Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (458.42 KB, 62 trang )
200
315915
31388
9,94
4256
1,35
7
200
416783
43848
10,52
7275
1,74
8
Nguồn: Tổng cuc thống kê
Đóng góp của các doanh nghiệp FDI vào thu Ngân sách Nhà nước có xu hướng tăng
dần qua các năm trở lại đây. Nguyên nhân là do, các dự án FDI đầu tư vào nước ta đang
dần bước vào giai đoạn phát triển và thu lợi nhuận. Những năm đầu, thu Ngân sách từ khu
vực này chưa cao một phần là do các dự án FDI mới được đầu tư còn đang trong giai đoạn
thực hiện đầu tư nên chưa thu được kết quả. Sau khi hoàn thành giai đoạn thực hiện đầu tư
và đưa vào giai đoạn vận hành kết quả đầu tư nên doanh thu cũng như lợi nhuận tăng, khả
năng đóng góp vào Ngân sách ngày càng tăng. Khu vực FDI đóng một vai trò quan trọng
trong thu Ngân sách. Tuy nhiên, hiện nay, do sự quản lý thiếu chặt chẽ của các cơ quan có
thẩm quyền nên, tỷ lệ thu Ngân sách từ khu vực FDI còn chưa tương xứng với số vốn FDI
đã triển khai tại Việt Nam. Cụ thể, trong 10 năm qua, tổng số vốn triển khai là 48 tỷ USD
trong khi mức bình quân trích nộp Ngân sách hàng năm là 1 tỷ USD/năm. Điều này đưa ra
hoài nghi về tình trạng chuyển giao giá xảy ra ở các doanh nghiệp FDI hiện nay làm thất
thoát nguồn thu của Ngân sách Nhà nước. Vì vậy, cần phải có các biện pháp nâng cao công
tác quản lý, tăng cường các biện pháp kiểm tra để tránh tình trạng các doanh nghiệp lợi
dụng khe hở pháp luật làm lợi không chính đáng nhằm quản lý được nguồn thu tương xứng
từ khu vực FDI cho Ngân sách.
Khó khăn lớn nhất của các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng là
sự thiếu thốn về cơ sở hạ tầng hiện đại . Tuy nhiên do nguồn vốn trong nước không đủ để
đáp ứng nhu cầu xây mới, cải thiện hệ thống cơ sở hạ tầng nên nguồn vốn nước ngoài lúc
này trở nên rất quan trọng, đặc biệt là nguồn vốn ODA. Lượng vốn ODA đầu tư vào Việt
Nam ngày càng tăng đặc biệt là từ năm 2007 trở lại đây, đã giúp nước ta cải thiện đáng kể
kết cấu hạ tầng của nền kinh tế. Năm 2007, tổng mức cam kết của các nhà tài trợ cho Việt
Nam là 4,445 tỷ USD, vượt 700 triệu USD so với năm 2006, trong đó, các nhà tài trợ song
phương cam kết viện trợ cho Việt Nam 2,164 tỷ USD, đa phương 2,101 tỷ USD và từ các
tổ chức phi chính phủ 180 triệu USD. Năm 2008, các nhà tài trợ đã cam kết khoản ODA
41
cho Việt Nam là 5,426 tỷ USD. Tuy năm 2009, lượng vốn cam kết có giảm xuống còn
5,015 tỷ USD nhưng đến năm 2010, lượng vốn cam kết cho Việt Nam đã đạt kỷ lục 7,905
tỷ USD.
