Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (511.84 KB, 91 trang )
Về thuỷ lợi, vùng miền núi phía Bắc nằm trong khu vực của 4 hệ thống
sông chính là sông Hồng, sông Thái Bình, sông Mã và sông Mê Kông với
nhiều nhánh sông nhỏ, tuy nhiên nguồn nước lại phân bố không đồng đều
về lãnh thổ và theo mùa. Do đó cần đầu tư hệ thống thuỷ lợi cho vùng nhằm
mục đích tạo điều kiện ổn định và phát triển sản xuất nông nghiệp trước hết
là sản xuất lương thực đồng thời góp phần xoá đói giảm nghèo. Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn đã đầu tư các công trình đầu mối như hệ
thống thuỷ nông Hồ Núi Cốc, Hồ Gò Miếu (Thái Nguyên). Những năm qua
nhờ tích cực thực hiện chủ trương xây dựng các công trình thuỷ lợi quy mô
vừa và nhỏ đến nay toàn khu vực đã xây dựng được nhiều hồ chứa nước,
hàng vạn công trình tiểu thuỷ nông ở các xã.
Về cấp nước, cùng với đà tăng dân số và phát triển kinh tế nhu cầu nước
sinh hoạt và phục vụ công nghiệp trong vùng tăng lên nhanh chóng. Đến
nay vùng đã xây đựng và đưa vào sử dụng được hơn 20 nghìn công trình
cấp nước sinh hoạt với dân số được cấp nước sạch gần 1 triệu người. Cùng
với cấp nước ở nông thôn cấp nước sạch cho các đô thị, các điểm trung tâm
thương mại đang phát triển nhanh chóng cũng là vấn đề cần được quan tâm
trong cấp nước ở khu vực này.
4.
Một số tồn tại, khó khăn trong thực hiện xoá đói giảm nghèo
Trong quá trình thực hiện xoá đói giảm nghèo giữa trung ương và địa
phương còn thiếu thông tin qua lại thường xuyên về kế hoạch và tiến trình
thực hiện của các ngành và các địa phương khác. Do đó dẫn đến nhiều
trường hợp chồng chéo hay không ăn khớp trong các hoạt động làm chậm
trễ việc áp dụng các chủ trương chính sách hoặc lãng phí trong đầu tư trong
khi kết quả đạt được thì thấp.
Một trong những vấn đề hết sức quan trọng trong điều hành chỉ đạo
thực hiện các chính sách và định hướng quy hoạch dài hạn là công tác dự
báo phát triển. Nhờ đó có thể hoạch định các chính sách và điều chỉnh các
kế hoạch theo hướng đón đầu các cơ hội. Do tình trạng phát triển kinh tế
53
còn yếu của khu vực nên đến nay sự quan tâm dự báo các vấn đề phát triển
của vùng chưa thực sự được Chính phủ và các ngành trung ương quan tâm
xây dựng. Vì vậy đã làm hạn chế không nhỏ trong khai thác và huy động tối
đa các tiềm năng, lợi thế và các nguồn lực để thực hiện mục tiêu xoá đói
giảm nghèo. Hơn nữa vùng miền núi phía Bắc do kết cấu hạ tầng có nhu
cầu đầu tư lớn, tỷ lệ nghèo đói cao, trình độ dân trí thấp nhưng nguồn lực và
khả năng của cán bộ chưa đáp ứng.
Cùng với vai trò xây dựng và ban hành các chính sách, quyết định đưa vào
thực tế những chủ trương đường lối lớn của Đảng và Nhà nước về xoá đói
giảm nghèo ở vùng núi phía Bắc. Chính phủ còn phải thực hiện công tác kiểm
tra giám sát và đôn đốc các ngành ở khu vực thực hiện các chính sách và quyết
định đó. Tuy nhiên trong những năm qua công tác này chưa được Chính phủ
theo dõi thường xuyên nên đã xảy ra tình trạng một số chính sách chậm đi vào
cuộc sống hoặc một số chương trình dự án đầu tư ở khu vực theo chủ trương
của Nhà nước thì bị thực hiện sai mục tiêu hoặc bị thất thoát vốn. Các địa
phương nhìn chung còn thiếu năng động, sáng tạo trong tổ chức thực hiện các
định hướng dài hạn và các chủ trương xoá đói giảm nghèo trên địa bàn mình
quản lí. Một số nơi vẫn còn tâm lí trông chờ ỷ lại vào Chính phủ, cứng nhắc
trong thực hiện các mục tiêu kế hoạch và chủ trương đề ra mà còn chưa nhạy
bén với tình hình mới. Chưa thực sự thực hiện tốt nhiệm vụ với vai trò là tuyến
quản lí nhà nước ở cơ sở để đề bạt các sáng kiến mới về cơ chế chính sách nên
trung ương giúp Chính phủ và các ngành trung ương đổi mới hơn trong công
tác hoạch định và chỉ đạo thực hiện xoá đói giảm nghèo ở vùng miền núi phía
Bắc nói riêng và cả nước nói chung.
