%- 30% di chuyển đến

các nước đang và chậm phát triển. Điều đó chứng tỏ tài nguyên thiên nhiên dồi dào, lao

động rẻ không phải là nhân tố hàng đầu trong thu hút FDI. Khoảng 90% dòng vốn chảy

vào một số ít quốc gia có môi trường đầu tư hấp dẫn. Vì vậy, cần quan tâm tới vấn đề sử

dụng nguồn vốn trong nước để tạo một môi trường đầu tư hấp dẫn. Muốn vậy, chúng ta

cần xây dựng được một nền tảng kinh tế - chính trị - xã hội vững chắc và ổn định, có cơ sở

hạ tầng, giao thông liên lạc tốt, đội ngũ công nhân có tay nghề, cán bộ quản lý có chuyên

môn... Đó mới là yếu tố quyết định tới việc thu hút vốn nước ngoài để phát triển kinh tế.

Và đảm nhiệm vai trò này chính là nguồn vốn trong nước.

2.1.4 Nguồn vốn trong nước là nguồn vốn đối ứng nhằm tạo cơ sở cho nguồn

vốn nước ngoài vào hoạt động có hiệu quả

Thông thường để vốn đầu tư nước ngoài phát huy được tác dụng thì cần phải có một

tỷ lệ vốn đối ứng trong nước thích hợp. Nghĩa là muốn tiếp nhận được vốn đầu tư nước

ngoài thì trong nước cũng cần có một số cơ sở hạ tầng nhất định tạo điều kiện cho vốn

nước ngoài hoạt động có hiệu quả. Trong dự án sử dụng vốn ODA những tổ chức cho vay

15



yêu cầu nước đi vay phải có vốn đối ứng để chủ động cho việc lập dự án. Nước đi vay phải

bỏ trước để chi trả cho đội ngũ thực hiện dự án hoặc chi phí cho hoạt động đi lại, hoạt động

của phía tiếp nhận. Sẽ có hai nhóm nhận tiền, một là do dự án trả, một nhóm khác do nhà

nước trả (lấy từ vốn đối ứng). Theo kinh nghiệm của một số nước nhóm NICs thì giai đoạn

đầu của quá trình phát triển tỷ lệ này thường thấp ở mức 1/ 1.5 nghĩa là một đồng vốn nước

ngoài thì cần 1.5 đồng vốn trong nước. Ở giai đoạn sau khi các chương trình đầu tư

nghiêng về ngành công nghiệp chế biến có hàm lượng vốn và kỹ thuật cao thì tỷ lệ này

thường tăng lên 1/ 2.5.

2.1.5



Nguồn vốn trong nước là nguồn chi trả các khoản vay nước ngoài và



giảm áp lực nợ nước ngoài cho nền kinh tế

Nguồn vốn ODA, tuy có rất nhiều ưu đãi nhưng về bản chất đây vẫn là một khoản

vay nên chúng ta vẫn phải trả nợ. Nếu khi đó nguồn vốn trong nước không đủ để chi trả sẽ

dẫn tới tình trạng nợ cho nền kinh tế. Do vậy, việc thường xuyên đánh giá tình hình sử

dụng vốn vay ODA và khả năng trả nợ của quốc gia là rất cần thiết.

Để đánh giá tình trạng nợ của một quốc gia có thể xem xét trên các phương diện về

quy mô, cơ cấu và các chỉ số về khả năng trả nợ bao gồm bốn chỉ tiêu sau:

-



Tổng nợ và thu nhập quốc dân.



-



Nợ phải trả hàng năm và giá trị xuất khẩu.



-



Nợ phải trả hàng năm và thu ngân sách chính phủ.



-



Cơ cấu về nợ ngắn hạn và dài hạn.

