1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Kinh tế >

CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG CẠNH TRANH NGÀNH BẢO HIỂM VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.74 MB, 102 trang )


của Doanh nghiệp tái bảo hiểm Munich Re AG (Đức), năm 2010 là năm thiệt

hại lớn nhất của ngành bảo hiểm thiên tai toàn cầu kể từ năm 1980 với 950

thảm họa thiên nhiên, cao hơn mức trung bình 785 thảm họa/năm trong một

thập kỷ qua. Đông Nam Á tiếp tục được xem là “rốn bão” của thế giới, dễ bị

ảnh hưởng nhất cuả biến đổi khí hậu do lụt, bão, nước biển dâng, hạn hán,...

3.1.2. Bối cảnh trong nước

Theo Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020 (Văn kiện đại hội

Đảng toàn quốc lần thứ XI), nền kinh tế Việt Nam được dự kiến tiếp tục tăng

trưởng cao với tốc độ bình quân đạt khoảng 7-8%/năm; cơ cấu kinh tế được

chuyển dịch, theo đó tỉ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ được nâng

cao chiếm khoảng 85% trong GDP; tỉ lệ đô thị hóa đạt trên 45%; thu nhập

thực tế của dân cư gấp khoảng 3,5 lần so với năm 2010; khoảng cách thu nhập

giữa các vùng và nhóm dân cư được thu hẹp;.... Bên cạnh đó, theo Chiến lược

tổng thể phát triển khu vực dịch vụ của Việt Nam đến năm 2020 (Quyết định

số 175/QĐ-TTg ngày 27/1/2011 của Thủ tướng Chính phủ), nhà nước sẽ huy

động mọi nguồn lực để phát triển đồng bộ, hoàn chỉnh và hiện đại, đạt chất

lượng và năng lực cạnh tranh quốc tế các loại thị trường dịch vụ.

Sự tăng trưởng kinh tế và các chính sách hỗ trợ phát triển thị trường

dịch vụ của Chính phủ trong thời gian sắp tới sẽ góp phần thúc đẩy sự phát

triển và hoàn thiện của TTBH. Tuy nhiên, nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng

chưa thực sự bền vững, chất lượng tăng trưởng, năng suất và sức cạnh tranh

còn thấp, hiệu quả sử dụng nguồn lực còn hạn chế, kết cấu hạ tầng yếu kém.

Trong ngắn và trung hạn, kinh tế Việt Nam vẫn phải đương đầu với sức ép

lạm phát. Bên cạnh đó, thị trường tài chính Việt Nam phát triển chưa đồng bộ,

chưa có sự gắn kết giữa các mảng thị trường. Trong công tác điều hành của

các cơ quan quản lý nhà nước chưa có sự phối hợp chặt chẽ, gây khó khăn

trong việc phát triển từng mảng thị trường.



72



3.2. Một số chỉ tiêu phát triển cụ thể của ngành bảo hiểm

3.2.1. Phát triển thị trường

Thực hiện chính sách lựa chọn các doanh nghiệp có tình hình tài chính

mạnh, có năng lực quản trị điều hành và cam kết hoạt động lâu dài trên thị

trường bảo hiểm Việt Nam, dự kiến đến cuối năm 2020, số lượng các DNBH

dự kiến tăng lên thêm 30 doanh nghiệp, trong đó 10 doanh nghiệp phi nhân

thọ, 9 doanh nghiệp nhân thọ, 2 doanh nghiệp tái bảo hiểm, môi giới 5 doanh

nghiệp, chi nhánh của các DNBH 100% vốn nước ngoài là 14.

3.2.2. Nâng tỷ trọng dịch vụ bảo hiểm trên GDP và đẩy mạnh tốc độ

tăng trưởng doanh thu phí bảo hiểm

- Tốc độ tăng trưởng bình quân tổng doanh thu phí bảo hiểm khoảng

15%/năm, trong đó giai đoạn 2011-2015: khối phi nhân thọ tăng từ 1820%/năm, khối nhân thọ tăng từ 10-12%/năm; giai đoạn 2016-2020: khối phi

nhân thọ tăng từ 20-25%/năm, khối nhân thọ tăng từ 12-15%/năm;

- Nâng tỷ trọng doanh thu phí bảo hiểm của toàn ngành bảo hiểm so với

GDP từ 2% năm 2010 lên khoảng 3% năm 2015 và 5% năm 2020.