Do những tồn tại trong công tác chỉ đạo của trung ương và địa phương
nên một số quy định còn có điểm vướng mắc, khó tổ chức thực hiện. Một số
chính sách ban hành hiệu quả thực thi chưa cao, chưa tạo cho người nghèo
ở một số địa phương có khả năng tiếp cận chương trình xoá đói giảm nghèo
như: chính sách cho vay vốn ưu đãi người nghèo, chính sách khám chữa
54
bệnh, chính sách hỗ trợ con em nghèo trong giáo dục đào tạo. Sự phối hợp,
kết hợp lồng ghép các chương trình và nguồn kinh phí trên cùng một địa
bàn chưa chặt chẽ, dẫn đến lãng phí và thất thoát quỹ xoá đói giảm nghèo.
Trình độ và kiến thức sản xuất cuả một bộ phận người nghèo còn thấp,
hạn chế đến việc tiếp thu tiến bộ mới về giống, công nghệ sản xuất và tiếp
cận vốn cho vay ưu đãi. Một hạn chế trong công tác xoá đói giảm nghèo
nữa là đội ngũ cán bộ làm công tác xoá đói giảm nghèo còn thiếu về số
lượng, yếu về chất lượng, kém về kiến thức, kinh nghiệm tổ chức thực hiện.
CHƯƠNG III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO CHO CÁC
TỈNH MIỀN NÚI PHÍA BẮC
I.
PHƯƠNG HƯỚNG, MỤC TIÊU VÀ QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO THỰC
HIỆN XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO ĐẾN NĂM 2005
Từ hội nghị trung ương lần thứ 5 (khoá VII) Đảng ta đã chủ trương xoá
đói giảm nghèo trong chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn cũng
như trong chiến lược phát triển chung của xã hội. Văn kiện đại hội lần thứ
VIII của Đảng một lần nữa đã nhấn mạnh tầm quan trọng đặc biệt của công
tác xoá đói giảm nghèo, đã xác định phải nhanh chóng đưa các hộ nghèo
thoát ra khỏi hoàn cảnh túng thiếu hiện nay và sớm hoà nhập với sự phát
triển chung của đất nước. Do đó chúng ta phải tiến hành công tác xoá đói
giảm nghèo với hiệu quả kinh tế xã hội tốt hơn theo phương hướng và mục
tiêu đúng đắn, xác thực với quan điểm đổi mới và sáng tạo cùng những
phương pháp thích hợp.
1.
Phương hướng:
Phương hướng xoá đói giảm nghèo ở nước ta nói chung và các tỉnh
miền núi phía Bắc nói riêng trong thời gian tới là: “Phát triển sản xuất, phát
triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, giải quyết nhu cầu xã hội về việc
làm, thu nhập, đời sống xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đảm bảo
những điều kiện và chính sách sao cho tăng trưởng kinh tế phục vụ lợi ích
55
cộng đồng, đem lại lợi ích ngày càng nhiều hơn cho người lao động, đời
sống vật chất và tinh thần được cải thiện theo mục tiêu ngày càng phát
triển”. Phương hướng này có điểm mấu chốt là phát triển sản xuất và thực
hiện công bằng xã hội. Tiếp đó, Đảng ta cũng chỉ rõ : “Thực hiện tốt
chương trình xoá đói giảm nghèo nhất là đối với vùng căn cứ cách mạng, và
đồng bào dân tộc thiểu số. Xây dựng và phát triển quỹ xoá đói giảm nghèo
bằng nhiều nguồn vốn trong và ngoài nước, quản lý chặt chẽ đầu tư đúng
đối tượng và có hiệu quả. Tổ chức tốt đời sống xã hội trên từng địa bàn
trong điều kiện thu nhập bình quân đầu người còn thấp vẫn tạo một cuộc
sống khá hơn cho nhân dân. Mở rộng diện các xã có điện, đường, trường
học, trạm y tế, có nước sạch…”.
Như vậy, giải quyết đói nghèo, không chỉ đơn thuần trong kinh tế mà
phải liên kết kinh tế –xã hội. Xoá đói giảm nghèo không thể thụ động bằng
các biện pháp nhất thời hoặc thuần tuý cứu trợ. Về cơ bản phương hướng
xoá đói giảm nghèo phải tìm thấy ở sản xuất gốc rễ của xoá đói giảm nghèo
và phát triển bền vững. Mặt khác, đói nghèo ở nước ta lại xuất phát từ hai
nguyên nhân: nó vừa là hậu quả của nghèo nàn lạc hậu, lại vừa là hậu quả
của phân hoá trong nền kinh tế thị trường hiện nay, nên các biện pháp xoá
đói giảm nghèo cũng cần phải đồng bộ để giải quyết triệt để đói nghèo.
2.
Mục tiêu
Để thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo cần phải thực hiện các mục
tiêu về phúc lợi xã hội vì các mục tiêu này đều có liên quan đến tình hình
nghèo đói ở nước ta.
Giải quyết các vấn đề xã hội luôn là mối quan tâm lớn của Đảng và
Nhà nước ta, mục tiêu tổng quát về xã hội đến năm 2020 là ở nước ta sẽ
không còn gia đình nào sống trong tình trạng nghèo khổ, mỗi người dân đều
có cuộc sống no đủ, có mức hưởng thụ khá về văn hoá và sánh vai với các
nước trong khu vực và trên thế giới. Để thực hiện mục tiêu tổng quát này
cần thực hiện các mục tiêu :
56