1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Kinh tế >

1 Môi trường kinh tế- xã hội tác động đến các DNVVN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (944.41 KB, 129 trang )


21

2011) xuống 9-11% năm 2013, song tổng mức tín dụng năm 2013 chỉ tăng 9%, tức chỉ

cao hơn mức 7,5% của năm trước một ít, chứng tỏ nợ xấu vẫn ngăn cản hoạt động bình

thường của nền kinh tế. Tồn kho bất động sản vẫn còn rất lớn, sức mua của người dân

đã xuống rất thấp, thể hiện qua sự ế ẩm của nhiều loại hàng hóa và tồn kho hàng công

nghiệp vẫn cao hơn năm 2012 khoảng hơn 10%. Niềm tin của người dân vào triển

vọng ổn định và tăng trưởng mạnh của nền kinh tế vẫn chưa được khôi phục.

Số doanh nghiệp tư nhân tuyên bố phá sản hoặc ngừng hoạt động vẫn tiếp tục

tăng, 65% doanh nghiệp báo cáo không có lãi, trong đó có không ít doanh nghiệp hạng

trung đã gắng gượng trụ lại trong những năm vừa qua. Số lao động mất việc làm từ các

ngành xây dựng, ngân hàng tiếp tục tăng lên trong những tháng cuối năm. Mặc dù có

dấu hiệu hồi phục nhưng nền kinh tế vẫn tiếp tục đối mặt với những yếu kém nan giải,

đòi hỏi phải có nỗ lực lớn, kiên trì để khắc phục.

2.1.2 Môi trường hoạt động ngân hàng trong năm qua

Nền kinh tế nói chung và ngành ngân hàng nói riêng năm 2013 vẫn còn nhiều

biến động. Tuy nhiên, tình hình hệ thống ngân hàng đã được cải thiện đáng kể với

nhiều thành quả đáng ghi nhận: giảm 2% các mức lãi suất điều hành; giảm 3%/năm lãi

suất cho vay ngắn hạn với lĩnh vực ưu tiên, mặt bằng lãi suất tiếp tục giảm 2-5%/năm

so với năm 2012 và trở về mức lãi suất của giai đoạn 2005-2006. Đến cuối năm, lãi

suất các khoản vay đều dưới 13%/năm, lãi suất cho vay các khoản mới kỳ hạn ngắn

chỉ còn 8 – 9%/năm, có những DN tốt được vay 7%/năm.

Tỷ giá ổn định, NHNN đã mua vào được lượng lớn ngoại tệ từ phía các NHMT.

Tăng trưởng tín dụng đến cuối năm 2013 toàn hệ thống đạt 8,83% so với cuối năm

2012, tuy thấp hơn chỉ tiêu định hướng 12% nhưng chất lượng tín dụng, hiệu quả tín

dụng đối với nền kinh tế cũng được cải thiện rõ rệt.

Cơ cấu tín dụng được tập trung vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, nhất là với

các lĩnh vực ưu tiên: tín dụng đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn tăng khoảng

17%, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao tăng 24,51%, xuất khẩu tăng 3,32%, công

nghiệp hỗ trợ tăng 10,84% so với cuối năm 2012.

Mặc dù có những tín hiệu tốt nhưng hoạt động ngân hàng vẫn đối mặt với nhiều

thách thức. Tỷ lệ nợ xấu mặc dù có dấu hiệu giảm nhưng vẫn ở mức cao; Chất lượng

tín dụng chưa thực sự được cải thiện; Nợ xấu chưa được phân loại và đánh giá đầy đủ,

chính xác; Chênh lệch giữa lãi suất đầu ra và lãi suất đầu vào giảm, trong khi chi phí

trích lập dự phòng rủi ro tăng mạnh do chất lượng tài sản giảm sút.