3.2.3. Ổn định kinh tế - xã hội và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế

Đáp ứng yêu cầu bồi thường và trả tiền bảo hiểm nhanh chóng và đầy

đủ, bảo đảm ổn định tài chính cho nền kinh tế và cuộc sống dân cư trước các

rủi ro. Nâng tổng vốn đầu tư trở lại nền kinh tế hơn 3 lần, trong 10 năm tới.



3.2.4. Tạo thêm công ăn việc làm và tăng thu cho ngân sách nhà nước

Mở rộng mạng lưới phân phối sản phẩm một cách sâu rộng thông qua

việc phát triển hệ thống đại lý khai thác bảo hiểm, qua đó góp phần tạo thêm

việc làm cho xã hội.

Tăng tốc độ tăng trưởng nộp ngân sách Nhà nước đạt bình quân khoảng

15%/năm cho đến năm 2020.



73



3.3. Cơ hội và thách thức của ngành bảo hiểm Việt Nam trong quá

trình hội nhập kinh tế quốc tế

3.3.1. Cơ hội

Việc hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế thế giới sẽ giúp việc trao

đổi thương mại hàng hoá giữa Việt Nam và các nước sẽ được đẩy mạnh,

luồng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam được lưu thông, là tiền đề quan

trọng giải quyết công ăn, việc làm, tăng thu nhập. Điều này sẽ tạo cơ hội cho

các DNBH phát triển, mở rộng thị trường.

Có doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với khả năng tài chính

mạnh, kinh nghiệm quản lý và xử lý nghiệp vụ chắc chắn, kỹ năng phục vụ

khách hàng chuyên nghiệp, sẽ làm tiền đề giúp tăng niềm tin đối với người

tiêu dùng đối với ngành bảo hiểm.

Sự có mặt của các doanh nghiệp lớn với nhiều kênh phân phối hiện đại

sẽ làm đa dạng hóa số lượng sản phẩm để đáp ứng các nhu cầu ngày càng

phát sinh của người tiêu dùng và từ đó tạo điều kiện tăng doanh thu phí. Đồng

thời, việc cho nhiều doanh nghiệp có nhiều lựa chọn để chọn cho mình dịch

vụ có phí hợp lý và phù hợp với mình.

Việc có thêm nhiều DNBH có vốn đầu tư nước ngoài tham gia vào thị

trường bảo hiểm Việt Nam, với thế mạnh dựa trên công nghệ quản lý tiên

tiến, cơ cấu sản phẩm bảo hiểm đa dạng, đáp ứng yêu cầu của nhiều đối tượng

khách hàng, hệ thống thông tin ngày càng hiện đại…cũng tạo động lực cạnh

tranh để các DNBH trong nước nâng cao năng lực quản lý, chất lượng phục

vụ, giảm chi phí hoạt động, phát triển nhiều sản phẩm mới hơn phù hợp với

nhu cầu và khả năng tài chính của khách hàng…để có thể cạnh tranh và đứng

vững trên thị trường... Do vậy, tạo cho ngành bảo hiểm Việt Nam ngày càng

có cơ hội phát triển mạnh hơn dựa trên sự cạnh tranh lành mạnh.