Trong số các nhà tài trợ, đáng chú ý nhất là nguồn vốn ODA từ Nhật Bản, và từ
Ngân hàng phát triển châu Á – ADB. Đây là những nhà tài trợ khổng lồ trong tổng hỗ trợ
ODA vào Việt Nam. Cụ thể:
Bảng 6: Cơ cấu nguồn vốn ODA theo chủ thể cho vay qua các năm
Năm
Chủ thể cho vay
Chính
phủ
Tổ chức
tài chính
quốc tế
Nhật Bản
Pháp
Nga
Các nước khác
Tổng
ADB
IDA
IMF
Tổng
2002
2003
30,78
4,99
13,56
12,59
61,91
12,86
19,8
4,18
38,08
33,03
5,95
6,22
11,42
56,62
14,48
24,26
3,21
43,38
2004
2005
2006
34,06
32,69
33,8
6,08
5,6
5,86
5,15
5,31
4,76
10,89
10,94
10,03
56,18
54,54
54,45
14,52
14,75
15,01
25,38
26,81
26,83
2,26
1,75
1,41
43,82
45,45
45,55
Nguồn:Bộ Tài chính 2007
Hàng năm, nguồn hỗ trợ ODA từ Nhật chiếm tỷ trọng rất lớn. Năm 2007, Nhật Bản
đứng thứ ba danh sách hỗ trợ ODA cho Việt Nam với 890 triệu USD. Trong năm 2007,
liên minh châu Âu EU cũng tài trợ cho Việt Nam số vốn rất lớn 948,2 triệu USD. Sang
năm 2008, do sự cố ở công ty PCI, Nhật đã ngừng cung cấp ODA cho Việt Nam làm giảm
đáng kể lượng vốn từ nhà tài trợ này và giảm lòng tin của các nhà tài trợ vào Việt Nam.
Đây chính là bài học đắt giá cho Việt Nam trong việc quản lý và sử dụng nguồn ODA một
cách rõ ràng, chính đáng và hợp lý nhằm tạo lòng tin cho các nhà tài trợ và nâng cao hiệu
quả sử dụng của nguồn vốn này ở nước ta. Tuy nhiên, sau khi đồng ý để Nhật tham gia vào
quản lý nguồn ODA, thì số vốn hỗ trợ từ phía Nhật Bản không những tăng lên mà còn lập
kỷ lục năm 2009 với mức hỗ trợ lên tới 1,63 tỷ USD.
Bên cạnh Nhật, ADB cũng là một nhà tài trợ lớn của Việt Nam. Năm 2007, ADB
đứng đầu danh sách các nhà tài trợ với số vốn lên tới 1,14 tỷ USD. Sang năm 2009, ADB
tài trợ cho Việt Nam với số vốn 1,57 tỷ USD.
42
Nguồn vốn ODA này được ưu tiên đầu tư vào các công trình kết cấu hạ tầng như:
giao thông vận tải, sản xuất và truyền tải điện, thông tin liên lạc, cấp thoát nước… Cụ thể:
Bảng 7: Tỷ trọng vốn ODA phân theo ngành trong các hiệp định đã ký
Đơn vị: %
STT Ngành
1
Năng lượng điện
2
Giao thông vận tải
3
4
5
6
7
Tỷ trọng
27,2
26,8
Tín dụng điều chỉnh cơ cấu
14,2
Nông nghiệp và xóa đói giảm nghèo
10,2
Cấp thoát nước
7,1
Lĩnh vực xã hội
6,8
Các ngành khác
7,8
Nguồn: tổng hợp từ Bộ Kế hoạch & Đầu tư và Bộ Tài chính
Như vậy bằng cách đầu tư phát triển và cải thiện hệ thống kết cấu hạ tầng trong
nước, nguồn vốn ODA đã góp phần tạo động lực thu hút FDI đầu tư vào Việt Nam đặc biệt
là đầu tư vào những khu vực mới, các ngành sản xuất mới.
1.2 Nguồn vốn nước ngoài thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước
Đầu tiên phải kể đến tác động của nguồn vốn nước ngoài vào việc cải tiến kĩ thuật
công nghệ của nền kinh tế thông qua hoạt động chuyển giao công nghệ trong các dự án
FDI. Nhờ đó, năng suất lao động trong nước cũng như tổng sản phẩm quốc dân của nước ta
những năm gần đây đã tăng lên đáng kể.
