1. Trang chủ >
  2. Khoa học xã hội >
  3. Văn hóa - Lịch sử >

Đặc điểm của các hộ nghèo ở Việt nam:

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (511.84 KB, 91 trang )


-Nông nghiệp



48



79



61



-Chế tạo



26



9



13



-Dịch vụ bán hàng



13



3



9



-Nhân viên văn phòng



10



2



7



-Nghề khác



6



0



1



-Nghỉ hưu



26



4



6



-Những người khác không làm



30



3



4



37



100



100



việc

Tổng cộng



Nguồn: VLSS 98, Tổng cục thống kê (1999)

Theo kết quả nghiên cứu cho thấy đói nghèo là một hiện tượng mang tính

đặc thù của nông thôn, các tính toán về tỷ lệ nghèo theo nghề nghiệp và theo

loại chủ lao động cũng chỉ ra rằng những người sống ở dưới ngưỡng nghèo

thường là thành viên của hộ có chủ hộ là nông thôn tự do. Trong năm 1998 gần

80% người nghèo làm việc trong nông nghiệp và là những người lao động tự

do.

Khả năng có được một dạng thu nhập ổ định nào đó từ công ăn việc

làm hay từ các khoản chuyển nhượng của phúc lợi xã hội được xem là một

chỉ tiêu vô cùng quan trọng để đánh giá mức sống của các hộ. Phần lớn các

hộ nghèo được phỏng vấn đều có lao động chính trong gia đình làm việc

trong các khu vực không chính thức và do vậy các hộ này sống dựa vào

những khoản thu nhập rất bất thường.

2.1.2. Người nghèo thường có trình độ học vấn thấp, thiếu kĩ năng làm việc

và thông tin:

Tỷ lệ nghèo giảm xuống khi trình độ học vấn tăng lên và gần 90% số

nghèo là những người chỉ có trình độ phổ thông cơ sở hoặc thấp hơn.



16



Những người thậm chí còn chưa hoàn thành chương trình giáo dục tiểu học

có tỷ lệ nghèo cao nhất 57%. Ngược lại rất hiếm có trường hợp đã tốt

nghiệp đại học lại thuộc diện đói nghèo (chỉ chiếm 4%).

Bảng 2: Trình độ học vấn của người nghèo.

Đặc điểm



Tỷ lệ nghèo %



Tỷ lệ tính trong tỷ

số người nghèo %



Tỷ lệ trong tổng

dân số %



Không đi học



57



12



8



Tiểu học



42



39



35



Phổ thông cơ sở



38



37



36



Phổ thông trung học



25



8



12



Dạy nghề



19



3



6



Đại học



4



1



3



Tổng cộng



37



100



100



Nguồn: VLSS 98, Tổng cục thống kê 1999

Bản thân các hộ nghèo cũng hiểu được rằng trình độ học vấn là chìa

khoá quan trọng để thoát khỏi đói nghèo. Tuy nhiên các nghiên cứu đó cũng

chỉ ra rằng những vấn đề lớn lên quan đến việc tiếp thu các kĩ năng, các

kiến thức chung và ứng dụng vào việc có được xếp vào các nhóm khá giả

hơn nếu những người trưởng thành trong gia đình có trình độ học vấn nhất

định và hoặc trẻ em trong gia đình được đi học.

2.2. Đặc điểm về nhân khẩu học:

2.2.1. Các hộ nghèo thường có nhiều trẻ em:

Các hộ có nhiều trẻ em thường được các hộ khác coi là nghèo. Những

hộ này không chỉ có ít lao động hơn so với số miệng ăn trong gia đình mà

còn phải trả các chi phí khám chữa bệnh gây bất ổn định cho kinh tế gia

đình. Qua bảng số liệu cho thấy tỷ lệ trẻ em trên mỗi người lao động cao

nhất đối với nhóm hộ chi tiêu nghèo nhất và tỷ lệ này giảm dần khi mức chi

tiêu bình quân đầu người tăng lên.