74



3.3.2. Thách thức

Khi Việt Nam đã gia nhập WTO, chính phủ nhiều nước cùng với DNBH

của họ cũng gây sức ép với Việt Nam để được hoạt động trên thị trường bảo

hiểm Việt Nam, nhất là những DNBH nước ngoài đáp ứng đầy đủ mọi điều

kiện được quy định trong Luật KDBH và chiến lược phát triển thị trường bảo

hiểm Việt Nam. Sự thị trường xuất hiện các DNBH có vốn đầu tư nước ngoài

sẽ dẫn đến tình trạng cạnh tranh không cân sức giữa các tập đoàn bảo hiểm

nước ngoài, có doanh thu và vốn lớn, kinh nghiệm hoạt động hàng trăm năm

với các DNBH trong nước hầu hết là các doanh nghiệp mới thành lập, vốn

không lớn, kinh nghiệm còn rất ít. Hệ thống qui trình quản lý của các DNBH

100% vốn nước ngoài tận dụng được hệ thống quản lý ở các nước ASEAN nên

vừa nhanh, tiết kiệm chi phí. Các DNBH có vốn đầu tư nước ngoài với cơ chế

tài chính thông thoáng đã tiến hành hàng loạt các biện pháp tuyên truyền,

quảng cáo, tài trợ; trong đó các DNBH trong nước không quá 10% tổng chi phí

hoạt động của doanh nghiệp. Hiện có hiện tượng chảy máu chất xám, nhất là

đối với hệ thống phân phối làm ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh của

các DNBH trong nước và sự phát triển ổn định, vững mạnh của thị trường.

Trong công tác quản lý thị trường bảo hiểm do điều kiện hệ thống giám

sát còn thiếu và chưa đồng bộ, trình độ cán bộ của các cơ quan quản lý chưa

cao; Thị trường phát triển nhanh về qui mô, đa dạng về sản phẩm là sức ép

đối với các nhà quản lý đặc biệt khi các doanh nghiệp có vốn nước ngoài du

nhập vào Việt Nam những tập quán bảo hiểm quốc tế, kinh doanh những dịch

vụ ở Việt Nam không cấm nhưng người tiêu dùng chưa có kinh nghiệm, áp

dụng những phương thức kinh doanh không phù hợp với văn hoá của Việt

Nam... đều có thể sẽ dẫn đến sự phát triển méo mó hay cạnh tranh không lành

mạnh trên thị trường.



75



Càng hội nhập sâu thì sự bảo hộ của Nhà nước trong KDBH đối với

DNBH trong nước sẽ bị xóa bỏ. Sự phân biệt đối xử giữa DNBH trong nước

và DNBH có vốn đầu tư nước ngoài cũng sẽ không còn nữa là một thách thức

khá lớn đối với các DNBH trong nước. Trong số đó, một số DNBH nhà nước

sẽ được tiến hành cổ phần hóa, trong đó sức ép chia lãi cho cổ đông không

phải là nhỏ nếu KDBH và đầu tư không có hiệu quả.

Ngành bảo hiểm dễ bị ảnh hưởng bởi nguy cơ khủng hoảng khu vực và

thế giới hơn. Bởi bảo hiểm là lĩnh vực hết sức nhạy cảm, kinh doanh dựa trên

lòng tin của khách hàng, do đó, cũng giống ngân hàng, khi các khách hàng

(chủ yếu của BHNT) ồ ạt rút vốn, ngay lập tức cả ngành bảo hiểm bị ảnh

hưởng nghiêm trọng. Thêm vào đó, với chức năng là lá chắn rủi ro, khi khủng

hoảng xảy ra, bất cứ ngành nào chịu thiệt hại thì ngành bảo hiểm cũng bị ảnh

hưởng theo. Hội nhập với khu vực cũng có nghĩa ngành bảo hiểm Việt Nam

sẽ chịu nhiều tác động từ những biến động của ngành bảo hiểm các nước

trong khu vực, nên cũng đồng nghĩa với việc trở nên dễ bị tổn thương hơn bởi

các nguy cơ ở cấp độ quốc tế và khu vực.