2.2 Nguồn vốn nước ngoài đóng vai trò quan trọng

2.2.1 Nguồn vốn nước ngoài có tác động tích cực đến nguồn vốn trong nước

2.2.1.1Nguồn vốn nước ngoài hỗ trợ cho những thiếu hụt về vốn trong nước

Vốn là một trong ba yếu tố quan trọng tác động trực tiếp tăng trưởng bên cạnh lao



động và năng suất yếu tố tổng hợp (TFP). Nguồn vốn nước ngoài hỗ trợ trực tiếp cho

những thiếu hụt về vốn trong nước, đặc biệt là trong giai đoạn đầu của phát triển, khi mà

nguồn vốn trong nước còn hạn chế. Nhóm nước này có thu nhập thấp nên khả năng tiêu

dùng và tích lũy cũng rất hạn chế. Nhưng trong giai đoạn phát triển cần một khoản vốn lớn

để đầu tư nhằm hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng, xây dựng những công trình làm nền

tảng cho sự phát triển kinh tế lâu dài. Trong giai đoạn này thường tồn tại khoảng cách lớn

16



giữa đầu tư và tiết tiệm, cần có nguồn bù đắp. Hơn nữa trong giai đoạn này, do nền công

nghiệp của đất nước chưa phát triển nên hàng xuất khẩu nếu có, đa phần là hàng nông sản

sơ chế và các nguyên liệu thô...có giá trị thấp. Ngược lại về phía nhập khẩu do nhu cầu

phát triển đòi hỏi phải nhập khẩu hàng cao cấp, máy móc thiết bị công nghệ… có giá trị

cao. Điều đó dẫn đến cán cân thương mại, cán cân thanh toán luôn nằm trong tình trạng

thâm hụt. Để giải quyết khó khăn này, nhiều nước đã tìm đến nguồn vốn đầu tư nước ngoài

để tài trợ cho những thiếu hụt đó.

Thực trạng chung của những nước đang phát triển như Việt Nam là kết cấu hạ tầng

còn thiếu, lại quá tải và cũ kĩ, đường cầu, sân bay, nhà máy điện, tàu biển… đều trong tình

trạng yếu kém. Để đạt mục tiêu tăng trưởng và phát triển bền vững, Việt Nam nhất thiết

phải đầu tư vào cơ sở hạ tầng, thường đòi hỏi vốn đầu tư lớn nhưng thu hồi vốn lại chậm,

khả năng sinh lời thấp nên không hấp dẫn được đầu tư của tư nhân. ODA trở thành giải

pháp hiệu quả cho việc đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng. Không chỉ ở Việt Nam, ngay cả

các nước phát triển cũng lựa chọn ODA để đầu tư cho phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng

đồng bộ và hiệu quả. ODA là nguồn vốn cho phép tiến hành đồng thời nhiều dự án trên địa

bàn và ở nhiều ngành khác nhau. Điều này sẽ tạo được sự phát triển mang tính chất đồng

bộ của hệ thống kết cấu hạ tầng. Nhờ đó tạo được năng suất tổng hợp phục vụ hiệu quả đối

với hoạt động sản xuất kinh doanh và sự phát triển chung của toàn xã hội.

Hơn nữa, ODA cũng làm tăng khả năng thu hút vốn FDI và tạo điều kện để mở rộng

đầu tư phát triển trong nước ở các nước đang phát triển. Để có thể thu hút được các nhà

đầu tư trực tiếp nước ngoài vào đầu tư tại một lĩnh vực nào đó, nhà nước cần tập trung vào

việc nâng cấp cải thiện và xây dựng mới cơ sở hạ tầng, hệ thống tài chính ngân hàng…

Nguồn vốn để nhà nước có thể giải quyết những đầu tư này là phải dựa vào nguồn vốn

ODA giúp bổ sung cho vốn đầu tư hạn hẹp từ ngân sách nhà nước. Một khi môi trường đầu

tư được cải thiện sẽ tăng sức hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thúc đẩy đầu tư

trong nước tăng, dẫn đến sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Mặt khác, việc sử dụng

nguồn vốn ODA để đầu tư cải thiện cơ sở hạ tầng sẽ tạo điều kiện cho các nhà đầu tư trong

nước tập trung đầu tư vào các công trình sản xuất kinh doanh có khả năng mang lại lợi

nhuận.