Xuất phát điểm là một nước nông nghiệp lạc hậu, khoa học kỹ thuật lỗi thời, kém
phát triển, mục tiêu công nghiệp hóa hiện đại hóa là một thách thức lớn đối với Việt Nam
nếu hoàn toàn dựa vào nội lực đất nước tức là nguồn vốn trong nước. Chính vì vậy, FDI
đóng vai trò là cú huých, đưa Việt Nam thoát khỏi “cái vòng luẩn quẩn” nghèo đói ấy. Với
quá trình chuyển giao công nghệ của FDI, cơ cấu kinh tế của nước ta đã có những thay đổi
rõ rệt, tỷ trọng công nghiệp trong GDP tăng, tỷ trọng nông nghiệp giảm, Việt Nam đang
tiến nhanh trên con đường công nghiệp hóa.
43
100%
90%
80%
70%
60%
dịch vụ
50%
công nghiệp
40%
nông nghiệp
30%
20%
10%
0%
1991
1995
2000
2005
2008
2009
Nguồn: tổng cục thống kê
Biểu 4: Cơ cầu tổng sản phẩm quốc dân phân theo khu vực kinh tế
Không chỉ chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành mà cơ cấu kinh tế nước ta hiện
nay cũng đang có những bước chuyển dịch theo vùng đáng kể. Cả nước đã hình thành 6
vùng kinh tế: vùng trung du miền núi phía Bắc, vùng đồng bằng sông Hồng, vùng Bắc
Trung bộ và Duyên hải miền Trung, vùng Tây Nguyên, vùng Đông Nam bộ và vùng đồng
bằng sông Cửu Long. Trong đó có 3 vùng kinh tế trọng điểm là động lực cho sự tăng
trưởng và phát triển kinh tế đất nước.
44
Đồng bằng sông Hồng
0%
2%
4%
19%
46%
1%
27%
Trung du và miền núi
phía Bắc
Bắc trung bộ và duyên
hải miền Trung
Tây Nguyên
Đông Nam bộ
Đồng bằng sông Cửu
Long
Dầu khí
1%
Biểu 5: Cơ cấu đầu tư theo vùng kinh tế
Trước đây, nguồn FDI chủ yếu đầu tư vào những vùng có kinh tế phát triển, đặc
biệt là khu vực Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, TP Hồ Chí Minh… Ngoài ra, những khu vực
nông thôn, các tỉnh thành phố còn chưa phát triển, đang thực sự cần có nguồn FDI đầu tư
vào thì vẫn không được chú ý đến mặc dù nếu đầu tư vào những vùng này dự án được ưu
đãi rất nhiều về thuế, tiền thuê đất…. Nguyên nhân chính xảy ra tình trạng này là do ở các
thành phố lớn, cơ sở hạ tầng phát triển, hệ thống giao thông, thông tin liên lạc thuận lợi,
điện nước đầy đủ nên các doanh nghiệp đầu tư vào vùng này không mất công xây dựng cơ
sở từ đầu, tiết kiệm chi phí vận chuyển… Trong khi đó, vùng nông thôn hoặc các tỉnh
thành chưa xây dựng được kết cấu hạ tầng ban đầu nên khi doanh nghiệp đầu tư vào đây
thì họ buộc phải xây dựng cơ sở hạ tầng từ đầu. Như vậy, khoản ưu đãi mà họ nhận được
cũng không thể hấp dẫn họ đầu tư vào những vùng này. Tuy nhiên, nguồn vốn ODA đầu tư
vào Việt Nam đã giải quyết được phần nào khó khăn về cơ sở hạ tầng cho nước ta.
1.3 nguồn vốn nước ngoài góp phần tạo ra năng lực sản xuất, nâng cao sức cạnh
tranh cho doanh nghiệp trong nước.
Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là khu vực FDI đã cung cấp cho
nước ta nhiều công nghệ mới, hiện đại mà biểu hiện cụ thể nhất ở các ngành viễn thông,
dầu khí, ô tô, xe máy…tạo tiền đề cho sự phát triển của một số ngành công nghiệp mũi
45
nhọn ở nước ta hiện nay. Các doanh nghiệp FDI điển hình như Honda trong lĩnh vực sản
xuất ô tô, xe máy, Intels trong lĩnh vực điện tử,… chính là những người đi đầu trong việc
tạo ra năng lực sản xuất mới cho nền kinh tế đất nước. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp Việt
Nam cũng học hỏi được phương thức quản lý và làm việc của các doanh nghiệp FDI. Cụ
thể, trong các doanh nghiệp có vốn FDI, các cán bộ, nhân viên, kĩ sư người Việt có cơ hội
học hỏi công nghệ quản lý, tác phong làm việc, kĩ năng xử lý công việc của các cán bộ
quản lý nước chủ đầu tư.
