Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (739.32 KB, 78 trang )
chủ nghĩa duy vật lịch sử, về giá trị thặng dư… còn chưa xuất hiện hoặc
chưa chín muồi.
Có thể khẳng định Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844 có vai trò hết
sức quan trọng: Là cơ sở lí luận, là điểm xuất phát cho toàn bộ quá trình
nghiên cứu lí luận sau này của C. Mác nói riêng, cho sự hình thành chủ
nghĩa Mác với tư cách là hệ thống lí luận độc lập nói chung. Tác phẩm chứa
đựng nhiều tư tưởng nhân văn vô cùng quan trọng và sâu sắc. Tác phẩm thể
hiện tính quá độ đó là sự kế thừa có chọn lọc tư tưởng trước Mác mà tiêu
biểu là Hêghen và Phoiơbắc.
Ngoài phần lời tựa, tác phẩm gồm 3 bản thảo: Bản thảo thứ nhất (I.
Tiền công; II. Lợi nhuận của tư bản; III. Địa tô; và lao động bị tha hóa); Bản
thảo thứ hai (Quan hệ sở hữu tư nhân); Bản thảo thứ ba (Bản chất của chế
độ tư hữu trong sự phản ánh của kinh tế chính trị học; chủ nghĩa cộng sản và
nhu cầu, sản xuất và phân công lao động).
Khi viết tác phẩm này, C. Mác có mục đích phê phán lý luận đương
thời về kinh tế, chính trị, pháp quyền và một phần phê phán quan niệm của
Phoiơbắc và Hêghen. Điều đó có nghĩa là bàn về vấn đề con người không
phải là ý định chính của C. Mác. Chính vì vậy, những tư tưởng của C. Mác
về con người trong tác phẩm này chưa được trình bày thành một cách hệ
thống nên ít nhiều gây khó khăn cho việc nghiên cứu. Tuy nhiên, khi đề cập
đến vấn đề con người trong triết học Mác, chúng ta không thể bỏ qua tác
phẩm này bởi tầm vóc và ý nghĩa của nó. Chẳng hạn, về khái niệm con
người - một thực thể tự nhiên có tính người; về tính loài của con người - con
người cá nhân và con người xã hội; về tha hóa - lao động bị tha hóa và sự
tha hóa của con người. Cho dù trong tác phẩm này, những quan niệm về con
người giai cấp, về cách mạng xã hội, về giá trị thặng dư… còn chưa xuất
hiện hoặc chưa chín muồi, nhưng những tư tưởng về con người lại rất phong
phú - có thể nói là một kho tàng những tri thức cơ bản (phương pháp luận về
con người) đủ cho chúng ta nghiên cứu khai thác, đặc biệt là những nội
dung mà sau đó C. Mác không có dịp đề cập đến.
25
Qua phân tích nội dung tác phẩm cho thấy, C. Mác tập trung vào
những vấn đề sau: Phê phán những quan niệm duy tâm trong triết học
Hêghen, đồng thời chỉ ra mặt tích cực của nó là phép biện chứng; Trên cơ sở
tiếp thu và phê phán quan niệm triết học của Hêghen và Phoiơbắc, C. Mác
đưa ra quan niệm sâu sắc về con người; Trên cơ sở phân tích bản chất của
tiền công, của lợi nhuận và địa tô tư bản. C. Mác vạch rõ bản chất bóc lột và
tình trạng tha hóa lao động trong chủ nghĩa tư bản. Thông qua phân tích sự
tha hóa của lao động, C. Mác đã chỉ ra hậu quả và nguyên nhân của tha hóa
lao động trong chủ nghĩa tư bản là dẫn đến sự tha hóa bản chất con người.
Qua sự phân tích của ông về tha hóa lao động đã lột tả bản chất của phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa với những mặt hạn chế của nó. Mặc dù trong
tác phẩm vẫn chưa có sự phân tích về các hình thức lịch sử của chế độ tư
bản, song khái niệm “chủ nghĩa cộng sản” đã được ông gắn liền không phải
với sự phủ định chế độ tư hữu tự nó, mà với sự phủ định hình thức cao nhất
của nó (chế độ tư hữu tư sản).