22

Vấn đề rủi ro tín dụng vẫn là mối lo hàng đầu, việc xây dựng hệ thống xếp hạng

tín dụng nội bộ chuẩn và hệ thống cảnh báo rủi ro sớm cần được đẩy mạnh triển khai,

rủi ro trong lĩnh vực này cũng tỷ lệ thuận với tầm quan trọng của nó và chiếm phần lớn

trong tổng mức rủi ro của hoạt động ngân hàng. RRTD thường phát sinh do khách

hàng không thực hiện trả nợ theo các điều khoản đã thỏa thuận trong hợp đồng tín

dụng, khiến người cho vay - ngân hàng - phải gánh chịu các tổn thất tài chính. Tình

hình nợ xấu tăng cao trong những năm gần đây đang đòi hỏi phải có giải pháp xử lý

cấp bách do RRTD gây ra, cũng như sự cần thiết phải tăng cường khả năng quản lý rủi

ro nói chung, RRTD nói riêng.

Tình hình nợ xấu tăng cao trong thời gian gần đây là do kinh tế toàn cầu sau

khủng hoảng phục hồi yếu, kinh tế trong nước gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là thị

trường bất động sản trầm lắng. Tuy nhiên, có nhiều yếu tố chủ quan về phía ngân hàng

cũng khiến cho RRTD tăng cao hơn như: hệ thống đánh giá tín dụng nội bộ còn yếu và

mang nhiều yếu tố định tính; việc định giá tài sản đảm bảo chưa chuẩn; công tác kiểm

toán nội bộ lỏng lẻo; chưa có hoặc chưa phát huy tốt vai trò của hệ thống cảnh báo

sớm…Các yếu tố chứng minh khả năng trả nợ của DN chiếm 70% trọng số; Vì vậy,

yếu tố dòng tiền của DN cần được các ngân hàng rất quan tâm, đặt trên cả tiêu chí về

TSĐB trong quyết định cấp tín dụng. Ở Việt Nam mặc dù đang có những dấu hiệu dần

thay đổi nhưng yếu tố định tính và TSĐB vẫn đứng hàng đầu trong xem xét cho vay.

2.1.3 Môi trường hoạt động ngân hàng tại Kiên Giang

Năm 2013 ngành Ngân hàng đối mặt nhiều khó khăn, đến 2013 là năm thứ 6

liên tiếp doanh nghiệp phải đối mặt với vô vàn khó khăn, đặc biệt là các DNVVN: tốc

độ lạm pháp tăng cao, tỷ giá, lãi suất...diễn biến phức tạp, thị trường tiềm ẩn nhiều bất

ổn khó lường... Năm 2013, nếu tình hình tiếp tục khó khăn, nợ xấu sẽ tăng mà dư nợ

tín dụng không tăng nhiều được. Tuy môi trường kinh doanh khó khăn nhưng kinh tế

tỉnh Kiên Giang vẫn đạt được mức tăng trưởng khá, một số chương trình dự án trọng

điểm đã và đang phát huy hiệu quả góp phần tạo đông lực mới cho phát triển của tỉnh

như sân bay Phú Quốc nâng cấp thành sân bay quốc tế, khởi công bốn dự án gồm Nhà

máy Bia Sài Gòn – Kiên Giang, Nhà máy May Vinatex Kiên Giang, Nhà máy Giày

TBS Kiên Giang và Nhà máy Chế biến gỗ MDF VRG Kiên Giang…

Tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh Kiên Giang năm 2013 trên các lĩnh vực sản

xuất, kinh doanh, đầu tư đều ổn định và có bước phát triển. Tuy nhiên, bên cạnh những



23

kết quả đạt được, vẫn còn một số hạn chế, tình hình nước lũ vùng tứ giác Long Xuyên

xuống chậm, làm ảnh hưởng đến tiến độ xuống giống vụ Đông Xuân; tiến độ triển khai

đầu tư xây dựng cơ bản ở một số sở, ngành và địa phương vẫn còn chậm. Ngoài ra kết

cấu hạ tầng kỹ thuật chưa đồng bộ so với sự phát triển của các nguồn lực kinh tế và

phục vụ đời sống nhân dân, nhất là công trình giao thông, điện, thông tin liên lạc và

các hoạt động dịch vụ hỗ trợ có liên quan đến đầu tư…

Những yếu tố bất lợi về vị trí của tỉnh Kiên Giang là có khoảng cách xa các

Trung tâm kinh tế - văn hóa lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và các vùng kinh

tế trọng điểm phía Nam. Phía Bắc giáp nước bạn – Campuchia, có địa hình phức tạp,

có cửa khẩu thông thương nên phải thường xuyên chú trọng đến hoạt động bảo về an

ninh trật tự, an toàn xã hội.