Cùng với việc tạo ra năng lực sản xuất mới, các doanh nghiệp FDI còn tạo ra năng
lực cạnh tranh mạnh mẽ cho các doanh nghiệp trong nước. Trước đây, khi chưa có các
doanh nghiệp FDI vào Việt Nam, nền kinh tế nước ta rơi vào tình trạng ảm đạm, thiếu sức
cạnh tranh, các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm và bán ra thị trường không mấy quan tâm
đến chất lượng cũng như giá thành sản phẩm vì người tiêu dung không có nhiều lựa chọn
cho những sản phẩm đó. Nhưng hiện nay, các công nghệ hiện đại của thế giới phát triển,
tạo ra những sản phẩm chất lượng cao, giá thành hợp lý, mẫu mã đẹp trở thành thách thức
đối với các doanh nghiệp trong nước. Khi các doanh nghiệp FDI xuất hiện tại Việt Nam,
sản phẩm của họ được chào đón rộng rãi khiến các doanh nghiệp trong nước phải nhìn lại
chính mình, thay đổi, cải tiến sản xuất, cạnh tranh với sản phẩm của các doanh nghiệp FDI
cũng như những sản phẩm nhập khẩu. Những năm gần đây, các tổ chức kinh tế thế giới
cũng đã nhận thấy rằng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam ngày càng
tăng.
1.4 Nguồn vốn nước ngoài làm cải thiện cán cân thanh toán quốc tế.
Khi chưa có đầu tư nước ngoài, Việt Nam phải nhập khẩu các sản phẩm đòi hỏi
công nghệ cao như ô tô, xe máy, linh kiện điện tử, máy móc…đây là những sản phẩm có
giá trị rất cao. Trong khi đó, sản phẩm xuất khẩu của nước ta lại chủ yếu là các sản phẩm
nông nghiệp, giá trị thấp. Chính vì vậy trong nhiều năm, cán cân thương mại của nước ta
đều trong tình trạng thâm hụt. Nhờ có nguồn vốn đầu tư nước ngoài, kĩ thuật công nghệ
trong nước được cải thiện và đổi mới, nhiều sản phẩm mới được sản xuất ra trong nước,
thay thế hàng nhập khẩu, nhiều sản phẩm khác được sản xuất ra với mục đích xuất khẩu đã
thay đổi cán cân thương mại nước ta, đưa nước ta dần thoát khỏi tình trạng nhập siêu. Kim
46
ngạch xuất khẩu hàng năm tăng lên, kim ngạch nhập khẩu giảm xuống, làm tăng nguồn thu
ngoại tệ từ hoạt động ngoại thương.
Biểu 6: Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa qua các năm
1.5 Nguồn vốn nước ngoài góp phần tạo việc làm cho người lao động Việt Nam
Khi đầu tư vào nước ta, các doanh nghiệp nước ngoài đã tạo ra khối lượng việc làm
khá lớn cho người dân Việt Nam giúp góp phần giải quyết hiệu quả tình trạng thất nghiệp
của lao động trong nước.
47
Biểu 7: Lao động Việt Nam làm việc trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
Đơn vị tính: triệu người
Không chỉ làm tăng lượng việc làm cho lao động trong nước trực tiếp làm việc tại
các doanh nghiệp nước ngoài, nguồn vốn đầu tư nước ngoài còn làm gia tăng nguồn thu
nhập một cách gián tiếp cho các lao động xung quanh khu vực doanh nghiệp đầu tư vào. Ví
dụ như một nhà máy đường được đầu tư thành lập ở một địa phương thì ngoài lượng việc
làm tạo ra cho những công nhân trực tiếp sản xuất trong nhà máy, doanh nghiệp còn tạo ra
thu nhập gián tiếp cho người dân xung quanh đó thông qua việc trồng vùng nguyên liệu
mía để cung cấp cho nhà máy.Thêm vào đó, thu nhập của người lao động trong khu vực có
vốn đầu tư nước ngoài cũng cao hơn thu nhập của người lao động ở khu vực khác trung
bình khoảng 30%.