17



Bảng 3: Số trẻ em dưới 15 tuổi theo hộ gia đình (%)

Nhóm chi tiêu

I(nghèo nhất)



II



III



IV



V(giàu nhất)



Việt Nam



2,8



2,2



1,7



1,4



1,2



Nông thôn



2,8



2,2



1,8



1,4



1,3



Thành thị



2,7



2,9



1,6



1,3



1,1



Nguồn: Ngân hàng thế giới ước tính dựa trên số liệu của VLSS 98

Tuy nhiên có thể các số liệu này đã đánh giá quá mức tác động của

quy mô gia đình đối với tình trạng đói nghèo. Bởi khi xét mức chi tiêu bình

quân đầu người chúng ta đã giả định rằng nhu cầu của các thành viên gia

đình là như nhau và không tính đến những khác biệt trong nhu cầu tiêu

dùng của trẻ nhỏ và thiếu niên, cũng như chưa xem xét đến tính kinh tế theo

quy mô trong tiêu dùng ở những hộ đông. Tuy một phần của vấn đề đói

nghèo đối với những hộ có trẻ em chỉ đơn thuần là vấn đề chu kì sống

nhưng chúng ta vẫn còn quan tâm đến khả năng dễ bị tổn thương của các hộ

này khi chi phí về y tế, giáo dục tăng lên. Các hộ nghèo thường con thôi học

trong những lúc gia đình gặp khó khăn hoặc lâm vào khủng hoảng và điều

này không có gì đáng ngạc nhiên. Ba phần tư số hộ trong nhóm hộ nghèo

nhất thường không có đủ khả năng chi trả để có được 2100 đơn vị calo/ngày

và bất cứ khoản chi tiêu nào để mua sắm các mặt hàng khác không phải

lương thực thực phẩm đòi hỏi phải giảm dinh dưỡng của gia đình.

2.2.2. Các hộ mới tách ra khỏi gia đình bố mẹ và trở thành hộ mới, trong

giai đoạn đầu thường trải qua đói nghèo do thiếu đất:

Cũng giống như các hộ có nhiều trẻ em, đói nghèo trong trường hợp

này phần nào là vấn đề của chu kỳ cuộc sống gia đình và sẽ giảm dần theo

thời gian khi các hộ bắt đầu có thu nhập dư thừa, mua sắm thêm tài sản, tạo

lập cách kiếm sống ổ định và có thu nhập khá hơn.



18



Tuy nhiên khả năng phát triển kinh tế gia đình một cách ổ định của các

hộ mới lập này đang ngày càng bị bó hẹp vì họ chỉ được phân cho những

mảnh đất nhỏ hơn với chất lượng thấp hơn.

2.2.3. Những hộ mất đi một thành viên gia đình đã trưởng thành thì đặc

biệt dễ bị tổn thương:

Những hộ bị mất đi lao động trưởng thành do bị chết, bỏ gia đình hoặc

tách ra khỏi hộ thường được cộng đồng xếp vào những nhóm hộ đói nghèo

nhất.

2.3. Khả năng có được các nguồn lực:

2.3.1. Tình trạng thiếu đất ngày càng gia tăng và các hộ nghèo thường có ít

đất hơn:

Các hộ nghèo coi diện tích đất và chất lượng đất là yếu tố quan trọng

quyết định đến mức sống. Các hộ khác thường xem các hộ nông thôn nghèo

là những hộ có đất đai ít hoặc chất lượng kém nên không đáp ứng được nhu

cầu tiêu dùng của những hộ này.

Ví dụ: ở Lào Cai các hộ nghèo có thể có đủ đất đai song đất này

thường nằm quá cách xa, dẫn đến việc đồng áng đòi hỏi phải có nhiều lao

động hơn số lao động hiện có trong hộ. Cơ cấu đất đai của hộ thường khác

nhau tuỳ theo từng thôn tuy nhiên hộ nghèo thường có tỷ lệ phần đất ỏ

Trung du đồi lớn hơn so với đất trồng được lúa và đất được chia cũng

thường dốc hơn và nằm ở xa hơn.