Với nhận thức sâu sắc về bản chất và vai trò của lao động, C. Mác
đã có được cơ sở chắc chắn cho những tư tưởng mà ông rút ra trước đây.
Đó là những tư tưởng cho rằng, "xã hội công dân" và gia đình là cơ sở
của nhà nước và pháp quyền, quần chúng nhân dân là lực lượng cơ bản
của "xã hội công dân". Đặc biệt, quan niệm về lao động ấy còn là cơ sở
vững chắc cho quan niệm về sự phát triển lịch sử nói chung. Từ những tư
tưởng này, một hệ thống lý luận khoa học về lịch sử đã được vạch ra trong
Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844 dưới hình thức mầm mống, "bào thai"
của nó.
* Quan niệm về tha hóa lao động là một trong những nội dung cơ
bản của tác phẩm Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844
Khái niệm và nội dung tha hóa lao động được C. Mác phân tích khá
rõ trong tác phẩm Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844. Đây là tác phẩm có
ý nghĩa lớn đối với sự phát triển của chủ nghĩa duy vật lịch sử và phép biện
chứng duy vật. Tác phẩm đánh dấu bước phát triển nhảy vọt về chất trong
26
quan niệm tha hóa từ Hêghen, Phoiơbắc đến Mác. C. Mác không dừng lại ở
sự phê phán tha hóa tôn giáo, tha hóa chính trị - xã hội, mà cùng với sự hình
thành quan niệm duy vật lịch sử, ông đi đến cơ sở của mọi dạng tha hóa tha hóa kinh tế. Ngay từ đầu, nội dung kinh tế của phạm trù tha hóa đã mang
tính giai cấp rõ ràng, đó là: sự tha hóa của sản phẩm lao động khỏi sản xuất,
sự tha hóa của chính hoạt động sản xuất, các quan hệ xã hội bị tha hóa nô
dịch con người. Qua những phân tích đó ông chỉ ra bản chất, hậu quả của
tha hóa lao động là dẫn đến tha hóa bản chất loài của con người và sự xa lạ
của con người đối với con người. C. Mác coi sự tha hóa lao động là phạm
trù cơ bản để khảo sát mối quan hệ nội tại giữa tích lũy tư bản và sự bần
cùng hóa công nhân.
Từ những phân tích trên đây, C. Mác đã luận chứng cho tính tất yếu
của chủ nghĩa cộng sản trong sự phát triển của xã hội. Mặc dù luận chứng
này chưa chín muồi về mặt lý luận, song đã cho phép phân biệt quan niệm
của C. Mác về chủ nghĩa cộng sản với những quan niệm của chủ nghĩa bình
quân vốn có của các môn phái chủ nghĩa cộng sản không tưởng. Theo C.
Mác, chủ nghĩa cộng sản dựa trên sự phát triển cao của nền sản xuất xã hội,
là nấc thang lịch sử cao hơn chủ nghĩa tư bản.
27
Kết luận Chương 1:
Tác phẩm Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844 có ý nghĩa to lớn đối
với sự phát triển quan niệm duy vật lịch sử của triết học Mác. Một trong
những nội dung cơ bản mà C. Mác đề cập đến trong tác phẩm là quan niệm
về tha hóa lao động - nền tảng của mọi dạng tha hóa trên các lĩnh vực tinh
thần, tôn giáo, chính trị - xã hội. Quan niệm về tha hóa của C. Mác là sự kế
thừa tư tưởng của các nhà triết học trước ông về vấn đề đó, mà trực tiếp là
quan niệm tha hóa của Hêghen và Phoiơbắc. Mặc dù Hêghen là người đã sử
dụng một cách thuần thục khái niệm này trong hệ thống triết học của mình,
nhưng ông lại xuất phát từ lập trường duy tâm khách quan, từ ý niệm tuyệt
đối để lí giải sự tha hóa. Còn ở Phoiơbắc, xuất phát trong việc lí giải về sự
tha hóa là con người với tình yêu thương của nó và điểm kết thúc là tôn giáo
tình yêu và sự tha hóa mà ông đề cập đến là tha hóa tôn giáo. Trên cơ sở kế
thừa quan niệm của các nhà triết học đi trước, từ thực tiễn của xã hội tư bản
chủ nghĩa, C. Mác đưa ra quan niệm về nền tảng của mọi dạng tha hóa trên
lĩnh vực tinh thần, ý thức là tha hóa lao động.