1.6 Nguồn vốn nước ngoài góp phần thúc đẩy quá trình phát triển đổi mới và hội
nhập Việt Nam vào nền kinh tế thế giới, tham gia vào phân công lao động quốc tế, mở
rộng bạn hàng và thị phần quốc tế
Với sự hỗ trợ của nguồn vốn nước ngoài, nền kinh tế trong nước có những bước
phát triển nhanh chóng, Việt Nam đã dần thoát ra khỏi nhóm nước có thu thấp trên thế
giới, kinh tế nước ta những năm gần đây luôn tăng trưởng với tốc độ cao. Năm 2009, tốc
48
độ tăng trưởng đạt 5,32%, năm 2010, tăng trưởng kinh tế trong 6 tháng đầu năm đạt 6,1%
so với cùng kỳ năm ngoái.
Mặt khác, sự kiện Việt Nam chính thức gia nhâp tổ chức thương mại thế giới WTO
đã đánh dấu một mốc son trong công cuộc đổi mới và hội nhập nền kinh tế của nước ta
hiện nay. Việt Nam đã bắt kịp với xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế thế giới. Sau sự
kiện này, nước ta có cơ hội tiếp cận với những nền kinh tế năng động, khoa học công nghệ
phát triển trên thế giới, từ đó, học hỏi những kinh nghiệm quản lý và áp dụng linh hoạt vào
nền kinh tế trong nước để kinh tế phát triển ngày càng nhanh chóng, ngày càng hợp lý.
2. Hạn chế:
II.1 Nguồn vốn nước ngoài ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của nền kinh tế
nước ta.
Bên cạnh những tác động tích cực đến nền kinh tế thì nguồn vốn nước ngoài cũng
đem đến những ảnh hưởng tiêu cực cho kinh tế nước ta nếu như nguồn vốn nước ngoài
không được quản lý và sử dụng một cách hợp lý.
Các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam đều nhằm mục đích lợi nhuận
do vậy các doanh nghiệp này sẽ luôn tìm mọi cách để tối đa hóa lợi nhuận. Như vậy, để
giảm thiểu chi phí, họ không quan tâm đến các quy trình xử lý chất thải công nghiệp mà xả
thẳng chất thải ra môi trường hoặc xử lý không đúng tiêu chuẩn làm cho môi trường bị ô
nhiễm nặng nề. Trường hợp của công ty Vedan là một điển hình cụ thể. Công ty này đã
không xử lý nước thải mà xả thẳng ra con sông Thị Vải làm ô nhiễm nặng nề nguồn nước ở
đây và ảnh hưởng trực tiếp đến người dân quanh vùng cũng như môi trường sinh thái của
con sông.
Thêm vào đó, các doanh nghiệp nước ngoài ở Việt Nam hiện nay chủ yếu hoạt động
trong những lĩnh vực đòi hỏi nhiều tài nguyên thiên nhiên. Do vậy, hoạt động của các
doanh nghiệp này có nguy cơ làm cạn kiệt nguồn tài nguyên của nước ta vì việc khai thác
quá mức mà không có biện pháp bảo vệ.
Hơn nữa, do chế độ đãi ngộ đối với những lao động có trình độ cao của các doanh
nghiệp nước ngoài tốt hơn các doanh nghiệp trong nước nên dẫn đến việc những lao động
có trình độ tay nghề cao bị thu hút vào khu vực có vốn đầu tư nước ngoài gây ra tình trạng
49
chảy máu chất xám. Thật vậy, chỉ tính riêng về lương, lao động trong khu vực này cũng có
thu nhập cao hơn khu vực khác khoảng 30%. Ngoài ra trong quá trình làm việc, có rất
nhiều chế độ trợ cấp, phụ cấp và thưởng theo doanh thu cho người lao động nếu họ có năng
lực, thái độ làm việc tốt và năng suất lao động cao.
