1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Khoa học xã hội >

CHƯƠNG 1 KHÁI QUÁT VỀ TỰ NHIÊN VÀ CON NGƯỜI Ở HUYỆN SA PA, TỈNH LÀO CAI.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 154 trang )


1.1- Điều kiện tự nhiên của huyện Sa Pa:

1.1.1- Vị trí địa lý:

Sa Pa là huyện vùng cao của tỉnh Lào Cai, nằm trên trục đƣờng quốc

lộ 4D cách thị xã Lào Cai 35 km về phía Tây Nam. Trung tâm huyện Sa Pa

cách Hà Nội 359 km. Về địa giới hành chính, Sa Pa đƣợc xác định nhƣ sau:

- Phía Bắc giáp huyện Bát Xát;

- Phía Nam giáp huyện Văn Bàn;

- Phía Đông giáp huyện Bảo Thắng và thị xã Cam Đƣờng;

- Phía Tây giáp huyện Than Uyên và huyện Phong Thổ (tỉnh Lai

Châu).

Về địa hình: Nằm trên triền đông dãy núi Hoàng Liên Sơn, với tổng

diện tích 67.864 ha, Sa Pa ở vào khoảng vĩ độ 22,22 kinh độ 103,51. Độ cao

trung bình từ 1200 - 1800m so với mặt biển. Đỉnh cao nhất là Phan xi păng

(3143m), thấp nhất là suối Bo 400m. Địa hình huyện Sa Pa nghiêng theo

hƣớng Tây - Tây Nam đến Đông Bắc. Địa giới hành chính qui định chiều dài

của huyện gần 40 km, chiều rộng 24 km, là nơi địa hình có sự chia cắt lớn,

độ dốc trung bình từ 30 đến 350, có nơi dốc hơn 450. Các sông suối chảy

theo hƣớng tây bắc - đông nam, lòng suối hẹp, nhiều ghềnh thác. Chính

những điều trên đã tạo nên một Sa Pa với cảnh sắc thiên nhiên vừa hùng vĩ

vừa nên thơ.

1.1.2- Đặc điểm tự nhiên:

Về khí hậu: Do vị trí địa lý nằm sát chí tuyến trong vành đai á nhiệt

đới Bắc bán cầu, khí hậu ở Sa Pa có những biểu hiện rất phong phú và đa

dạng: mát mẻ trong mùa hè và giá lạnh trong mùa đông, xuân. Thậm chí,

trong một ngày, vào các buổi sáng, trƣa, chiều tối, chúng ta có thể cảm nhận

đƣợc thời tiết của các mùa trong năm. Nhiệt độ trung bình năm từ 15ºC 16ºC, có 5 tháng nhiệt độ trung bình dƣới 15ºC, tổng tích ôn trong năm từ

22



7500ºC - 7800ºC [40]. Sa Pa là huyện có lƣợng mƣa cao nhất Lào Cai,

lƣợng mƣa trung bình năm từ 2.861mm, cao nhất là 3.484mm. Trong các

tháng mùa khô lƣợng mƣa trung bình từ 50 - 100mm, số giờ nắng trong năm

đạt 1440 giờ.

Về đất đai thổ nhƣỡng: Thể loại đất của Sa Pa đa dạng và phong phú

bao gồm các nhóm: Nhóm đất mùn trên núi cao 1700m, thích nghi với

nhiều loại cây trồng lâm nghiệp, đặc sản, dƣợc liệu. Nhóm đất mùn vàng đỏ

trên núi cao từ 700m đến 1700m, thích hợp với nhiều loại cây trồng lâm

nghiệp, cây công nghiệp, dƣợc liệu, cây ăn quả. Nhóm đất đỏ vàng trên núi

thấp và núi trung bình từ 400m đến 700m, thích nghi với nhiều loại cây

trồng nông nghiệp và cây đặc sản. Nhóm đất Feralit đỏ vàng và đất do sản

phẩm dốc tu trồng lúa nƣớc.