Bảng 4: Phần trăm các hộ ở nông thôn không có đất chia hoặc đất

nương rẫy (%)

Vùng



1993



1998



S đất trung bình năm 1998



Miền núi phía Bắc



2,0



3,7



8890



Đồng bằng sông Hồng



3,2



4,5



6491



Bắc Trung Bộ



3,8



7,7



5001



19



Duyên hải miền Trung



10,7



5,1



5180



Tây nguyên



3,9



2,6



13746



Đông Nam Bộ



21,3



28,7



13712



Đồng bằng sông Cửu Long



16,9



21,3



10650



Cả nước



8,2



10,1



8148



Nguồn: Ngân hàng thế giới ước tính dựa trên số liệu của VLSS 98

2.3.2. Các hộ nghèo thường bị rơi vào vòng nợ nần luẩn quẩn:

Các hộ nghèo thường rơi vào tình trạng nợ nần do phải đi vay để trang

trải các khoản chi tiêu khẩn cấp như chi phí cho y tế, hoặc phải đi vay để

đầu tư vào một vụ kinh doanh bị thất bại.

2.4. Nguy cơ dễ bị tổn thương và sự cô lập:

2.4.1. Người nghèo đặc biệt là trẻ em nghèo cảm thấy rất dễ bị tổn thương:

Nguy cơ dễ bị tổn thương bởi những khó khăn theo thời vụ bởi đột

biến xảy ra với hộ gia đình và những cuộc khủng hoảng xảy ra với cộng

đồng là một khía cạnh quan trọng của đói nghèo. Những hộ nghèo ít vốn

hoặc ít đất đai (hoặc cả hai) và những hộ chỉ có khả năng trang trải được

các chi tiêu lương thực và phi lương thực thiết yếu khác đều rất dễ bị tổn

thương trước mọi biến cố khiến họ phải bỏ thêm chi phí hoặc bị giảm thu

nhập. Thông thường một thành viên của gia đình ốm vẫn được xem như là

một biến cố nghiêm trọng nhất làm đảo lộn sinh hoạt của gia đình và phải

hằng năm sau các hộ mới có thể phục hồi lại được. Các hộ nghèo nhất phải

dành khoảng 30% chi tiêu phi lương thực cho chi phí y tế. Một vụ mùa thất

bát hoặc một khoản đầu tư không thành công cũng có thể gây ra sự căng

thẳng về mặt kinh tế cho các hộ gia đình.

Tình trạng không an toàn không chỉ đơn thuần là vấn đề kinh tế. Do

thiếu thông tin về các quy hoạch phát triển đô thị và giải phóng mặt bằng

nên nhiều hộ không thể biết được thời gian họ còn được phép sống trên khu

20



vực cư trú hiện tại. Các đường dây cáp điện treo thấp cũng là nguy cơ đe

doạ an toàn thể chất và vật chất và có thể gây ra hoả hoạn.

Tệ nạn ma tuý ngày càng gia tăng cũng là nỗi lo lắng của các hộ gia

đình phần nhiều là bởi nó kéo theo sự gia tăng các loại hình tội phạm khác.

Có lẽ những trẻ em nghèo đặc biệt là trẻ em ở thành phố, đang phải sống

trong cảm giác không an toàn.