2.2 Nguồn vốn nước ngoài tạo ra áp lực trả nợ cho nguồn vốn trong nước
Trong tổng nguồn vốn hỗ trợ ODA, chỉ có một phần nhỏ là nguồn viện trợ không
hoàn lại, còn phần lớn là nguồn vốn cho vay ưu đãi của các tổ chức, chính phủ nước ngoài.
Vì vậy, đây là một khoản nợ phải trả của chính phủ nước ta. Trong quá trình sử dụng
nguồn vốn này, nếu như việc quản lý vốn không tốt sẽ xảy ra tình trạng lãng phí, thất thoát
khiến cho hiệu quả sử dụng vốn không cao. Sau đó, khi các dự án ODA được đưa vào sử
dụng, nếu hiệu quả đầu tư không cao, việc thu hồi vốn chậm thì sẽ ảnh hưởng đến khả
năng trả nợ của chính phủ nước ta trong thời kỳ các khoản vay đến hạn.
Hiện nay ở Việt Nam, công tác quản lý và sử dụng nguồn ODA chưa thực sự tốt
khiến lòng tin của các nhà tài trợ vào khả năng tài trợ cho nước ta còn chưa cao. Điều này
thể hiện qua tỷ lệ vốn cam kết, vốn ký kết và vốn giải ngân như sau:
6000
5000
Cam kết
3000
Ký kết
Giải ngân
2000
1000
2008
2007
2006
2005
2004
2003
2002
2001
2000
1999
1998
1997
1996
1995
1994
0
1993
Triệu USD
4000
Năm
Biểu 8: Tỷ lệ vốn ODA cam kết, ký kết và giải ngân ở Việt Nam
50
2.3 Gây sức ép với các doanh nghiệp trong nước, làm phá sản các doanh nghiệp
nhỏ
Bên cạnh tác động tích cực đến việc tăng khả năng cạnh tranh của các doanh
nghiệp trong nước thì các doanh nghiệp nước ngoài cũng đồng thời khiến nhiều doanh
nghiệp nhỏ trong nước phải cạnh tranh không cân sức dẫn đến phá sản bộ phận doanh
nghiệp này. Các doanh nghiệp nước ngoài hầu hết là những doanh nghiệp lớn mạnh, có
nguồn vốn lớn, kĩ thuật công nghệ cao, khả năng chịu thua lỗ tạm thời và khủng hoảng tốt.
Vì vậy, các doanh nghiệp này luôn có ưu thế trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Về chất
lượng, sản phẩm ở khu vực này có chất lượng tốt, về giá cả, do dây chuyền sản xuất lớn,
công nghệ mới nên chi phí sản xuất thấp dẫn đến giá cả cạnh tranh. Đây là thách thức lớn
đối với các doanh nghiệp sản xuất nhỏ trong nước.
Thêm vào đó, các doanh nghiệp này đôi khi chịu thua lỗ, bán với giá rẻ, cạnh tranh với các
doanh nghiệp trong nước nhằm làm thâu tóm bộ phận doanh nghiệp này. Với khả năng vốn
lớn, các doanh nghiệp nước ngoài có thế bù đắp được khoản lỗ này, nhưng các doanh
nghiệp trong nước thì do quy mô nhỏ, vốn ít nên không thể cầm cự được lâu trong tình
trạng thua lỗ. Như vậy, các doanh nghiệp nước ngoài có được cơ hội mua lại các doanh
nghiệp phá sản để mở rộng sản xuất và độc chiếm thì trường sản phẩm.
2.4 Ảnh hưởng đến cán cân thương mại quốc gia
Mặt trái của việc cải thiện cán cân thương mại là việc nguồn vốn nước ngoài góp
phần làm thâm hụt cán cân thương mại do một số doanh nghiệp đầu tư vào nước ta đã nhập
khẩu nguyên vật liệu từ nước ngoài nhưng sản phẩm lại tiêu thụ tại thị trường trong nước.
Ví dụ như các doanh nghiệp sản xuất xe máy tại Việt Nam như Honda, Yamaha… các
doanh nghiệp này đều nhập khẩu linh kiện từ nước ngoài về, lắp ráp tại Việt Nam và tiêu
thụ tại thị trường Việt Nam.
51