Về tài nguyên khoáng sản: Theo kết quả điều tra nghiên cứu của Viện

địa chất và khoáng sản năm 1982 thì Sa Pa là 1 trong 3 dải trùng hợp với hệ

thống đứt gẫy sông Hồng, trong đó đối với Sa Pa bao gồm: Mô-líp đen ở Tả

Giàng Phình, Đô-lô-mit ở Lao Chải, Cao lanh trữ lƣợng khoảng 300.000 tấn

ở Sa Pả, nƣớc khoáng siêu nhạt ở Tắc Kô xã Trung Chải. Ngoài những tiềm

năng khoáng chất trên, Sa Pa còn có hứa hẹn khả năng sản xuất vật liệu xây

dựng, đá xẻ, đá xây dựng, tập trung chủ yếu ở các xã trung và thƣợng huyện.

Theo GS.TS Lê Bá Thảo thì cảnh quan môi trƣờng sinh thái của Sa Pa

khá đặc biệt: “Có lẽ cũng không có vùng nào trong bán đảo Đông Dƣơng lại

có quang cảnh hùng vĩ và đặc sắc hơn, trong đó những ngƣời quen sống ở

miền nhiệt đới có thể có một lúc nào đó thấy tuyết rơi vào mùa đông, thấy

những cây tùng cây bách cổ kính của những miền thuộc những vĩ tuyến cao

hơn, những hoa quả và rau ôn đới nảy mầm và cung cấp hạt giống cho miền

Bắc. Sự chinh phục của con ngƣời đối với vùng này thực sự chỉ mới bắt đầu

ngay trong cái nhìn bao quát nhất, chúng ta cũng thấy đƣợc những khả năng

23



còn to lớn của thiên nhiên ở đấy về nhiều mặt mà chúng ta phải tiếp tục khai

thác” [42-88]. Trải qua quá trình lịch sử đầy biến động của tự nhiên và xã

hội, đã làm nên một Sa Pa - địa danh du lịch vô cùng hấp dẫn, ẩn chứa nhiều

điều bí ẩn, diệu kỳ.

Bằng nhiều cứ liệu, từ những tài liệu về bãi đá cổ ở thung lũng Mƣờng

Hoa xã Tả Van1 và nhiều nguồn sử liệu khác, các nhà khoa học cho rằng

mảnh đất Sa Pa từ lâu đã là địa bàn sinh sống lâu đời của cƣ dân có nguồn

gốc Lạc Việt. Trên cơ sở đó, quá trình hội tụ của cƣ dân nơi đây ngày càng

đông đúc hơn. Cách ngày nay khoảng 300 năm, các luồng dân di cƣ của các

dân tộc, từ nhiều con đƣờng khác nhau đã tụ họp về Sa Pa. Ở đây, nhiều bản

làng của các dân tộc đã đƣợc hình thành, nhất là vào đầu thế kỷ XX, quá

trình hội tụ này ngày càng lớn.

Trải qua các thời kỳ lịch sử, Sa Pa có nhiều thay đổi về địa danh, địa

giới khác nhau. Theo các tài liệu lịch sử để lại, vào thời phong kiến, địa phận

Sa Pa ngày nay và một số nơi khác thuộc châu Thuỷ Vĩ, phủ Quy Hoá, tỉnh

Hƣng Hoá. Đến đời Minh Mạng, (Triều Nguyễn) châu Thuỷ Vĩ đƣợc chia

thành nhiều tổng. Địa phận Sa Pa đƣợc tách ra lập thành tổng Hƣớng Vinh,

gồm 15 làng. Sau khi tỉnh Lào Cai đƣợc thành lập (12-7-1907), khu vực Sa

Pa đƣợc hình thành gồm hai xã là Bình Lƣ và Hƣớng Vinh. Đến những năm

đầu thập kỷ 30 của thế kỷ XX, Sa Pa đổi thành Hạt, bao gồm 37 làng, một

phố với tổng số 1020 hộ [3-9].

Tiếp đến, ngày 9-3-1944, Thống sứ Bắc kỳ ra Nghị định thành lập

Châu Sa Pa bao gồm hai xã: Mƣờng Hoa, Hƣớng Vinh và khối phố Xuân

1



Bãi đá cổ ở xã Tả Van, nằm cách trung tâm huyện Sa Pa 7 km về phía đồng nam, do một học giả ngƣời

Pháp(V. Gulubép) phát hiện vào đầu thế kỷ XX. Qua mấy chục năm nghiên cứu khảo sát, ngày 20-7-1994,

Bộ Văn hoá đã quyết định công nhận bãi đá cổ Tả Van là một Di tích Lịch sử Văn hoá đƣợc xếp hạng của

Nhà nƣớc. Bãi đá cổ gồm gần 200 hòn đá to, nhỏ khác nhau, trên mỗi hòn đá khắc nhiều kí tự hình học, hoa

văn độc đáo của ngƣời cổ xƣa. Cho đến ngày nay, những kí tự đƣợc khắc trên đá đó vẫn còn là điều bí ẩn

đối với các nhà khoa học Việt Nam và thế giới.