Quan niệm tha hóa lao động của C. Mác là kết quả của sự phản ánh
hiện thực của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Tính chất hai mặt của nền sản
xuất tư bản chủ nghĩa đối với sự phát triển con người chính là cơ sở thực
tiễn cho những nghiên cứu của C. Mác về tha hóa lao động.
Những nghiên cứu của C. Mác về biểu hiện, bản chất và phương thức
xóa bỏ tha hóa lao động trong xã hội tư bản, chúng ta sẽ tìm hiểu ở chương
2 của luận văn.
28
CHƯƠNG 2: SỰ PHÂN TÍCH CỦA C. MÁC VỀ BIỂU HIỆN
CỦA THA HÓA LAO ĐỘNG VÀ CON ĐƯỜNG KHẮC PHỤC
THA HÓA LAO ĐỘNG TRONG TÁC PHẨM BẢN THẢO
KINH TẾ - TRIẾT HỌC NĂM 1844
2.1 Sự phân tích của C. Mác về biểu hiện của tha hóa lao động
Trong tác phẩm Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844, đối tượng
nghiên cứu của C. Mác là sự tha hóa của người công nhân làm thuê trong xã
hội tư bản. Từ những phân tích về xã hội công nghiệp ở các nước tư bản
phương Tây đầu thế kỷ XIX cùng những mâu thuẫn nội tại dẫn đến sự
khủng hoảng của nó, trong Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844, C. Mác đã
đề cập đến “sự tha hóa lao động” với tư cách là sản phẩm trực tiếp của xã
hội tư bản với những đặc trưng riêng của xã hội đó.
Theo C. Mác, tha hóa là hình thức biểu thị phổ biến về phương diện
xã hội tính không tương dung về lợi ích giữa nhà tư bản và người công nhân
làm thuê. Tha hoá là hiện tượng sản sinh ra trong những điều kiện nhất định,
là sản phẩm của chế độ tư hữu, trong đó người lao động bị chính sản phẩm
lao động của mình, bị chính hoạt động của mình nô dịch. Sau này trong Hệ
tư tưởng Đức, tha hoá được khái quát là sự đối lập xa lạ của những lực
lượng xã hội với con người, những lực lượng ở bên ngoài mà con người
không thể chế ngự được, những lực lượng chẳng những độc lập với ý chí và
hành động của con người mà còn điều khiển ý chí và hành động đó.
Trong Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844 cũng chỉ rõ, khái niệm
lao động đã bị các nhà lí luận xem xét chỉ dưới hình thức hoạt động có được
tiền công, chứ không phải là hoạt động bản chất của con người. C. Mác đã
đem lại cho khái niệm lao động một ý nghĩa rộng lớn hơn mà nhờ đó nó có
được địa vị của một khái niệm triết học. Theo C.Mác, lao động được hiểu
với tư cách là sự đối tượng hóa con người, bản chất con người. Lao động là
quá trình con người biến đổi đối tượng tự nhiên thành sản phẩm thỏa mãn
nhu cầu vật chất, là phương tiện thể hiện bản chất con người, là quá trình
chủ thể hóa đối tượng (tái sản xuất ra chính bản thân con người).
29
C. Mác phân tích tha hóa lao động biểu hiện trên hai phương diện: sự
tha hóa của người công nhân đối với sản phẩm của anh ta và tha hóa trong
hành vi sản xuất, trong bản thân hoạt động sản xuất.