Kiên Giang vẫn là tỉnh thuần nông chủ yếu là độc canh cây lúa, hiện nay chưa

phát triển được các loại cây công nghiệp có giá trị kinh tế cao. Bên cạnh đó, sự chuyển

dịch cơ cấu trong nội bộ ngành nông nghiệp chậm nên chăn nuôi kém phát triển và

hoạt động tuyển chọn, sản xuất và kinh doanh giống cây trồng, vật nuôi không đáp ứng

yêu cầu.[7]

Về lĩnh vực nuôi trồng, khai thác và chế biến thủy hải sản là ngành mũi nhọn do

cơ sở vật chất chưa đáp ứng xứng tầm với sự phát triển ngành, sự phát triển còn manh

mún ở các hộ gia đình tự phát hoặc có kinh nghiệm truyền thống. Do yếu kém về cơ

sở vật chất và trình độ quản lý dẫn đến giá trị khai thác, chế biến và xuất khẩu còn

thấp, không ổn định về số lượng, chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có. Phần lớn

Doanh nghiệp trong tỉnh có quy mô nhỏ, trình độ công nghệ và kỹ thuật các cơ sở chế

biến nông thủy hải sản và vật liệu xây dựng còn thấp và lạc hậu.

Bên cạnh đó tỉnh Kiên Giang tiếp tục kế thừa, và xem trọng phát triển nông,

lâm, ngư nghiệp và nông thôn, tranh thủ lợi thế từ bên ngoài, gắn Kiên Giang trong

mối quan hệ với cả nước, các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long, các đô thị của địa

bàn trọng điểm và các khu công nghiệp lớn, nhằm thu hút đầu tư và công nghệ mới

cho phát triển công nghiệp và dịch vụ - du lịch, ổn định đời sống vật chất và văn hoá

cho nhân dân trong tỉnh, đặc biệt là vùng hải đảo, vùng sâu, vùng xa,…

Kiên Giang là tỉnh có nhiều tiềm năng và thế mạnh về phát triển kinh tế nhờ

điều kiện thiên nhiên ưu đãi nhất là về nông nghiệp, khai thác hải sản và tiềm năng du

lịch… Tiếp tục khơi dậy và phát huy tối đa nguồn lực trong tỉnh, gắn với việc thu hút



24

tối đa nguồn vốn từ bên ngoài để đầu tư phát triển, mở rộng thị trường quốc tế, đẩy

mạnh xuất khẩu, lấy xuất khẩu thuỷ sản và gạo làm trọng tâm nhằm phát huy và sử

dụng mọi tiềm năng và nguồn nhân lực vào mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Năm 2013,

tổng nguồn vốn huy động của các TCTD trên địa bàn tỉnh Kiên Giang vẫn đạt 19.115 tỷ

đồng, tổng dư nợ cho vay lên đến 29.210 tỷ đồng, nợ xấu chỉ chiếm 2,48%/ tổng dư nợ.



.

Là một tỉnh nông nghiệp, thế nhưng hoạt động của hệ thống ngân hàng trên địa

bàn Kiên Giang rất sôi động với sự góp mặt của 31 NHTM và Chi nhánh NHTM, Ngân

hàng hợp tác, Ngân hàng phát triển, Ngân hàng chính sách - xã hội và 22 QTDND.

Cùng với hệ thống ngân hàng cả nước, những năm qua, ngành ngân hàng Kiên

Giang đã có nhiều đóng góp vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, góp phần

vào thành công của sự nghiệp đổi mới kinh tế đất nước nói chung và tỉnh Kiên Giang

nói riêng.