2.4.2. Các hộ nghèo có cảm giác bị cô lập về xã hội:

Qua phân tích phản ứng và cách thức chống chọi của các hộ nghèo

trong những thời điểm khó khăn của các hộ nghèo chúng ta thấy rằng các

mạng lưới hỗ trợ phi chính thức có vai trò đặc biệt quan trọng đối với các

hộ nghèo. Ở các làng, vùng sâu, vùng xa, vùng cao mức độ quan hệ xã hội

khác nhau và được đặc trưng bởi các quan hệ hỗ trợ tương hỗ. Do các làng

này khá tương đồng về các điều kiện kinh tế-xã hội nên các hộ luôn luôn

sẵn sàng tình nguyện giúp đỡ người khác khi có khả năng vì trong tương lai

có thể họ cũng phải cần đến sự giúp đỡ tương tự. Điều này có thể bù được

phần nào những bất lợi của cuộc sống ở vùng sâu, vùng xa. Ở những địa

bàn thuộc trung du và đồng bằng tuy vẫn có những hỗ trợ khẩn cấp song

thông thường là bằng tiền và thường tốn kém hơn. Ở các làng bản vùng

trung du và đồng bằng các mối quan hệ xã hội xuất hiện được xem như là

một yếu tố quyết định mức sống của các hộ gia đình. Các hộ có quan hệ xã

hội tốt, gần gũi với chức lãnh đạo địa phương thường có vị thế tốt để tiếp

cận với các chương trình và dịch vụ hỗ trợ của Chính phủ. Một số nhóm hộ

nghèo đã cho biết họ có cảm giác bị cách biệt về xã hội với thế giới rộng

lớn bên ngoài và với các tổ chức đại diện cho họ và phục vụ họ. Một số lý

do bị cô lập liên quan đến dân tộc: Những khác biệt về ngôn ngữ và văn hoá

cùng những khó khăn lớn về khả năng tiếp cận về địa lí làm những người

dân tộc ít người có quan hệ giao lưu rất hạn chế với thế giới bên ngoàI và

hầu như không có điều kiện tiếp xúc với những sáng kiến hay, những thông



21



tin mới. Ngoài ra việc bị cô lập cũng chứa đựng trong nó yếu tố về giới.

Công việc của phụ nữ bận rộn vất vả hơn nhiều so với nam giới và do đó họ

ít có cơ hội tiếp xúc với xã hội, học hỏi và tham dự các cuộc họp của làng.

Điều nay làm tăng thêm sự chênh lệch. Ở Việt Nam người đàn ông thường

đóng vai trò là người đại diện cho gia đình trong các cuộc họp của làng và

các công việc xã hội. Và bản thân các hộ nghèo cũng luôn cảm thấy xa lạ

trước những quyết định có liên quan đến họ.

2.4.3. Các hộ nghèo nằm ở vị trí địa lí cách biệt và bên lề xã hội:

Các số liệu thu thập được từ bảng câu hỏi xã trong điều tra mức sống

dân cư cho thấy hầu hết dân sống ở các làng xã có điều kiện đi lại được. Chỉ

có 4% sống ở các làng bản xa đường giao thông (hơn 5 km) hoặc có đường

giao thông nhưng việc đi lại khó khăn (không đi lại trong vòng 3 tháng hoặc

hơn trong 1 năm) và không có đường thuỷ thay thế. Tuy nhiên trong số 4%,

tỷ lệ người nghèo nhiều gấp hơn 2 lần so với nhóm người còn lại.

Mặc dù các làng nhìn chung đều có mạng lưới đường bộ và đường

thuỷ song việc được sử dụng các dịch vụ giao thông lại là một vấn đề phức

tạp. Hơn 12% người dân sống trong các làng không có điều kiện sử dụng

giao thông cơ giới (kể cả giao thông công cộng và xe cộ thuê ngoài). Giữa

mức sống và khả năng được sử dụng các dịch vụ giao thông vận tải chỉ ra

rằng có quan hệ tỷ lệ nghịch rõ rệt: số những người không được sử dụng các

dịch vụ giao thông vận tải thuộc nhóm hộ nghèo nhất nhiều gấp 5 lần so với

những hộ thuộc nhóm giàu nhất. Ở các làng không có giao thông cơ giới, tỷ

lệ người nghèo nhiều gấp 1,5 lần so với làng có hệ thống giao thông. Như

vậy những kết qủa điều tra này cho thấy cần tập trung vào việc cung cấp các

dịch vụ giao thông vận tải và điều này quan trọng hơn so với việc xây dựng

cơ sở hạ tầng ở các vùng nghèo.

Bảng 5: Tỷ lệ người không có điều kiện sử dụng giao thông cơ giới phân

theo nhóm chi tiêu.



22



Nhóm chi tiêu

Inghèo nhất II



Tổng



III



IV



Vgiàu nhất



19,1



14,5



7,5



Số



Tỷ lệ người không được

sử dụng giao thông cơ 37,5

giới công cộng hoặc tư



21,3



100



nhân %



3.