17



Như vậy, hỗ trợ phát triển chính thức, ngoài việc bản thân nó là nguồn vốn bổ sung

quan trọng cho các nước đang phát triển, còn có tác dụng tăng khả năng thu hút vốn từ

nguồn đầu tư trực tiếp và tạo điều kiện để mở rộng đầu tư phát triển trong nước cho các

nước này.

2.2.1.2 Là nguồn cung ứng ngoại tệ cho hoạt động mua sắm máy móc, thiết

bị, chuyển giao công nghệ, phân công lao động xã hội, tạo điều kiện cho tăng năng suất lao

động, gia tăng sản lượng của nền kinh tế.

Để tạo ra sự “cất cánh” cho nền kinh tế phải tìm cách tạo ra mức sản lượng, mức thu

nhập ngày càng gia tăng. Muốn vậy cần phải có vốn đầu tư và kỹ thuật tiên tiến.Và trong

lúc nền kinh tế còn đang kém phát triển, kỹ thuật – công nghệ lạc hậu thì việc nhập khẩu

công nghệ bên ngoài là một tất yếu. Chuyển giao công nghệ đòi hỏi một nguồn ngoại tệ lớn

trong khi cán cân thương mại luôn thâm hụt thì nguồn vốn đầu tư nước ngoài lúc này chính

là nguồn cung ứng ngoại tệ để có thể tiếp cận công nghệ bên ngoài. Trong quá trình

chuyển giao, bên nhận nhận được những kiến thức kỹ thuật mà không phải tốn kém chi phí

và mất thời gian cho hoạt động nghiên cứu và triển khai. Ưu điểm rõ ràng nhất đối với bên

nhận công nghệ là tạo ra được sự tiến bộ kỹ thuật và thương mại từ sự tiếp nhận công

nghệ, Sự cung cấp tài liệu và huấn luyện để nâng cao kiến thức của bên nhận hoặc áp dụng

các quy trình công nghệ để sản xuất thành công. Đôi khi sự giúp đỡ thêm về tài chính, tìm

thị trường và tiêu thụ sản phẩm của bên cung cấp còn mở ra một khả năng thương mại cho

bên nhận. Khi công nghệ được chuyển giao, năng suất lao động sẽ tăng do tiến bộ của khoa

học kỹ thuât, hàng hóa bên nhận sẽ có chất lượng cao hơn, đáp ứng tốt hơn nhu cầu trong

nước cũng như xuất khẩu.

2.2.1.3 Làm gia tăng nguồn vốn trong nước

Từ khi mở cửa hội nhập, tiếp cận luồng vốn đầu tư nước ngoài, số lượng doanh

nghiệp trong nước tăng lên đáng kể. Bằng cách tuyển dụng lao động địa phương vào trong

các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã trực tiếp tạo việc làm cho người lao động

hoặc gián tiếp tạo việc làm thông qua viêc hình thành các doanh nghiệp vệ tinh cung cấp

hàng hóa và dịch vụ cho các doanh nghiệp này khi các doanh nghiệp vệ tinh này được hình

thành và phát triển sẽ tạo việc làm trong phạm vi toàn xã hội. Ngài ra điều kiện lao động và

chăm sóc về mặt sức khỏe, y tế đối với người lao động tại các nước tiếp nhận đầu tư tốt