24



Viên (thị trấn ngày nay) [3-9]. Năm 1948, Sa Pa đƣợc chia tiếp thành 3 xã:

Sa Pa Chung, Mƣờng Bo, Kim Hoa (sau còn gọi là Móng Và) [3-9]. Hoà

bình lập lại (1954), Sa Pa sắp xếp lại các đơn vị hành chính chia thành 17 xã

vùng nông thôn và một thị trấn. Mƣời tám đơn vị hành chính đó còn tồn tại

đến ngày nay.

1.2- Các dân tộc ở huyện Sa Pa.

1.2.1- Sự phân bố các dân tộc:

Toàn huyện Sa Pa có 17 xã và 1 thị trấn huyện lỵ, gồm 95 thôn, bản.

Tính đến thời điểm tháng 6 năm 2001, Sa Pa có 6247 hộ, với tổng số dân là

37.272 ngƣời. Trong đó, số ngƣời trong độ tuổi lao động là 16.400 ngƣời,

chiếm 44% dân số toàn huyện, chủ yếu là lao động nông nghiệp (chiếm 89%

cơ cấu lao động ngành nghề). Thời gian dành cho sản xuất nông nghiệp chỉ

chiếm 1/3 đến 1/2 thời gian lao động sản xuất trong một năm. Nhìn chung

lực lƣợng lao động của Sa Pa dồi dào, nhân dân cần cù lao động, song trình

độ canh tác còn thấp.

Tỷ lệ tăng dân số của huyện năm 2000 là 2,95%. So với toàn tỉnh Lào

Cai, tỉ lệ này vẫn còn ở mức cao, nhƣng so với năm 1995 đã có chiều hƣớng

giảm (tỷ lệ tăng dân số huyện Sa Pa năm 1995 trên 3%). Với số dân và số

diện tích tự nhiên toàn huyện, mật độ dân số trong toàn huyện là 54,9

ngƣời/km2. Dân cƣ phân bố không đều, phần lớn tập trung ở vùng thấp ven

đƣờng giao thông.

Về thành phần dân tộc: Huyện Sa Pa có 6 dân tộc, gồm các dân tộc:

H'mông, Dao, Giáy, Kinh, Phù Lá (ngƣời Xá Phó), Tày, trong đó dân tộc

H'mông chiếm 54,9% dân số toàn huyện, dân tộc Dao 25,6%, dân tộc Kinh

13,6%, dân tộc Tày 3%, dân tộc Giáy 1,6%, dân tộc Phù Lá (Xá Phó) 1,2%,

ngoài ra còn một số dân tộc khác chiếm 0,1%.



25



Về địa bàn cƣ trú: Ngƣời Kinh cƣ trú tập trung tại thị trấn, sống bằng

nghề nông nghiệp, dịch vụ thƣơng mại và du lịch. Các dân tộc khác cƣ trú

chủ yếu ở 17 xã vùng nông thôn2, sống bằng nghề nông nghiệp và nghề rừng

[3-10]. Cả 17 xã vùng nông thôn đều đƣợc xếp vào diện các xã đặc biệt khó

khăn của huyện Sa Pa và của tỉnh Lào Cai.

1.2.2- Đời sống kinh tế - văn hoá - xã hội:

Nhìn chung, kinh tế Sa Pa chƣa phát triển đúng với tiềm năng sẵn có

của nó. Ngƣời dân phần nhiều vẫn theo các phƣơng thức lao động sản xuất

truyền thống. Cơ cấu ngành nghề khá đơn giản, chủ yếu dựa vào nông - lâm

nghiệp. Đất canh tác nông nghiệp hiện nay của cả huyện chỉ chiếm 10,8%

diện tích tự nhiên, trong đó 45% là đất trồng lúa nƣớc (1400 ha) và 39% là

đất nƣơng mà chủ yếu là nƣơng ngô [34]. Phần lớn đất bị rửa trôi bạc màu.