Dân trí Việt Nam chưa cao nên khi các DNBH có vốn đầu tư nước ngoài

đưa các sản phẩm bảo hiểm với những khái niệm theo chuẩn mực quốc tế nên

đôi khi gây ra sự khó hiểu và ngờ vực từ phía người tham gia bảo hiểm. Các

DNBH có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận là chủ yếu, do

vậy sẽ khó có thể yêu cầu các doanh nghiệp này triển khai các loại hình bảo

hiểm rất cần nhưng mang lại lợi nhuận thấp như bảo hiểm nông nghiệp... hoặc

chỉ tập trung khai thác ở địa bàn trọng điểm, không chú trọng đến khách hàng có

thu nhập thấp, ở địa bàn nông thôn. Nhà nước rất khó bắt buộc các doanh nghiệp

này phải triển khai các loại hình bảo hiểm đến đông đảo các tầng lớp nhân dân.

Các DNBH trong nước phải đối mặt là về vấn đề “chảy máu chất xám”

từ DNBH trong nước sang DNBH có vốn đầu tư nước ngoài có thu nhập cao

hơn cũng là điều đáng lo ngại.



76



Khả năng tài chính mạnh, các DNBH có vốn đầu nước ngoài sẽ tìm

mọi cách trong đó có tuyên truyền, quảng cáo, khuyến mãi, khuếch trương

sản phẩm, hạ phí bảo hiểm để gây uy tín và chiếm lĩnh thị trường. Đây là

thách thức mà các DNBH trong nước phải đối mặt.

3.4. Khuyến nghị

3.4.1. Đối với cơ quan quản lý bảo hiểm

3.4.1.1. Hoàn thiện hệ thống pháp lý

Nhằm đáp ứng những yêu cầu của hội nhập kinh tế và các cam kết quốc

tế Việt Nam đã tham gia và tạo ra khung pháp lý minh bạch để thị trường bảo

hiểm phát triển lành mạnh, an toàn và ổn định, cơ quan quản lý cần tiếp tục

hoàn thiện và ban hành mới các văn bản pháp luật về KDBH, cụ thể:

Rà soát lại hệ thống các văn bản pháp luật hiện tại về KDBH để sửa

đổi, bổ sung hoặc thay thế các văn bản này theo hướng đơn giản hoá và giảm

bớt các thủ tục hành chính, phù hợp hơn với các chuẩn mực và thông lệ quốc

tế (đặc biệt là các quy định liên quan đến phê chuẩn sản phẩm bảo hiểm, phê

chuẩn các nội dung thay đổi trong Giấy phép hoạt động của doanh nghiệp

kinh doanh bảo hiểm), đảm bảo sự công khai, minh bạch, bình đẳng cho các

chủ thể tham gia thị trường; nâng cao các yêu cầu về năng lực tài chính và

quản trị điều hành của DNBH (trong đó đặc biệt chú ý tới việc chuẩn hóa quy

định về áp dụng công nghệ thông tin, trình độ chuyên môn của các bộ chủ

chốt của DNBH; áp dụng mô hình và phương thức quản lý tiên tiến).

Bổ sung, xây dựng các quy định mới nhằm tạo điều kiện cho các doanh

nghiệp phát triển các loại hình sản phẩm mới, đáp ứng nhu cầu đa dạng của

người tham gia bảo hiểm cũng như yêu cầu phát triển của nền kinh tế-xã hội

(bảo hiểm y tế tự nguyện, bảo hiểm hưu trí, bảo hiểm thiên tai, thảm hoạ...).

Ngoài ra, xây dựng các quy định về cấp phép thành lập và hoạt động của

doanh nghiệp tái bảo hiểm; tiêu chí, điều kiện hoạt động của các tổ chức cung



77



cấp dịch vụ hỗ trợ cho các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm, góp phần nâng

cao chất lượng hoạt động bảo hiểm (kế toán kiểm toán, giám định tổn thất,...).

Phối hợp với các Bộ, ngành liên quan rà soát các quy định còn chồng

chéo giữa hệ thống văn bản pháp luật về kinh doanh bảo hiểm và các văn bản

pháp luật khác (Bộ Luật dân sự, Luật cạnh tranh, Luật xây dựng, Luật hàng

hải...) để hoàn thiện các quy định pháp luật về kinh doanh bảo hiểm cho đồng

bộ, nhất quán giữa các văn bản luật.