18



hơn so với các doanh nghiệp địa phương. Với nguồn thu nhập ngày càng được cải thiện thì

chất lượng cuộc sống ngày càng nâng cao. Thu nhập cao hơn, người lao động sẽ tiêu dùng

nhiều hơn, làm gia tăng cầu của nền kinh tế, kích thích sản xuất phát triển. Điều đó cũng

thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển để đáp ứng nhu cầu ngày càng gia tăng và giảm nỗi

lo về đầu ra cho sản phẩm. Từ đó doanh nghiệp trong nước sẽ tích cực sản xuất, nghiên

cứu để cải tiến công nghệ nhằm gia tăng năng suất lao động và đáp ứng ngày càng tốt hơn

nhu cầu tiêu dùng. Từ đó, doanh thu của các công ty sẽ tăng, lợi nhuận tăng làm gia tăng

tích lũy nội bộ nền kinh tế. Bên cạnh đó, khi thu nhập của người lao động tăng, họ cũng

tăng tích lũy, tạo thành nguồn vốn lớn trong nước.

Nguồn vốn nước ngoài khi vào lãnh thổ Việt Nam sẽ phải tuân theo luật pháp của

Việt Nam và phải hoàn thành nghĩa vụ đóng thuế cho nhà nước. Một thực tế mà chúng ta

đều thấy, doanh nghiệp nước ngoài thường hoạt động có hiệu quả hơn so với doanh nghiệp

trong nước. Do vậy, số thuế thu được từ những doanh nghiệp này sẽ nhiều hơn, bao gồm

các nguồn thu từ thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân,

thuế chuyển nhượng, thu nhập từ mua bán tài sản… Đó cũng là nguồn bù đắp lớn cho ngân

sách nhà nước, mà đây cũng chính là nguồn cung ứng vốn lớn ở trong nước.

Nguồn vốn đầu tư nước ngoài cùng với nguồn vốn trong nước hình thành những

hình thức hợp tác như công ty liên doanh, công ty cổ phần…Việc liên doanh liên kết này

sẽ làm giảm bớt gánh nặng về vốn, đầu tư đổi mới công nghệ được san sẻ giữa các bên.

Bên cạnh đó tạo điều kiện tốt cho phía trong nước có cơ hội học hỏi kỹ năng quản lý

chuyên nghiệp từ bên ngoài, tác phong làm việc công nghiệp, nâng cao tay nghề cho công

nhân. Thêm vào đó, sản phẩm đầu ra sẽ có thương hiệu tốt hơn, từ đó nâng cao khả năng

cạnh tranh của công ty, lợi nhuận thu được cao hơn so với không liên doanh liên kết. Và

như thế, nó đã góp phần gia tăng tích lũy nội bộ nền kinh tế.

2.2.1.4 Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế

Cơ cấu kinh tế của một quốc gia là tổng thể mối quan hệ hữu cơ giữa các yếu tố cấu

thành nền kinh tế. Một đất nước có nền kinh tế phát triển phải có một cơ cấu kinh tế hợp

lý. Muốn chuyển dịch cơ cấu kinh tế của một đất nước cần có rất nhiều nguồn lực. Trong

đó yếu tố vốn đóng vai trò quyết định Nếu chỉ dựa vào nguồn vốn trong nước sẽ không thể

19



đáp ứng được, có thêm nguồn vốn nước ngoài sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển

dịch cơ cấu kinh tế.

Nguồn vốn nước ngoài làm thay đổi cơ cấu các ngành của nước tiếp nhận đầu tư,

chuyển đổi từ ngành sản xuất nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp và dịch vụ và sau

cùng là sang ngành sản xuất dịch vụ. Thay đổi cơ cấu bên trong một ngành sản xuất từ

năng suất thấp, công nghệ lạc hâu, lao động nhiều sang sản xuất có năng suất cao, công

nghệ hiện đại. Khi cơ cấu kinh tế đã được chuyển dịch theo hướng ngày càng tiến gần hơn

so với thế giới thì sẽ tạo điều kiện cho sản xuất trong nước phát triển do đã có được những

điều kiện sản xuất phát triển ở một mức độ hợp lý.