2.1.1 Sự tha hóa của người công nhân đối với sản phẩm lao động
Nghiên cứu của C. Mác về sự tha hóa của người công nhân đối với
sản phẩm lao động xuất phát từ sự kiện kinh tế trong xã hội tư bản chủ
nghĩa: Người công nhân sản xuất càng nhiều của cải, sức mạnh và khối
lượng sản phẩm của anh ta càng tăng thì anh ta càng nghèo. Người công
nhân càng tạo ra nhiều hàng hóa, anh ta lại trở thành một hàng hóa càng rẻ
mạt. Theo C. Mác, sự kiện trên đây là biểu thị sự tha hóa của người công
nhân đối với sản phẩm lao động. Sự tha hóa đó có liên hệ mật thiết với hiện
tượng vật hóa. “Sản phẩm lao động là lao động được cố định, được vật hóa
trong một vật phẩm nào đó, đó là sự vật hóa của lao động” [57, tr. 128].
Tiến hành lao động là vật hóa lao động tức hoạt động của chủ thể (hoạt động
sản xuất của con người) tạo ra một sản phẩm hoặc một đối tượng nào đó.
Hoạt động lao động là hoạt động căn bản, quan trọng của loài người nhằm
duy trì sự tồn tại của bản thân. Giới tự nhiên cung cấp cho lao động tư liệu
để trong đó hoạt động lao động được triển khai, từ đó và nhờ đó mà lao
động sản xuất ra sản phẩm, theo nghĩa hẹp hơn giới tự nhiên cung cấp tư
liệu để tồn tại về mặt thể xác cho người công nhân. Sản phẩm mà người
công nhân tạo ra thông qua lao động có ý nghĩa thỏa mãn nhu cầu vật chất
và qua đó mà họ sáng tạo ra giới tự nhiên thứ hai. Như vậy, sản phẩm lao
động bắt nguồn từ các đối tượng tự nhiên, là kết tinh lao động của con
người, là kết quả của quá trình lao động, là kết quả của sự vật hóa, đối tượng
hóa bản chất con người. Nhưng, trong chế độ tư bản chủ nghĩa, người công
nhân không có tư liệu sản xuất, vì vậy phải nhận tư liệu sản xuất từ nhà tư
bản. Trong điều kiện đó, sản phẩm lao động (lao động vật hóa) lại không
thuộc về người công nhân mà thuộc về giai cấp tư sản. Theo nghĩa đó, trong
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, người công nhân trở thành nô lệ của
“vật” về hai phương diện: Một là anh ta nhận được một “vật” để lao động,
30
nghĩa là nhận được việc làm; hai là anh ta nhận được những tư liệu sinh hoạt
từ người chủ của anh ta. Do đó, chỉ có “vật” do người chủ cung cấp mới
đem lại cho người công nhân khả năng lao động để sinh tồn, một là như một
người công nhân và hai là như một chủ thể thể xác. Chỉ với tư cách người
công nhân, anh ta mới có thể duy trì được sự tồn tại của mình như một chủ
thể thể xác và chỉ có với tư cách là chủ thể thể xác anh ta mới là công nhân.
Sản phẩm của lao động chính là kết quả của sự vật hóa lao động.
Trong quá trình đối tượng hóa bản thân mình vào thế giới đối tượng, vào sản
phẩm lao động, và thông qua quá trình trao đổi, hưởng thụ sản phẩm ấy con
người quan hệ với nhau, tiếp nhận tính chất người kết tinh trong sản phẩm
của họ. Nhưng sản phẩm đó lại không thuộc về người lao động mà thuộc về
người chủ sở hữu tư liệu sản xuất, sản phẩm đó trở nên xa lạ, thậm chí đối
địch với người lao động. Hiện tượng tha hóa có mối liên hệ chặt chẽ với
hiện tượng bóc lột sức lao động trong xã hội tư bản thông qua mối quan hệ
giữa người chủ và người làm thuê. “Sự tha hóa thể hiện ở chỗ tư liệu sinh
hoạt của tôi thuộc về người khác, ở chỗ đối tượng mong muốn của tôi là vật
sở hữu của người khác mà tôi không với tới được, cũng như ở chỗ bản thân
mỗi vật hóa ra là một cái khác với bản thân nó” [57, tr. 196].