Nghiên cứu, xây dựng các cơ chế ưu đãi về đầu tư trở lại nền kinh tế của

các DNBH, trong đó đặc biệt chú trọng tới các cơ chế tạo điều kiện kết nối, liên

thông hoạt động đầu tư của các DNBH với thị trường chứng khoán và các thị

trường tài chính khác. Bên cạnh đó, cơ quan quản lý cần ban hành các văn bản

hướng dẫn liên quan tới các hoạt động cho vay, đầu tư vào bất động sản, cổ

phiếu của các DNBH, đặc biệt các doanh nghiệp có vốn nước ngoài nhằm tạo

thuận lợi cho hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp để từ đó tăng lượng vốn

đầu tư trở lại nền kinh tế và tăng lợi nhuận của các DNBH và người mua bảo

hiểm. Các cơ quan quản lý này cũng cần có cơ chế giám sát chặt chẽ với các quy

định liên quan tới quản trị doanh nghiệp, quá trình minh bạch tài chính cần phù

hợp với chuẩn quốc tế và việc tuân thủ các quy định pháp luật để tạo lòng tin cho

các DNBH khi đầu tư vào các doanh nghiệp trong mọi lĩnh vực của Việt Nam.

Xây dựng và hoàn thiện các chính sách, chế độ liên quan đến các loại

hình bảo hiểm được Nhà nước khuyến khích phát triển vì mục đích an sinh xã

hội (bảo hiểm nông nghiệp, bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, bảo hiểm chăm sóc

sức khoẻ, bảo hiểm cho các đối tượng có thu nhập thấp...).

Để hạn chế tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các DNBH,

cần xây dựng hành lang pháp lý đầy đủ cho các hoạt động điều tra để cơ quan

quản lý có điều kiện chủ động hơn về mặt thị trường. Các kết quả của hoạt

động điều tra cần phải được pháp chế hóa cụ thể để có giá trị pháp lý làm cơ



78



sở cho các cơ quan quản lý nhà nước chủ động đánh giá và xử lý những

trường hợp có dấu hiệu phi cạnh tranh.

3.4.1.2. Phát triển thị trường

- Phát triển và nâng cao chất lượng kênh môi giới bảo hiểm

Cơ quan quản lý nhà nước về KDBH xây dựng và ban hành các quy

định nhằm chuẩn hóa chất lượng đội ngũ môi giới bảo hiểm, có quy định rõ

ràng về yêu cầu đào tạo tối thiểu và quy định cụ thể về chứng chỉ đào tạo cơ

bản trong lĩnh vực này. Trên cơ sở đó sẽ chuyên biệt hoá các loại chương

trình đào tạo, các loại chứng chỉ đào tạo phù hợp với tính phức tạp, tính chất

đặc thù của từng loại hình sản phẩm, nghiệp vụ bảo hiểm được thu xếp qua

hoạt động môi giới.

- Phát triển kênh đại lý bảo hiểm

Cơ quan quản lý nhà nước về KDBH tiếp tục kiểm soát chặt chẽ việc

thi cấp chứng chỉ đào tạo đại lý để chuẩn hoá chất lượng thông qua Trung tâm

nghiên cứu và đào tạo bảo hiểm (thuộc Cục QLBH).

- Phát triển kênh phân phối phi truyền thống

Các sản phẩm bảo hiểm được cung cấp qua các kênh phân phối phi

truyền thống (ngân hàng, bưu điện, siêu thị, mạng internet, qua các tổ chức

nghề nghiệp...) thường là các sản phẩm đơn giản, không yêu cầu cao về thẩm

định bảo hiểm và thường được tích hợp vào các sản phẩm gói của các tổ chức

có kênh phân phối. Do đó, các yêu cầu về điều kiện triển khai, năng lực, trình

độ của đội ngũ cán bộ bán bảo hiểm cũng thường thấp hơn so với kênh phân

phối truyền thống. Vì vậy, bên cạnh việc hoàn thiện các quy định về kênh

phân phối truyền thống, cơ quan quản lý nhà nước về KDBH xây dựng các

quy định riêng biệt (về chương trình đào tạo, chứng chỉ đại lý, hoa hồng bảo

hiểm, trình tự thẩm định cấp hợp đồng bảo hiểm, quy định về chữ ký và hoá

đơn điện tử,...) để hỗ trợ các DNBH phát triển các kênh phân phối này.