Như vậy, nếu sử dụng tốt thì vốn đầu tư nước ngoài về ngắn hạn là đáp ứng vốn đầu

tư phát triển, về dài hạn làm gia tăng nguồn vốn tích lũy trong nước.



2.2.2 Những tác động tiêu cực nếu sử dụng và quản lý nguồn vốn nước ngoài

không tốt

2.2.2.1 Luôn tiềm ẩn nguy cơ làm gia tăng nợ nước ngoài và gia tăng sự phụ thuộc vào nền

kinh tế nước ngoài nhất là đối với nguồn ODA

Nguồn ODA luôn chứa đựng cả tính ưu đãi cho nước tiếp nhận và lợi ích của nước

viện trợ. Chính vì vậy, ODA mang yếu tố chính trị. Các nước viện trợ nói chung vừa gây

ảnh hưởng chính trị, vừa thực hiện xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tư vấn vào nước tiếp

nhận. Bản thân các nước phát triển nhìn thấy lợi ích của mình trong việc hỗ trợ, giúp đỡ

các nước đang phát triển để mở mang thị trường tiêu thụ sản phẩm và thị trường đầu tư.

Viện trợ thường gắn với các điều kiện kinh tế. Xét về lâu dài,các nhà viện trợ sẽ có lợi về

mặt an ninh, kinh tế, chính trị khi các nước nghèo phát triển. Viện trợ các nước không chỉ

đơn thuần là việc giúp đỡ hữu nghị mà còn là một công cụ lợi hại để thiết lập và duy trì lợi

ích kinh tế và vị thế chính trị cho nước tài trợ. Những nước cấp viện trợ đòi hỏi những

nước tiếp nhận phải thay đổi chính sách phát triển cho phù hợp với lợi ích của bên tài trợ.

Khi nhận viện trợ, các nước cần cân nhắc kỹ lưỡng những điều kiện của nhà tài trợ, không

vì lợi ích trước mắt mà đánh mất những quyền lợi lâu dài. Quan hệ hỗ trợ phát triển chính

20



thức phải đảm bảo tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội

bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi.

ODA là nguồn vốn có khả năng gây nợ. Khi tiếp nhận và sử dụng vốn ODA do tính

chất ưu đãi nên gánh nặng nợ nần thường chưa xuất hiện. Một số nước do sử dụng không

hiệu quả ODA có thể tạo sự tăng trưởng nhất thời, nhưng sau một thời gian lại lâm vào

vòng nợ nần do không có khả năng trả nợ. Sự phức tạp chính là ở chỗ vốn ODA không có

khả năng đầu tư trực tiếp cho sản xuất nhất là cho xuất khẩu trong khi việc trả nợ lại dựa

vào xuất khẩu thu ngoại tệ. Mặt khác với ODA là nguồn vốn vay lâu dài, do ban đầu chưa

phải trả nợ ngay nên ODA hay bị sử dụng lãng phí, không hiệu qủa. Khi đến kỳ trả nợ thì

người phải trả lại là thế hệ sau. Vì vậy, nó còn kĩm hãm khả năng phát triển lâu dài của

nguồn vốn trong nước. Do đó, trong khi hoạch định chính sách sử dụng vốn ODA cần phải

phối hợp với các loại nguồn vốn để tăng cường sức mạnh kinh tế và khả năng xuất khẩu.

2.2.2.2 Nguồn vốn nước ngoài di chuyển vào trong nước làm tăng thu nhập của vốn nước

ngoài trên thị trường trong nước và làm giảm thu nhập của nguồn vốn trong nước

Về thực chất, đây là việc tái phân phối thu nhập của nguồn vốn trong nước cho vốn

nước ngoài, do đó có thể gây ra làn sóng “bài ngoại” của vốn trong nước và hiện tượng

xung đột ngấm ngầm hoặc công khai trong quan hệ giữa vốn trong nước và vốn nước

ngoài.