Những phân tích trên đây cho thấy, sự tồn tại của đối tượng hóa (vật
hóa) - kết quả lao động của người lao động đã cung cấp cho người khác khả
năng chiếm hữu kết quả của lao động ấy, cộng thêm sự tách rời của chủ thể
lao động đối với đối tượng sẽ biến khả năng bị người khác chiếm hữu sản
phẩm lao động của người lao động thành hiện thực. Thông qua chiếm hữu
đối tượng lao động (tư liệu sản xuất) là chiếm hữu được kết quả lao động
của người khác. Trong chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, đối
tượng lao động thuộc về giai cấp tư sản. Như vậy, sự tách rời giữa người lao
động và tư liệu lao động là nguyên nhân trực tiếp làm nảy sinh sự tha hóa.
Sự tha hóa sản phẩm lao động đối với người công nhân biểu hiện ở
chỗ: “sản phẩm của lao động, đối lập với lao động như một thực thể xa lạ,
như một lực lượng không phụ thuộc vào người sản xuất” [57, tr. 128]. Trong
31
điều kiện đó, sự vật hóa biểu hiện ra là mất vật phẩm và sự bị vật phẩm nô
dịch.
Trong Những nguyên lý kinh tế chính trị học (1857 - 1858), C. Mác
cũng khẳng định đối tượng do lao động sản xuất ra, tức là sản phẩm, bây giờ
trở thành đối lập với nó như một sự vật xa lạ, như một quyền lực đối lập với
người sản xuất… Thế giới con người bị mất dần giá trị so với thế giới sự vật
tăng dần giá trị.
Trong Tư bản, vấn đề tha hóa lao động được C. Mác luận giải dưới
hình thức “sùng bái hàng hóa”. Bái vật giáo là hiện tượng gắn liền với nền
sản xuất hàng hóa. Trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, sự sùng bái hàng
hóa đạt đến trạng thái cao nhất. C. Mác ví tính chất bái vật giáo hàng hóa
giống như lĩnh vực tôn giáo, sản phẩm con người tạo ra (vật hóa) trở thành
cái gì đó độc lập, thậm chí thống trị đối với con người. Theo C. Mác, giá trị
của một sản phẩm hàng hóa là do lao động trừu tượng của người lao động
tạo nên, nó là lao động xã hội của người lao động kết tinh trong hàng hóa.
Vì vậy thực chất đối với hàng hóa, quan hệ giá trị giữa những sản phẩm lao
động được biểu hiện ra chỉ là một quan hệ xã hội nhất định của con người,
nhưng dưới con mắt của họ thì mối quan hệ ấy lại mang dáng vẻ kỳ ảo của mối
quan hệ giữa các vật.
Với lý luận giá trị, trong Tư bản, C. Mác đi sâu phân tích toàn bộ bí
mật của tính chất bái vật giáo của hàng hóa và đồng thời thực hiện sự phê
phán mạnh mẽ quan niệm của kinh tế học tư sản về vấn đề đó.
Như vậy, theo C. Mác, sự tha hóa của người công nhân trong sản
phẩm lao động biểu hiện ở sự thống trị của sản phẩm lao động đối với người
sản xuất. Từ chỗ là chủ thể của sản phẩm lao động, người công nhân trở
thành người phụ thuộc vào sản phẩm, thậm chí nó uy hiếp sự tồn tại của
chính anh ta “theo lý luận thì toàn bộ sản phẩm của lao động là thuộc về
công nhân. Nhưng (…) trong thực tế, người công nhân chỉ nhận được phần
nhỏ nhất – cái mà không có nó thì tuyệt đối không thể được: chỉ đúng cái
cần thiết để người công nhân tồn tại – không phải như một con người mà
32
như một công nhân và không phải để người công nhân duy trì loài người,
mà duy trì giai cấp nô lệ - giai cấp công nhân” [57, tr. 79].
Sự tha hóa biểu hiện ra là sự mất vật phẩm đến mức người công nhân
bị tước mất những vật phẩm cần thiết nhất trong cả đời sống và công việc.