79



3.4.1.3. Tăng cường năng lực giám sát của cơ quan quản lý nhà nước

Tiếp tục thực hiện phương thức quản lý giám sát TTBH theo hướng

tăng quyền tự chủ và trách nhiệm của DNBH trong việc thực thi pháp luật kết

hợp với công tác thanh tra, kiểm tra và giám sát của cơ quan quản lý nhà nước

dựa trên các chuẩn mực quốc tế. Nghiêm túc xử lý các hành vi vi phạm pháp

luật về hoạt động KDBH;

Hiện đại hóa cơ sở hạ tầng, hệ thống công nghệ thông tin đáp ứng yêu

cầu hoạt động quản lý, giám sát;

Cần xây dựng và hoàn thiện kế hoạch phát triển nguồn nhân lực cho cơ

quan quản lý nhà nước về KDBH, làm rõ chức năng nhiệm vụ của từng cán bộ

giám sát cũng như thường xuyên giáo dục, tăng cường đạo đức nghề nghiệp cho

cán bộ giám sát, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm đạo đức nghề nghiệp.

Tăng cường trao đổi kinh nghiệm quản lý nhà nước ở các nước khác và

gia tăng đối thoại với hiệp hội bảo hiểm và với các DNBH để nâng cao trình

độ cán bộ. Số lượng cán bộ quản lý, giám sát trực tiếp phải phát triển tương

ứng với sự phát triển của số lượng DNBH trên thị trường (theo thông lệ quốc

tế, để có thể thực hiện quản lý giám sát một cách an toàn, thận trọng, cần từ 2

đến 3 cán bộ/DNBH).

Để thu hút và giữ chân được các cán bộ giỏi, có kinh nghiệm thực tiễn

làm việc trong cơ quan quản lý nhà nước về KDBH, cần có cơ chế tuyển dụng

thông thoáng và chế độ đãi ngộ (thu nhập) tương xứng với mức trách nhiệm

và khối lượng công việc, ít nhất có sự tương đồng với các cơ quan quản lý

nhà nước về thị trường dịch vụ tài chính khác.

3.4.1.4. Hoàn thiện thị trường tài chính

Trong bối cảnh phát triển này, sự cải thiện của thị trường chứng khoán,

việc cải thiện các quy định pháp lý, nỗ lực của các DNBH cần phải được tiến

hành đồng thời nhằm dẫn vốn từ các DNBH tới các nhà đầu tư thông qua thị



80



trường chứng khoán, và mặt khác, biến thị trường chứng khoán thành nơi

cung cấp các cơ hội đầu tư tốt cho các DNBH.

Giải pháp này đòi hỏi có sự phối kết hợp giữa tất cả các bộ, ban ngành

có liên quan như Bộ Tài chính, Ngân hàng nhà nước, Ủy ban Chứng

khoán,...để tạo nên một thị trường tài chính phát triển có hệ thống và hiệu quả

hơn, đặc biệt là phát triển thị trường chứng khoán để tạo điều kiện thuận lợi

sự phát triển của ngành bảo hiểm.

3.4.1.5. Đào tạo nhân lực cho thị trường bảo hiểm

Nguồn nhân lực hiện nay mới chỉ đáp ứng được nhu cầu của thị trường

ở mức độ trung bình. Do vậy, các cơ quan quản lý bảo hiểm cần:

Liên kết và hợp tác với các trường đại học, cao đẳng để chuẩn hoá nội

dung đào tạo, giúp cho khoảng cách giữa kiến thức sinh viên học được ở

trường và công việc thực tế giảm xuống.

