Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (511.84 KB, 91 trang )
bình giới hạn đói nghèo nằm ở mức cao đối với khu vực thành thị:
1.293.000 đồng/người/năm so với 1.040.000 đồng/người/năm ở khu vực
nông thôn. Với giới hạn đói nghèo này khoảng 51% dân số Việt nam được
xếp vào diện đói nghèo. (Việt Nam nghèo đói và chiến lược, Ngân hàng thế
giới, tháng 1-1995)
1.2. Tiêu chuẩn đói nghèo do Bộ LĐTBXH công bố:
Bộ Lao động Thương binh và xã hội là cơ quan thuộc Chính phủ được
nhà nước giao trách nhiệm nghiên cứu và công bố chuẩn mực đói nghèo của
cả nước qua từng thời kì.
Trước đây theo thông báo số 1751/LĐTBXH ngày 20 tháng 5 năm
1997 của Bộ Lao động Thương binh và xã hội đưa ra như sau:
- Hộ đói: là hộ có mức thu nhập bình quân một người trong hộ một
tháng quy ra gạo dưới 13 kg tương đương 45 nghìn đồng (tính chung cho
mọi vùng).
- Hộ nghèo: là những hộ có mức thu nhập bình quân quy ra gạo:
+ Vùng nông thôn, miền núi, hải đảo: dưới 15 kg/người/tháng (tương
đương 55 nghìn đồng).
+ Vùng nông thôn đồng bằng, trrung du: dưới 20 kg/người/tháng
(tương đương 70 nghìn đồng).
+ Vùng thành thị dưới 25 kg/người/tháng (tương đương 90 nghìn
đồng).
Chuẩn mức đói nghèo này là mức tối thiểu (xét trên phạm vi cả nước),
tuỳ thuộc vào điều kiện của từng địa phương có thể đưa chuẩn mức đói
nghèo cao hơn quy định trên nhưng phải đáp ứng điều kiện của thông báo
số1751/LĐTBXH đó là:
+ Thu nhập bình quân đầu người cao hơn thu nhập trung bình của cả
nước.
13
+ Có tỷ lệ hộ đói nghèo thấp hơn tỷ lệ đói nghèo trung bình của cả
nước.
+ Tự cân đối được ngân sách và tự giải quyết được các chính sách đói
nghèo theo chuẩn mực nâng lên.
Theo chuẩn mực đói nghèo này, đến hết năm 1998 cả nước còn
khoảng 2,5 triệu hộ (khoảng 12,5 triệu người), đói nghèo chiếm tỷ lệ 15,7%
trong đó có 300.000 hộ thường xuyên thiếu đói. Đến năm 2000 thì tỷ lệ đói
nghèo giảm xuống còn 11,4%.
- Xã nghèo là xã bao gồm các đặc trưng sau:
+ Tỷ lệ hộ đói nghèo chiếm trên 40% số hộ trong xã.
+ Thiếu các cơ sở hạ tầng, đường giao thông, trạm điện, trường tiểu
học, trạm y tế, nước sạch sinh hoạt.
Nay có sự thay đổi chuẩn mực đói nghèo của Việt nam vào cuối năm
2000, thông qua quyết định số 1143/2000 QĐ-LĐTBXH. Quy định chuẩn
mực đói nghèo như sau:
- Hộ nghèo:
+ Vùng nông thôn miền núi hải đảo: 80.000 đồng/tháng.
+ Vùng nông thôn đông bằng 100.000 đồng/tháng.
+ Vùng thành thị 150.000 đồng/tháng.
- Xã nghèo là xã có tỷ lệ hộ nghèo từ 25% trở lên theo tiêu chuẩn
nghèo và chưa đủ cơ sở hạ tầng thiết yếu. Theo tiêu chuẩn mới này năm
2000 cả nước còn 1,5 triệu hộ nghèo khoảng 7,5 triệu người, chiếm tỷ lệ
17% trong đó hộ thường xuyên thiếu đói chiếm gần 11% tổng số hộ trong
cả nước. Về cơ sở hạ tầng đã có trên 90% xã có đường ô tô đến trung tâm
xã, 80% xã có đủ trường lớp học bậc tiểu học, 98% xã có trạm y tế, 80% có
14
hệ thống công trình thuỷ lợi, 50% số hộ được sử dụng nước sạch, 85% xã
có nguồn điện sinh hoạt đến trung tâm xã, 70% xã có chợ.