Nguyên nhân đói nghèo:



3.1 Nguyên nhân nghèo đói ở Việt Nam.

Nguyên nhân đói nghèo là sự đan xen, thâm nhập vào nhau của tất cả các

yếu tố ngẫu nhiên và tất nhiên, cả cái cơ bản và tức thời, cả nguyên nhân sâu

xa lẫn nguyên nhân trực tiếp cả nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan, tự

nhiên lẫn kinh tế xã hội. Quy tụ lại gồm có 4 nhóm nguyên nhân chủ yếu sau:

Nhóm 1: Nhóm nguyên nhân khách quan, tức là nhóm nguyên nhân do

điều kiện tự nhiên xã hội. Những nguyên nhân khách quan về mặt tự nhiên

như: đất đai canh tác ít, đất đai cằn cỗi, ít màu mỡ, khó canh tác, năng suất

cây trồng vật nuôi đều thấp, thời tiết khí hậu không thuận lợi cho sản xuất,

xa xôi hẻo lánh địa hình phức tạp, giao thông khó khăn... (như ở các tỉnh

vùng núi phía Bắc, Tây nguyên và khu bốn cũ). Mỗi năm Việt nam phải

chịu đựng 10 cơn bão lụt thiệt hại rất lớn về người và của, năm 1996 tổng

số thiệt hại lên đến 8.000 tỷ đồng, năm 1998 thiệt hại lên tới 1.500 tỷ đồng.

Bên cạnh đó còn có khách quan về mặt xã hội như sự quan tâm của xã hội

đối với người nghèo, hậu quả chiến tranh để lại...

Nhóm 2: Nhóm nguyên nhân chủ quan, đây là nguyên nhân do bản

thân con người lao động chủ yếu là: thiếu hoặc không có vốn, thiếu kiến

thức kinh nghiệm làm ăn, đông con, thiếu lao động, rủi ro, ốm đau.



23



Nhóm 3: Nhóm nguyên nhân do thiếu thị trường. Đối với người nghèo

tất cả mọi biện pháp cứu trợ có giá trị nhất thời không thể làm thay đổi hoàn

cảnh đói nghèo kinh niên. Điều quan trọng để tự họ vượt lên qua đói nghèo

là đẩy mạnh sản xuất, tăng thu nhập. Muốn vậy phải có thị trường cung cấp

vật tư nông nghiệp, nguyên vật liệu cũng như thị trường tiêu thụ nông sản.

Nhóm 4: Nhóm nguyên nhân thuộc về cơ chế chính sách thiếu hoặc

không đồng bộ về chính sách đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng cho các khu vực

khó khăn, chính sách khuyến khích sản xuất, vốn tín dụng, hướng dẫn cách

làm ăn, khuyến nông lâm ngư, chính sách trong giáo dục đào tạo y tế giải

quyết đất đai định canh định cư, kinh tế mới và nguồn đầu tư còn hạn chế.

3.2. Nguyên nhân nghèo đói ở các tỉnh miền núi phía Bắc.

Vùng miền núi phía Bắc có những nguyên nhân đặc trưng sau:

Thứ nhất đó là do địa hình bị chia cắt và phần đa là dốc, nguồn nước

thiếu trong mùa khô. Mặc dù vùng miền núi phía Bắc chiếm diện tích 1/3 cả

nước nhưng chủ yếu là đồi núi, đất nông nghiệp ít: bình quân trên người

bằng 1182 m2 (so với bình quân toàn quốc bằng 96,2%).

Thứ hai do lịch sử để lại đến nay tài nguyên môi trường sống bị huỷ

hoại nghiêm trọng, hệ thống cơ sở hạ tầng còn kém phát triển, đặc biệt là

giao thông vận tải và thông tin liên lạc. Nên sự tiêu thụ sản phẩm khó.

Thứ ba là trình độ dân trí và kĩ thuật sản xuất của một bộ phận đáng

kể dân cư còn hạn chế ảnh hưởng tới năng suất và hiệu quả lao động đặc

biệt là vùng cao vùng xa.

4.



Xu hướng đói nghèo ở Việt Nam.

Cho dù được tính toán đo đạc như thế nào thì tỷ lệ nghèo ở Việt nam



đã giảm đi trong thời gian qua. Kết quả đó được thể hiện về mặt định lượng

bằng chi tiêu tính trên đầu người cao hơn, những chỉ tiêu xã hội được cải

thiện và ngay cả bản thân hộ nghèo cũng cảm nhận rằng cuộc sống nói

chung đã trở nên khá hơn trong những năm gần đây.

24



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

×