Chuyên biệt hoá các loại chứng chỉ đại lý. Sản phẩm trong thị trường

ngày càng đa dạng và phong phú, ngoài các sản phẩm truyền thống trên thị

trường xuất hiện nhiều sản phẩm mang tính chuyên biệt cao như sản phẩm

liên kết đầu tư.... hoặc những sản phẩm riêng của các doanh nghiệp đòi hỏi

đại lý bảo hiểm của từng loại sản phẩm có trình độ khác nhau, do đó cần thiết

phải chuyên biệt hoá các chứng chỉ đại lý bảo hiểm. Có thể có chứng chỉ cơ

bản (đại cương) và các chứng chỉ riêng cho từng nhóm sản phẩm.

3.4.1.6. Xây dựng hệ thống thống kê bảo hiểm và cơ chế cung cấp

thông tin cho các DNBH

Để hỗ trợ DNBH một cách hiệu quả nhất, cơ quan quản lý cần nghiên

cứu và xây dựng hệ thống thông tin kết nối giữa cơ quan quản lý nhà nước và

các doanh nghiệp. Đồng thời, hệ quả của hệ thống này là giúp cho hoạt động

quản lý, giám sát thị trường bảo hiểm của cơ quan quản lý hiệu quả hơn trong

điều kiện hội nhập.



81



Với tốc độ tăng trưởng nhanh, thị trường bảo hiểm có thể vượt ra khỏi

tầm kiểm soát của các cơ quan chức năng, do vậy, việc nghiên cứu khả năng

áp dụng phương thức quản lý giám sát trên cơ sở rủi ro thông qua các yếu tố

cảnh báo sớm, các chỉ tiêu, tiêu chí xếp hạng hoặc phân loại doanh nghiệp

theo mức độ rủi ro là một yêu cầu cần thiết.

3.4.1.7. Nâng cao hiểu biết của người dân về bảo hiểm

Thông qua những hoạt động phối hợp chặt chẽ với Hiệp hội bảo hiểm

Việt Nam, các phương tiện thông tin đại chúng để từ đẩy mạnh công tác tuyên

truyền, giáo dục về bảo hiểm trong cộng đồng. Từ đó, giúp người dân có cơ

hội tìm hiểu và tiếp xúc với một vấn đề mới trong đảm bảo cuộc sống của

mình. Giúp họ không bị lừa do thiếu hiểu biết và tránh được hậu quả từ việc

cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường bảo hiểm Việt Nam.

3.4.2. Đối với doanh nghiệp bảo hiểm

3.4.2.1. Xây dựng chiến lược phát triển dài hạn

Với những hạn chế về nguồn lực, các DNBH, đặc biệt là DNBH trong

nước cần tự xác định cho mình một chiến lược cân bằng giữa phát triển trong

thời điểm hiện nay và phát triển dại hạn. Bởi các doanh nghiệp hiện nay vẫn

chạy theo doanh thu phí. Vẫn biết doanh thu phí bảo hiểm là một chỉ số quan

trọng về phát triển, nhưng trong bối cảnh hiện nay của các doanh nghiệp bảo

hiêm Việt Nam, có thể chỉ số này không quan trọng bằng chỉ số phát triển

nguồn nhân lực (ví dụ, sự cải thiện trình độ chuyên môn, kỹ năng quản lý...)

hoặc các chỉ số về hiệu quả hoạt động (chuẩn hoá các quy trình, tiết kiệm thời

gian cho từng công việc...), bởi đây là những cơ sở vững chắc cho sự phát

triển trong tương lai đồng thời nó thể hiện một chiến lược cạnh tranh lạnh

mạnh giữa các doanh nghiệp trên thị trường.

3.4.2.2. Xây dựng hệ thống thu nhập, lưu trữ, xử lý số liệu

Mặc dù hoạt động thống kê chỉ có thể được tiến hành nếu có sự phối hợp



82



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

×