Điều kiện khí hậu rất khắc nghiệt về mùa đông, trong 1 năm chỉ trồng đƣợc

1 vụ lúa (cây lƣơng thực chủ đạo). Vì thế, lƣơng thực bình quân chỉ đủ cung

cấp từ 6 đến 10 tháng cho các hộ nông dân ở đây.

Theo phƣơng thức sản xuất trƣớc đây, vào thời điểm giáp hạt, ngƣời

nông dân dựa chủ yếu vào các sản phẩm khai thác đƣợc từ rừng tự nhiên

nhƣ: gỗ, nấm, măng, các loại cây dƣợc liệu, cây cảnh, mật ong, củi, thịt thú

rừng... một phần để sử dụng, một phần đem bán lại hoặc trao đổi lấy những

vật dụng cần thiết khác. Vì thế, tài nguyên rừng ở Sa Pa bị giảm sút một

cách nhanh chóng.

Nắm bắt đƣợc tình hình trên, nhằm hạn chế nạn phá rừng, cải thiện

đời sống cho ngƣời dân miền núi, Nhà nƣớc và chính quyền huyện Sa Pa đã

cố gắng tìm nhiều biện pháp giúp dân xoá đói, giảm nghèo, ổn định đời sống

và nâng cao thu nhập. Nhiều dự án đầu tƣ của các chƣơng trình định canh

2



Ngoài thị trấn Sa Pa, huyện Sa Pa còn bao gồm 17 xã: Lao Chải, Tả Van, Hầu Thào, Sử Pán, Trung Chải,

Sa Pả, Tả Phìn, Bản Khoang, Tả Giàng Phình, Thanh Kim, Bản Phùng, Bản Hồ, Thanh Phú, Nậm Sài, Nậm

Cang, Suối Thầu, San Sả Hồ.



26



định cƣ, chƣơng trình trồng rừng và phát triển lâm nghiệp, chƣơng trình

khuyến nông của Nhà nƣớc cũng nhƣ của một số tổ chức phi chính phủ, các

tổ chức quốc tế đã và đang đƣợc thực hiện ở nhiều xã trong huyện.

Hoạt động sản xuất nông, lâm nghiệp là hoạt động sản xuất chính của

các xã đặc biệt khó khăn huyện Sa Pa, chiếm 67% cơ cấu kinh tế của huyện.

Kết quả sản xuất nông nghiệp qua giai đoạn từ 1995 - 1998 thể hiện nhƣ sau:

Diện tích canh tác nông nghiệp năm 1998 là 3.354 ha, tăng so với năm

1995 là 305 ha, bao gồm: Đất trồng cây hàng năm : 2.853 ha; Đất vƣờn tạp:

330 ha; Đất trồng cây lâu năm: 157 ha; Đất nông nghiệp khác: 24 ha. Đối

với diện tích trồng cây lƣơng thực năm 1998 là 3.251 ha, tăng so với năm

1995 là 398 ha, diện tích cấy lúa ruộng là 1.574 ha với toàn bộ diện tích cấy

lúa 1 vụ.

Trong cơ cấu cây trồng, ngoài loại cây trồng chủ yếu là cây lúa nƣớc,

còn nhiều loại cây trồng khác nhƣ cây lúa nƣơng, cây ngô, khoai, đao, đậu;

các cây công nghiệp ngắn ngày (đậu tƣơng, lạc, lanh); cây công nghiệp dài

ngày (chè, quế, trẩu, thảo quả) và các cây ăn quả nhƣ: đào, lê, mận, nho...

Do diện tích đất canh tác nông nghiệp ít ỏi, chủ yếu là đất dốc và

ruộng bậc thang nên hoạt động sản xuất nông nghiệp ở Sa Pa có nhiều khó

khăn hơn so với các huyện vùng thấp của tỉnh Lào Cai. Điều đó dẫn đến sản

lƣợng nông nghiệp đạt đƣợc không cao. Bên cạnh đó, cây lâu năm, cây dƣợc

liệu đƣợc coi là thế mạnh của huyện, còn chiếm tỷ trọng thấp. Trong vài

năm trở lại đây, do những cải tiến kỹ thuật nhƣ đƣa một số cây lƣơng thực

vụ xuân vào trồng trên đất ruộng một vụ, đƣa một số loài cây trồng có năng

xuất cao, có sức đề kháng sâu bệnh tốt, từng bƣớc thay thế các giống cây

lƣơng thực năng xuất thấp, nên sản lƣợng lƣơng thực của huyện Sa Pa đã có

sự chuyển biến đáng kể. Số liệu về tỉ lệ tăng năng xuất lúa thu hoạch hàng

năm của huyện cho thấy: năng xuất lúa ruộng năm 1995 là 26,2 tạ/ha, đến

27



năm 1998 tăng lên là 32,5 tạ/ha; tốc độ tăng năng xuất bình quân mỗi năm là

8% [31].

