Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (949.75 KB, 98 trang )
Chương 3:
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TTHS VỀ NGƯỜI BỊ HẠI VÀ NHỮNG
GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO SỰ THAM GIA CÓ HIỆU QUẢ CỦA NGƯỜI BỊ
HẠI TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT VỤ ÁN.
3.1. Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về người bị hại
Như đã biết tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó xâm hại
đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự nhân phẩm và tài sản của người bị hại, đó có
thể là những thiệt hại vô cùng lớn mà người bị hại phải gánh chịu. Vì vậy Nhà
nước cần phải có biện pháp cụ thể để bảo vệ người bị hại, khôi phục lại trạng
thái ban đầu hoặc kịp thời khắc phục thiệt hại do tội phạm gây ra đối với họ. Bên
cạnh đó, người bị hại là người biết được tình tiết của vụ án nên họ cũng phải có
nghĩa vụ trong việc giúp các CQTHTT tìm ra sự thật khách quan của vụ án. Do
vậy khi tham gia tố tụng, người bị hại có một số quyền và thực hiện một số nghĩa
vụ nhất định.
Hiện nay quyền và nghĩa vụ của người bị hại được quy định tại Điều 51
BLTTHS. Theo quan sát của chúng tôi thì pháp luật TTHS về quyền và lợi ích
hợp pháp của người bị hại qua quá trình tồn tại và phát triển ngày càng được bổ
sung, sửa đổi đầy đủ và hoàn thiện hơn. Chẳng hạn phạm vi kháng cáo của người
bị hại không chỉ giới hạn trong phạm vi tăng nặng hình phạt mà còn cho phép
người bị hại kháng cáo giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; hoặc chế định khởi tố
theo yêu cầu của người bị hại… Nội dung các quyền và nghĩa vụ của người bị
hại về cơ bản phù hợp và được cơ quan có thẩm quyền nghiêm chỉnh chấp hành,
góp phần trong việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại. Tuy
71
nhiên quá trình áp dụng cũng bộc lộ một số bất cập trong quy định pháp luật
cũng như thực tiễn áp dụng cần phải hoàn thiện đầy đủ hơn.
Thứ nhất, về định nghĩa pháp lý của người bị hại. Theo quy định tại khoản
1Điều 51 BLTTHS thì người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần ,
tài sản do tội phạm gây ra. Như vậy, theo quy định này thì Luật TTHS nước ta
chỉ coi người bị hại là thể nhân chứ pháp nhân, cơ quan, tổ chức không được coi
là người bị hại mà được xác định là nguyên đơn dân sự. Trong trường hợp cơ
quan tổ chức bị thiệt hại do tội phạm gây ra mà không có đơn yêu cầu thì
CQTHTT xác định họ tham gia vào tố tụng với tư cách gì? Hơn nữa, trong thực
tế, tổ chức, pháp nhân có thể bị thiệt hại về vật chất và tinh thần, chẳng hạn như
một doanh nghiệp bị giả mạo về thương hiệu, bị vu khống làm mất uy tín trong
kinh doanh... thì chúng ta sẽ giải thích như thế nào? Nếu coi cơ quan tổ chức
nguyên đơn dân sự thì chúng ta sẽ không phân biệt được thiệt hại trực tiếp với
thiệt hại gian tiếp do tội phạm gây ra trong khi đó người bị hại bị thiệt hại về thể
chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra thì được coi là người bị hại, còn cơ
quan tổ chức cũng bị thiệt hại trực tiếp về tài ản, về tinh thần như bị vu khống,
giả mạo làm gây thiệt hại về uy tín, thương hiệu trong kinh doanh…thì không
được coi là người bị hại là không công bằng. Chính vì vậy để thống nhất trong
thực tiến áp dụng chúng tôi đề nghị sửa đổi bổ sung quy định của BLTTHS về
khái niệm người bị hại.
Điều 51: “Người bị hại là người, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về thể chất,
tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra và được CQTHTT công nhận.”
Thứ hai, về vấn đề liên quan đến quyền của người bị hại: Người bị hại là
người bị thiệt hại về thể chất tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra. Do đó,
72
BLTTHS quy định cho họ quyền tương đối rộng như quyền yêu cầu bồi thường,
quyền kháng cáo. Như đã phân tích ở trên, hiện nay có rất nhiều quan điểm khác
nhau về quyền kháng cáo của người bị hại và người đại diện hợp pháp của họ.