Bản thân công việc cũng trở thành một vật mà anh ta chỉ có thể chiếm được
bằng một nỗ lực hết sức căng thẳng, bằng sự tranh giành thất thường không
ổn định bởi họ có thể mất việc làm bất cứ lúc nào. Việc chiếm hữu vật phẩm
là một sự tha hoá biểu hiện đến mức người công nhân sản xuất ra càng nhiều
vật phẩm thì anh ta có thể chiếm hữu càng ít vật phẩm và anh ta bị sản phẩm
của anh ta, tức tư bản thống trị càng mạnh. Sản phẩm mà người công nhân
tạo ra trong quá trình sản xuất chính là cái mong muốn của họ, nhưng lại là
vật thuộc sở hữu của người khác mà bản thân anh ta không với tới được.
Hơn nữa, mức lương mà nhà tư bản trả cho người lao động để sản xuất ra
sản phẩm đó rõ ràng là không đầy đủ giá trị của sản phẩm, điều đó đồng
nghĩa với việc mang lại lợi nhuận ngày càng nhiều cho nhà tư bản, đối
ngược lại với sự nghèo đói, bị bóc lột của người công nhân. Lao động sản
xuất ra những vật phẩm giá trị cho những người giàu, nhưng nó đồng thời
tạo ra sự bần cùng của những người công nhân, tạo ra những khu nhà ổ
chuột cho công nhân, nó sáng tạo ra cái đẹp nhưng cũng làm què quặt công
nhân. Nó thay lao động thủ công bằng máy móc, nhưng nó lại ném một bộ
phận người công nhân vào thất nghiệp và một bộ phận khác thành những cái
máy, thành bộ phận của dây chuyền sản xuất máy móc đó. “Sự tha hoá cũng
bộc lộ một phần ở chỗ sự tinh tế của những nhu cầu và thủ đoạn thoả mãn
những nhu cầu ở bên này đẻ ra ở bên kia tình trạng suy đồi thú vật, sự đơn
giản hoá nhu cầu một cách hoàn toàn nhất, một cách thô lỗ, trừu tượng, hay
nói đúng hơn, chỉ tái sản sinh ra bản thân nó trong ý nghĩa đối lập của nó”
[57, tr. 186].
Từ sự phân tích về sự tha hóa của sản phẩm lao động, C. Mác tiến
hành phê phán quan niệm của các nhà kinh tế chính trị học cổ điển về vấn đề
đó. Theo C. Mác, sự tha hóa của công nhân trong vật phẩm của mình biểu
33
hiện như sau: “công nhân càng sản xuất nhiều thì anh ta có thể tiêu dùng
càng ít, càng tạo ra nhiều giá trị thì bản thân anh ta càng mất giá trị, mất
phẩm cách, sản phẩm của anh ta tạo dáng càng đẹp thì anh ta càng què quặt,
vật do anh ta tạo ra càng văn minh thì bản thân anh ta càng giống với người
dã man” [57, tr. 131]. Sự tiến hành lao động trong thực tế biểu hiện ra việc
người công nhân mất quyền tự chủ, trí sáng tạo, họ ngày càng lệ thuộc vào
người chủ. Sự biểu hiện tha hóa ở vật phẩm là sự mất vật phẩm và sự bị vật
phẩm nô dịch, sự không được chiếm hữu vật phẩm biểu hiện ra là sự tha
hóa, sự nhượng đi. Ở thực trạng này “lao động không chỉ sản xuất ra hàng
hóa mà thôi, nó sản xuất ra bản thân nó và sản xuất ra người công nhân với
tích cách là hàng hóa, hơn nữa sản xuất theo cùng một tỷ lệ theo đó nó sản
xuất ra hàng hóa nói chung” [57, tr.128].