Ngƣợc lại, diện tích lúa nƣơng mấy năm gần đây có xu hƣớng bị giảm

dần năm 1995 là 170 ha đến năm 1998 chỉ còn 150 ha, do tình trạng xói mòn

đất.

Sau cây lúa, cây ngô là một trong những cây trồng chủ đạo, đƣợc

ngƣời dân chú ý tăng mạnh diện tích trồng. Tính từ năm 1995, diện tích đất

trồng ngô là 930 ha thì đến năm 1998 đã lên đến 1.065 ha. Năng xuất bình

quân tăng từ 1,5 tạ/ha (1995) lên 13 tạ/ha (1998). Hiện nay, một số giống

ngô mới đang bắt đầu đƣợc trồng, năng xuất tăng gấp 2 lần.

Đối với cây thực phẩm và cây công nghiệp ngắn ngày: Trong các năm

trƣớc, việc sản xuất cây thực phẩm chỉ tập trung ở gần trung tâm huyện, chủ

yếu trồng các loại rau ƣa lạnh. Trong vài năm trở lại đây, do nhu cầu hạt

giống các loại nhƣ su hào, cải bắp, rau cải... giảm, ngƣời dân cũng giảm dần

diện tích trồng cây thực phẩm. Nhằm mục đích thay đổi cơ cấu cây trồng,

thâm canh tăng vụ, huyện Sa Pa đã khuyến khích nông dân trồng các loại

cây nhƣ khoai tây, rau, đậu các loại. Tuy diện tích trồng các loại cây này

ngày một gia tăng, nhƣng năng xuất đạt đƣợc không ổn định. Các loài cây ăn

quả nhƣ: mận, táo tây, đào, lê... rất phù hợp với điều kiện khí hậu, đất đai

nhƣng hiệu quả đạt đƣợc còn quá thấp so với tiềm năng vốn có. Cây chè Sa

Pa vốn là loại chè đặc sản, nhƣng mãi đến năm 1998 mới đƣợc khôi phục và

bắt đầu trồng thử nghiệm trên 10 ha. Cây Thảo quả, một loại cây có giá trị

kinh tế lớn, mang lại hiệu quả thực sự cho ngƣời dân, từ lâu đã đƣợc trồng ở

Sa Pa và hiện nay tiếp tục đƣợc nhân rộng. Theo số liệu của Phòng nông

nghiệp huyện Sa Pa: năm 1998, toàn huyện Sa Pa có 720 ha trồng thảo quả,

tăng so với năm 1995 là 420 ha; sản lƣợng thảo quả năm 1998 là 94 tấn, tăng

so với năm 1995 là 53 tấn. Trồng và sản xuất cây dƣợc liệu là thế mạnh của

28



Sa Pa, nhƣng do thị trƣờng không ổn định nên diện tích trồng cây dƣợc liệu

thƣờng thay đổi theo từng năm.

Hiện nay, Sa Pa đã hình thành một số vùng sản xuất cây trồng tập

trung và bƣớc đầu mang tính chất sản xuất hàng hoá nhƣ: Vùng trồng cây

chè tập trung ở Sa Pả, Tả Phìn, Trung Chải; Vùng cây ăn quả (đào, lê, mận)

tập trung ở Tả Phìn, Sa Pả, Trung Chải, Hầu Thào, Tả Van, Lao Chải, San

Sả Hồ; vùng trồng rau xanh ở Sa Pả và Hầu Thào.