2.2.2.3 Nguồn vốn nước ngoài được đầu tư khá nhiều vào khai thác tài nguyên, dẫn đến

làm giảm khả năng phát triển lâu dài của nguồn vốn trong nước.

Đặc điểm của tài nguyên thiên nhiên là bắt nguồn từ tính chất quý hiếm và sự phân

bố không đồng đều giữa các vùng trên trái đất. Các nước đang phát triển thường có nhiều

tài nguyên thiên nhiên hơn các nước phát triển. Một trong những động cơ của các nhà đầu

tư nước ngoài là nhằm khai thác tài nguyên thiên nhiên rẻ và dồi dào ở các nước tiếp nhận

vốn. Họ có thể khai thác để đem về nước sản xuất hoặc sản xuất thành sản phẩm ngay tại

nước sở tại, có một hình thức khai thác là khai thác những địa điểm du lịch hấp dẫn có sẵn

hoặc đang ở dạng tiềm năng của chúng ta. Nhưng nguồn tài nguyên của chúng ta chỉ có

hạn, nếu cứ khai thác như vậy thì sẽ mau chóng cạn kiệt. Thế hệ sau sẽ không có nguyên

nhiên liệu để sản xuất vì vậy sẽ gặp bất lợi do có thể sẽ phải nhập khẩu nguyên liệu hoặc

21



tốn kém chi phí cho nghiên cứu tìm ra nguyên liệu khác thay thế. Việc này sẽ làm giảm

khả năng phát triển lâu dài của nguồn vốn trong nước.

2.2.2.4 Tình trạng lũng đoạn thị trường của nhà đầu tư nước ngoài và cạnh tranh không cân

sức giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có thể làm

phá sản doanh nghiệp trong nước và gây thất nghiệp.

Một thực tế mà tất cả chúng ta đều có thể dễ dàng nhìn thấy đó là các doanh nghiệp

nước ngoài thường làm ăn có hiệu quả hơn với doanh nghiệp nhà nước là bởi các lý do sau:

-



Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước đang phát triển thường rất hạn



chế bởi đa số các doanh nghiệp đều có quy mô nhỏ và ít vốn. Thêm vào đó là đa số chủ

doanh nghiệp chưa được đào tạo một cách bài bản về kiến thức kinh doanh, quản lý, kinh

tế- xã hội, văn hóa, luật pháp… và kỹ năng quản trị kinh doanh, nhất là kỹ năng trong điều

kiện hội nhập quốc tế. Điều này thể hiện rõ trong việc nhiều doanh nghiệp chưa thực hiện

đúng các quy định về thuế, quản lý nhân sự, quản lý tài chính, chất lượng hàng hóa, sở hữu

công nghiệp…

-



Sự lạc hậu về khoa học- công nghệ của các doanh nghiệp trong nước : Hiện nay đa



số các doanh nghiệp nước ta sử dụng công nghệ lạc hậu so với mức trung bình của thế giới

từ 2 đến 3 thế hệ, trong đó số máy móc hiện đại chiếm tỷ lệ tích lũy thấp. Bên cạnh đó, để

đổi mới công nghệ lại thường chiếm tỷ lệ rất thấp, chỉ chiếm khoảng 0.2 đến 0.5 doanh thu.

-



Hạn chế về khâu nguyên vật liệu và sự yếu kém về thương hiệu các doanh nghiệp.



-



Chiến lược phân phối, chiến lược truyền thông và xúc tiến thương mại của các



doanh nghiệp trong nước còn nhiều hạn chế.

2.2.2.5 Làm chảy máu chất xám sang khu vực có vốn đầu tư nước ngoài

Doanh nghiệp nước ngoài còn cạnh tranh với doanh nghiệp trong nước trong lĩnh

vực thu hút nguồn nhân lực bởi chính sách lương, thưởng và trợ cấp. Thông thường do

được hưởng nhiều ưu đãi và môi trường làm việc tốt hơn mà đa số những người có trình độ

tay nghề cao thường làm trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Việc này đã

làm giảm đáng kể nhân tài cho khu vực trong nước, làm giảm khả năng phát triển của khu

vực này.