Quan hệ trực tiếp của lao động với sản phẩm của nó là quan hệ của
công nhân với vật phẩm anh ta sản xuất ra. Nếu như sản phẩm (kết quả) của
lao động là sự tha hóa thì bản thân hoạt động sản xuất ra sản phẩm đó cũng
bị tha hóa. Đó là sự khác biệt về chất giữa nghiên cứu của C. Mác so với các
nhà kinh tế chính trị học về vấn đề đó.
2.1.2 Tha hoá của người công nhân biểu hiện trong hành vi sản xuất,
trong bản thân hoạt động lao động
Trong Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844, chúng ta thấy rằng điểm
xuất phát để tìm hiểu sự tha hóa là từ đời sống hiện thực của con người, từ
sản xuất, cũng như tái sản xuất ra đời sống hiện thực. Với hoạt động sản
xuất, con người đã sáng tạo ra bản thân mình, nhưng trong nền sản xuất tư
bản chủ nghĩa hoạt động sản xuất đã làm tha hóa lao động, tha hóa bản chất
có tính loài của con người. Trong nền sản xuất ấy, tha hóa lao động không
chỉ biểu hiện ở sản phẩm lao động do người công nhân tạo ra, mà còn biểu
hiện trong hành vi sản xuất, trong bản thân hoạt động lao động. “Sản phẩm
của lao động là sự tha hóa thì bản thân sản xuất phải là sự tha hóa bằng hành
động, là sự tha hóa của hoạt động, là hoạt động của sự tha hóa. Sự tha hóa
của đối tượng lao động, chỉ là kết quả tổng kết sự tha hóa trong hoạt động
34
của bản thân lao động” [57, tr. 132]. Với quan niệm coi lao động tạo lập nên
bản chất con người, lao động của con người là lao động sáng tạo, C. Mác
cho rằng, trong điều kiện của xã hội tư bản chủ nghĩa, người lao động không
có tư liệu sản xuất phải làm thuê cho nhà tư bản. Sản phẩm lao động không
thuộc về người lao động mà thuộc về nhà tư bản. Thêm vào đó, do mục tiêu
lợi nhuận, nhà tư bản tăng cường bóc lột công nhân. Chính trong điều kiện
đó, lao động không còn là hoạt động bản chất người nữa mà trở thành hoạt
động cưỡng bức, hoạt động ở bên ngoài người lao động. Hoạt động lao động
trở thành hoạt động xa lạ, đối lập với người lao động như một đời sống đối
địch và xa lạ “trong chừng mực mà mục đích của lao động chỉ là tăng thêm của
cải, thì bản thân lao động là có hại và tai hại” [57, tr. 80].
Và như vậy, thông qua hoạt động lao động, người công nhân không
khẳng định mình mà “phủ định mình, không cảm thấy mình sung sướng, mà
cảm thấy mình khổ sở, không phát huy một cách tự do nghị lực thể chất và tinh
thần của mình, mà làm kiệt quệ thân thể của mình và phá hoại tinh thần của
mình” [57, tr. 132].
Lao động trở thành gánh nặng đè lên thể xác và cả tinh thần của người
lao động. Khi đó lao động không còn là nhu cầu bản chất con người mà chỉ
còn là phương tiện để thoả mãn nhu cầu tồn tại thể xác của con người. Vì
vậy, lao động của người công nhân trở thành lao động cưỡng bức, và bản
thân người lao động nếu không vì sự sinh tồn của mình cũng né tránh lao
động như tránh “bệnh dịch hạch”. Hoạt động lao động lúc đó chỉ là hoạt
động bất đắc dĩ và được trút lên người công nhân dưới áp lực hoàn toàn chỉ
của nhu cầu ngẫu nhiên bên ngoài, chứ không phải do nhu cầu tất yếu nội
tại. Trong hoàn cảnh đó, người lao động chỉ cảm thấy tự do khi ở ngoài quá
trình lao động, “con người (công nhân) chỉ cảm thấy mình hành động tự do
trong khi thực hiện các chức năng động vật của mình - ăn uống, sinh con đẻ
cái, nhiều lắm là trong chuyện ở, chuyện trang sức… còn trong những chức
năng con người của anh ta thì anh ta chỉ cảm thấy mình chỉ còn là con vật.
35