2.2 Tổng quan về ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam

2.2.1 Khái quát về ngân hàng TPCP Ngoại Thương Chi nhánh Kiên Giang

Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam trước đây, nay là Ngân hàng TMCP Ngoại

thương Việt Nam chính thức đi vào hoạt động ngày 01/4/1963, với tổ chức tiền thân là

Cục Ngoại hối (trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam). Là ngân hàng thương mại

nhà nước đầu tiên được Chính phủ lựa chọn thực hiện thí điểm cổ phần hoá. Ngân

hàng thương mại cổ phần Ngoại Thương Việt Nam (Tên giao dịch: Joint stock

commercial bank for foreign trade of VietNam), viết tắt: Vietcombank, được thành lập

trên cở sở cổ phần hóa ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam thông qua việc bán đấu giá

cổ phiếu lần đầu ra công chúng ngày 26 tháng 12 năm 2007 tại Sở giao dịch chứng

khoán thành phố Hồ Chí Minh. Sau khi thực hiện thành công kế hoạch cổ phần hóa

thông qua việc phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng Ngân hàng Ngoại thương

Việt Nam chính thức hoạt động với tư cách là một Ngân hàng TMCP vào ngày

02/6/2008. Cổ phiếu Vietcombank (mã chứng khoán VCB) chính thức được niêm yết

tại Sở Giao dịch Chứng khoán TPHCM ngày 30/6/2009.



25

Vietcombank hiện có trên 13.560 cán bộ nhân viên, với gần 400 Chi nhánh/

Phòng Giao dịch/ Văn phòng đại diện/ Đơn vị thành viên trong và ngoài nước. Hoạt

động ngân hàng còn được hỗ trợ bởi mạng lưới hơn 1.300 ngân hàng đại lý tại 100

quốc gia và vùng lãnh thổ.

Năm



Sự kiện

Ngày 30/10/1962, Ngân hàng Ngoại Thương được thành lập theo Quyết định



1962



số 115/CP của Hội đồng Chính phủ trên cơ sở tách ra từ Cục quản lý Ngoại

hối trực thuộc Ngân hàng Trung ương (nay là NHNN)



1963



Ngày 01/04/1963, chính thức khai trương hoạt động NHNT như là một ngân

hàng đối ngoại độc quyền

Ngày 14/11/1990, NHNT chính thức chuyển từ một ngân hàng chuyên



1990



doanh, độc quyền trong hoạt động kinh tế đối ngoại sang một NHTM nhà

nước hoạt động đa năng theo Quyết định số 403-CT ngày 14/11/1990 của

Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.

Ngày 05/07/2012, Tạp chí Trade Finance đã trao tặng Vietcombank giải

thưởng “Ngân hàng cung cấp dịch vụ thanh toán thương mại tốt nhất Việt



2012



Nam năm 2012” (Best Vietnamese Trade Bank in 2012). Vietcombank là đại

diện duy nhất của Việt Nam lần thứ 5 liên tiếp nhận được giải thưởng này

(2008 - 2012).

01/04/2013, Vietcombank kỹ niệm 50 năm thành lập và đón nhận Huân

Chương Độc Lập Hạng Nhất do Chủ tịch nước trao tặng.

Vietcombank nhận các danh hiệu và giải thưởng uy tín như “ Ngân hàng tốt

nhất Việt Nam 2013”; “Ngân hàng cung cấp dịch vụ tài trợ thương mại tốt

nhất Việt Nam năm 2013” do tạp chí Trade Finance trao tặng; Giải thưởng



2013



“Ngân hàng cung cấp dịch vụ quản lý tiền mặt tốt nhất Việt Nam năm

2013”; “Ngân hàng có bảng cân đối kế toán vững mạnh nhất Việt Nam năm

2013”do Táp chí Asian Banker trao tặng.

Cùng với việc được bình chọn xếp hạng nhất quốc gia, VCB cũng là ngân

hàng đầu tiên và duy nhất của Việt Nam được xuất hiện tại nửa trên của bảng

xếp hạng 1000 ngân hàng đứng đầu thế giới do tạp chí The Banker bầu chọn.



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (129 trang)

×