22



CHƯƠNG II:

Thực trạng mối quan hệ giữa hai nguồn vốn trong nước và nước

ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế Việt

Nam

I. Nguồn vốn trong nước đóng vai trò quyết định

1. Nguồn vốn trong nước mang tính ổn đinh và bền vững, có thể chủ động trong việc

huy động và sử dụng.

Vốn trong nước được coi là nhân tố nội lực của mỗi quốc gia vì nó mang tính ổn

định và bền vững. Nguồn vốn trong nước có thể chủ động trong việc huy động và sử dụng

mà không chịu sự chi phối của bất kỳ một tổ chức, quốc gia hay chịu sự ràng buộc về

chính trị nào. Nội lực có tốt thì mới phát huy được tốt vai trò của ngoại lực. Thực tế cũng

đã chứng minh, không có một quốc gia nào có thể phát triển bền vững nếu chỉ dựa vào

ngoại lực bên ngoài mà không chú trọng phát huy nội lực.



23



Để không lệ thuộc nước ngoài về kinh tế, Đảng ta luôn xác định nhiệm vụ và giải

pháp quan trọng phát triển kinh tế xã hội là “ huy động tối đa nguồn lực để phát triển kinh

tế xã hội, nhất là nội lực, nguồn lực trong dân và tăng sức thu hút đầu tư nước ngoài, sử

dụng có hiệu quả vốn đầu tư, tăng cường quản lý sử dụng đất đai, đề cao kỷ luật tài chính,

đẩy mạnh thi đua sản xuất, thực hành tiết kiệm, phấn đấu giảm bội chi”. Ở Việt Nam, khu

vực đầu tư trong nước đang ngày càng khẳng định được vai trò quyết định của mình đối

với nền kinh tế và đã đạt được một số thành công nhất định.

Bảng 1: Vốn đầu tư phân theo thành phần kinh tế

Năm

1995

1996

1997

1998

1999

2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

2008

2009



100%

100

100

100

100

100

100

100

100,0

100,0

100,0

100,0

100,0

100,0

100,0

100,0



Nguồn vốn trong nước

Nguồn vốn nước ngoài

69,6

30.4

74,0

26,0

72,0

28,0

79,2

20,8

82,7

17,3

82,0

18,0

82,4

17,6

82,6

17,4

84,0

16,0

85,8

14,2

85,1

14,9

83,8

16,2

75,7

24,3

69,1

30,9

74,5

25,5

Nguồn: Tổng Cục thống kê



Thực tế cho thấy tỷ lệ vốn đầu tư khu vực trong nước luôn chiếm khoảng trên 70%

so với tổng vốn đầu tư toàn xã hội và có xu hướng ngày càng tăng qua các năm. Vốn đầu

tư trong nước chiếm tỷ trọng lớn và ổn đinh như vậy giúp các nhà hoạch định chính sách

dễ dàng hơn trong việc lập quy hoạch phát triển kinh tế xã hội và dự đoán được tốc độ phát

triển của nền kinh tế. Đặc biệt, trong cơ cấu vốn đầu tư, vốn đầu tư của khu vực kinh tế nhà

nước chiếm khoảng 50% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, tăng liên tục từ năm 1995 đến năm

2001 (từ 42.0% lên 59.8%) nhưng đến nay đang có xu hướng giảm dần đồng thời khu vực

kinh tế ngoài nhà nước ngày càng lớn mạnh hơn, chiếm tỷ trọng tăng dần trong tổng vốn

đầu tư toàn xã hội (năm 2007, 2008 vốn đầu tư của khu vực kinh tế ngoài nhà nước đã

24



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

×