Về chăn nuôi, từ bao đời nay, cƣ dân Sa Pa chủ yếu duy trì phát triển

đàn vật nuôi (gia súc, gia cầm) theo hƣớng chăn nuôi hộ gia đình, với

phƣơng thức nuôi thả rông. Theo số liệu thống kê của phòng Nông nghiệp

huyện Sa Pa, năm 1998, toàn huyện có 6130 con trâu, 985 con bò, 2.050 con

ngựa, 3.550 con dê, đàn lợn 7.750 con, đàn gia cầm 48.700 con. Giá trị sản

lƣợng ngành chăn nuôi năm 1998 đạt 9.500 triệu đồng, tăng hơn năm 1995

là 1.720 triệu đồng. Trong chăn nuôi, nuôi lợn chiếm tỷ trọng lớn, giá trị sản

lƣợng là 4.370 triệu đồng, bằng 46% giá trị ngành chăn nuôi. Về tốc độ phát

triển ngành chăn nuôi hàng năm so với năm 1995, 1996, 1997, đại gia súc

tăng 4,5%; gia cầm tăng 7%; sản lƣợng thịt tăng 9%.

Bảng: Số liệu về thực trạng nông nghiệp của huyện Sa Pa từ năm 19951998.

Hạng mục



Giá trị sản phẩm



Tỷ trọng %



(triệu đồng)



Tăng so với

năm 1995 %



Toàn ngành nông nghiệp



33.400



100,0



30



Ngành Trồng trọt



23.900



72



33



Ngành Chăn nuôi



9.500



28



18



Nguồn: Phòng Nông nghiệp Huyện Sa Pa

Qua những cứ liệu đƣợc phân tích ở trên cho thấy, nhìn chung những

năm gần đây, ngành sản xuất nông nghiệp của huyện Sa Pa đã có hƣớng phát

29



triển mạnh năm sau cao hơn năm trƣớc. Tuy nhiên, tốc độ phát triển vẫn còn

ở mức thấp. Biểu hiện cụ thể ở năng suất đạt đƣợc của chăn nuôi và trồng

trọt còn thấp và không ổn định. Một số sản phẩm có ƣu thế của huyện nhƣ:

dƣợc liệu, rau giống lại có xu thế giảm dần và thu hẹp diện tích. Cơ cấu

nông nghiệp chủ yếu là trồng trọt, tỷ trọng sản phẩm chăn nuôi mới đạt 28%

tổng giá trị nông nghiệp; tỷ trọng cây lâu năm mới đạt 5% giá trị ngành

trồng trọt.

Đối với sản xuất lâm nghiệp, trong những năm gần đây, chính quyền

huyện đã thực hiện chính sách giao khoán đất rừng và trồng rừng cho nhân

dân. Bên cạnh đó, ngƣời dân địa phƣơng, đặc biệt nhân dân các dân tộc sống

ở các xã ngoài thị trấn càng ngày càng nhận thức đƣợc vị trí, tác dụng của

rừng đối với đời sống và môi trƣờng sinh thái của bản thân mình. Do vậy tỉ

lệ đất trống, đồi núi trọc đã giảm đi đáng kể. “Năm 1995, diện tích đất có

rừng là 22.573 ha, trong đó rừng trồng là 2.030 ha, tỉ lệ che phủ là 35%. Đến

năm 1998, diện tích đất có rừng là 27.529 ha, trong đó rừng tự nhiên có

23.530 ha, rừng trồng là 3.534 ha, tỉ lệ che phủ là 37%. Hiện nay đất có khả

năng lâm nghiệp còn trống là 22.164 ha” [33].

- Về kinh tế trang trại, kinh tế hộ gia đình:

Trong vài năm trở lại đây, nhìn tổng thể, kinh tế vƣờn đồi, trang trại

tại huyện Sa Pa đã có xu hƣớng phát triển, chủ yếu với 3 loại hình trang trại:

Vƣờn - đồi - chuồng; Vƣờn rừng; Vƣờn - ao - chuồng. Song thực chất sự

phát triển này không mang tính ổn định và bền vững cả về số lƣợng và quy

mô diện tích trang trại. Thậm chí có những trang trại vừa lập lên năm trƣớc,

năm sau đã không duy trì đƣợc sản xuất. Nguyên nhân của sự không ổn định

đó bởi trình độ, kiến thức tổ chức sản xuất của ngƣời dân cũng nhƣ chất

lƣợng sản phẩm làm ra còn thấp chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu đòi hỏi của thị