Mục tiêu nước ta đến năm 2005: giảm tỷ lệ hộ đói nghèo xuống dưới
10%, trung bình mỗi năm giảm 1,5-2% khoảng 28-30 vạn hộ/năm, không
để đói kinh niên. Xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu cho các xã nghèo như
thuỷ lợi nhỏ, trường học, trạm y tế, đường dân sinh, điện nước sinh hoạt,
chợ... Hàng năm tạo việc làm cho 1,4-1,5 triệu lao động giảm tỷ lệ sử dụng
thời gian lao động nông thôn lên 80%.
Để đạt được điều đó, cần có mục tiêu cụ thể: trang bị kiến thức, nâng
cao dân trí cho các hộ đói nghèo để họ áp dụng thiết bị kĩ thuật trong sản
xuất kinh doanh, nâng cao năng suất cây trồng vật nuôi, tăng thu nhập, đồng
thời bảo vệ môi trường sinh thái.
2.
Đặc điểm của các hộ nghèo ở Việt nam:
2.1. Nghề nghiệp, tình trạng việc làm và trình độ học vấn:
2.1.1. Người nghèo chủ yếu là những người nông dân:
Trong giai đoạn 1993 đến năm 1998 đã có sự thay đổi dần dần về tỷ lệ
dân cư tính theo nhóm nghề nghiệp. Tỷ trọng những hộ có chủ hộ làm việc
trong các ngành nông nghiệp, chế tạo và xây dựng đã giảm đi chút ít và tỷ
trọng các hộ có chủ hộ làm việc trong các căn phòng hay dịch vụ bán hàng
tăng lên không đáng kể. Mức nghèo ở Việt nam giảm chủ yếu do tỷ lệ
người nghèo trong tong nhóm nghề nghiệp giảm đi chứ không phải do có sự
chuyển dịch trong cơ cấu nghề nghiệp.
Bảng 1: Tình trạng nghề nghiệp và việc làm của người nghèo năm 1998
Tỷ lệ nghèo %
15
tổng số dân số
nghèo (%)
Nghề nghiệp chính:
Tỷ lệ trong
tổng số người
Đặc điểm
Tỷ lệ trong
%
-Nông nghiệp
48
79
61
-Chế tạo
26
9
13
-Dịch vụ bán hàng
13
3
9
-Nhân viên văn phòng
10
2
7
-Nghề khác
6
0
1
-Nghỉ hưu
26
4
6
-Những người khác không làm
30
3
4
37
100
100
việc
Tổng cộng
Nguồn: VLSS 98, Tổng cục thống kê (1999)
Theo kết quả nghiên cứu cho thấy đói nghèo là một hiện tượng mang tính
đặc thù của nông thôn, các tính toán về tỷ lệ nghèo theo nghề nghiệp và theo
loại chủ lao động cũng chỉ ra rằng những người sống ở dưới ngưỡng nghèo
thường là thành viên của hộ có chủ hộ là nông thôn tự do. Trong năm 1998 gần
80% người nghèo làm việc trong nông nghiệp và là những người lao động tự
do.
Khả năng có được một dạng thu nhập ổ định nào đó từ công ăn việc
làm hay từ các khoản chuyển nhượng của phúc lợi xã hội được xem là một
chỉ tiêu vô cùng quan trọng để đánh giá mức sống của các hộ. Phần lớn các
hộ nghèo được phỏng vấn đều có lao động chính trong gia đình làm việc
trong các khu vực không chính thức và do vậy các hộ này sống dựa vào
những khoản thu nhập rất bất thường.
2.1.2. Người nghèo thường có trình độ học vấn thấp, thiếu kĩ năng làm việc
và thông tin:
Tỷ lệ nghèo giảm xuống khi trình độ học vấn tăng lên và gần 90% số
nghèo là những người chỉ có trình độ phổ thông cơ sở hoặc thấp hơn.
16