trƣờng. Mặt khác do những điều kiện khách quan nhƣ vốn đầu tƣ sản xuất và

30



đầu ra cho sản phẩm chƣa đƣợc quan tâm thích đáng. Do vậy, bên cạnh

những hộ đạt danh hiệu hộ gia đình sản xuất giỏi (358 hộ), danh hiệu hộ gia

đình nghèo vƣợt khó (56 hộ), vẫn tồn tại số lƣợng lớn hộ gia đình đói nghèo

(1.953 hộ) – (Số liệu Phòng Nông nghiệp huyện Sa Pa). Tỷ lệ hộ đói nghèo

trong toàn huyện là 40,2%, trong đó hộ đói là 16,5%. Nguyên nhân của tình

trạng trên vẫn là lao động thiếu việc làm, thiếu sức kéo, ốm đau, thiếu vốn

sản xuất, không biết cách làm ăn và lƣời lao động.

Bảng: Số liệu về tình hình phát triển kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại

17 xã đặc biệt khó khăn huyện Sa Pa.

Số

TT



Chỉ tiêu



ĐV

tính



Chia theo các năm

1996



1997



1998



1

*



Kinh tế hộ gia đình

Số hộ sản xuất giỏi



hộ



67



117



174



*

2



Hộ giỏi cấp huyện

hộ

Hộ giỏi cấp tỉnh

hộ

Thu nhập bình quân hộ Tr/đ

Kinh tế trang trại



42

25

2,85



73

44

3,0



111

63

3,3



*



Loại hình trang trại



-



Vƣờn - đồi - chuồng



T.trại



3



-



Vƣờn rừng







2



23



8



-



Vƣờn - ao - chuồng







1



9



*



Quy mô T/trại (B/Q)



-



Vƣờn - đồi - chuồng



ha



6,5



-



Vƣờn rừng







7,0



57,8



-



Vƣờn - ao - chuồng







3,5



22,7



31



17,5



Ghi chú



Năm 97,98 có

56 hộnghèo

vƣợt khó



T/đó có

2nhóm hộ



3



Số hộ đói, nghèo



-



Số hộ đói



hộ



1054



963



802



-



Số hộ nghèo



hộ



1520



1275



1151



Nguồn: Phòng Nông nghiệp Huyện Sa Pa

Lý giải cho con số hộ đói nghèo trên có rất nhiều cách, song có lẽ

nguyên nhân chính là ở phƣơng thức sản xuất nông nghiệp của ngƣời dân đã

lạc hậu. Mặt khác, ngƣời dân vẫn giữ thói quen khai thác nguồn lợi có sẵn

trong tự nhiên phục vụ đời sống. Trong khi cuộc sống của ngƣời nông dân

Sa Pa chủ yếu dựa vào canh tác nông nghiệp với vai trò chủ đạo của cây lúa,

thì bởi các điều kiện tự nhiên, cây lúa chỉ trồng đƣợc một vụ trong năm. Bên

cạnh cây lúa, ngƣời nông dân chƣa quan tâm phát triển các loại cây trồng có

đặc tính kinh tế cao nhƣ rau quả và dƣợc liệu quý... Do đó, ở Sa Pa vẫn còn

tình trạng ngƣời dân du canh du cƣ, định cƣ du canh. Điều kiện sống của họ

hết sức khó khăn, nhà cửa sinh hoạt chủ yếu là nhà gỗ tạm và nhà tranh tre

nứa lá. Tính đến năm 1998, vùng nông thôn ngoài thị trấn Sa Pa chƣa có nhà

xây kiên cố.

- Về các ngành nghề thủ công:

Trong truyền thống, do tập quán tự cấp tự túc, ngƣời nông dân không

chỉ làm ra lƣơng thực để nuôi sống bản thân mà còn làm ra những phƣơng

tiện phục vụ sản xuất, sinh hoạt, nhƣ: cuốc, dao, sọt, gùi ... và trồng cây lanh

để lấy sợi dệt vải, may áo. Những công việc đó đƣợc làm tại gia đình, phục

vụ các nhu cầu thiết yếu của gia đình. Ngày nay, với sự phát triển của xã hội

nói chung và sự phát triển của kinh tế du lịch nói riêng, một số sản phẩm từ

việc dệt thổ cẩm, đồ mây tre đan là nghề truyền thống của đồng bào dân tộc

ở Sa Pa đƣợc khách du lịch rất ƣa chuộng. Đặc biệt, với sự tác động tích cực



32



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (154 trang)

×