Mặc dù, đã có hướng dẫn của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao về
quyền kháng cáo của người bị hại nhưng không chỉ rõ phạm vi kháng cáo của
người bị hại và người đại diện hợp pháp của họ và cũng không đáp ứng được
khiếm khuyết của Điều 51 và Điều 231 của BLTTHS. Để khắc phục sự mâu
thuẫn, đảm bảo sự thống nhất trong quá trình áp dụng, cũng như để bảo vệ tốt
hơn quyền và lợi ích của người bị hại theo chúng tôi cần thiết phải sửa đổi các
điều luật trên theo hướng xác định hợp lý và thống nhất phạm vi kháng cáo của
người bị hại và người đại diện hợp pháp của họ. Nhưng vấn đề đặt ra cần nghiên
cứu xác định phạm vi kháng cáo của họ như thế nào là hợp lý. Nếu theo điểm e
khoản 2 Điều 51 BLTTHS thì người bị hại chỉ có quyền kháng cáo về phần bồi
thường và hình phạt đối với bị cáo là chưa đầy đủ, quá hẹp không tạo điều kiện
cho người bị hại bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ làm phát sinh vướng
mắc khi áp dụng. Trong khi đó Điều 231 BLTTHS thì lại cho phép người bị hại
kháng cáo toàn bộ bản án, quyết định của Toà án. Như vậy, hai điều luật này có
sự mâu thuẫn không thống nhất. Vì vậy, để đảm bảo cho người bị hại và người
đại diện hợp pháp của họ bảo vệ tốt quyền và lợi ích hợp pháp của mình, theo
quan điểm chúng tôi cần sửa lại nội dung Điều 51 BLTTHS theo hướng cho
phép người bị hại hoặc người đại hiện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo toàn
bộ bản án hoặc quyết định của toà án cấp sơ thẩm để thống nhất với nội dung và
tinh thần của điều 231 BLTTHS.
Điều 51: “Người bị hại và đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo
bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án.”
73
Thứ ba, vấn đề liên quan đến chế định khởi tố vụ án theo yêu cầu của người
bị hại.
Khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại (hay còn gọi là tư tố) là một
chế định không mới, được áp dụng khá phổ biến trong pháp luật các nước. ở Việt
Nam chế định này lần đầu tiên được quy định trong BLTTHS năm 1988. Đây là
chế định thể hiện tính dân chủ, sự tôn trọng và cảm thông trước sự thiệt hại, mất
mát, đau đớn của người bị hại. Mặc dù nguyên tắc cơ bản trong TTHS Việt Nam
là nguyên tắc công tố, tức là hành vi phạm tội phải chịu trách nhiệm trước Nhà
nước, Nhà nước đã cam kết sẽ bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mọi
công dân bằng một văn bản pháp lý có giá trị cao nhất, đó là Hiến pháp, bằng cả
hệ thống pháp luật và cơ chế đảm bảo thực hiện. Mọi hành vi phạm tội xâm hại
đến các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân sẽ bị Nhà nước xử lý nghiêm
khắc. Tuy nhiên, khi xử lý hành vi phạm tội, Nhà nước còn phải quan tâm đến
nguyện vọng và lợi ích chính đáng của người bị hại. Thực tế cho thấy mặc dù bị
thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra nhưng người bị hại lại không muốn đưa ra
xử lý vì như vậy sẽ ảnh hưởng đến uy tín, danh dự, tương lai của họ, cũng có
trường hợp giữa người bị hại và người gây ra thiệt hại có những mối quan hệ đặc
biệt. Điều 51 và Điều 105 BL TTHS đã ghi nhận yêu cầu của người bị hại. Quá
trình áp dụng cho thấy chế định khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại đã
phát huy hiệu quả, quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại được bảo vệ tốt
hơn.
Tại Điều 105 BLTTHS quy định người bị hại có quyền yêu cầu khởi tố
đối những vụ án về tội phạm quy định tại khoản 1 Điểu 104, 105, 106, 108, 109,
111, 113, 121, 122, 131, và Điều 171 của BLTTHS. Theo quy định tại điều luật
này chỉ khi nào người bị hại có yêu cầu khởi tố thì vụ án mới được khởi tố và
74
trong trường hợp người bị hại rút yêu cầu khởi tố thì vụ án được đình chỉ. Để
người bị hại bảo vệ được các nội dung đã yêu cầu khởi tố, tại khoản 3 Điều 51
BLTTHS còn quy định người bị hại hoặc đại diện hợp pháp của họ được trình
bày lời buộc tội tại phiên toà. Đây không phải là quy định mới bởi BLTTHS năm
1988 cũng đã quy định vấn đề này tại khoản 4 Điều 39.
Nhưng trên thực tế do nhận thức không đầy đủ và chính xác dẫn tới việc
áp dụng các quy định của BLTTHS về người bị hại còn có nhiều vi phạm, quyền
của người bị hại trong TTHS còn bị hại chế mà họ làm một trong những chủ thể
tham gia tố tụng quan trọng, đặc biệt là trước yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay.
Từ thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự được khởi tố theo yêu cầu bị hại cho
thấy đã bộc lộ nhiều vướng mắc trong việc đảm bảo quyền buộc tội của người bị
hại tại các phiên toà.
Khác với người bị hại thông thường, người bị hại có yêu cầu khởi tố vụ án
hình sự được pháp luật TTHS quy định một quyền riêng đó là quyền được “trình
bày lời buộc tội” quy định không cụ thể nên trên thực tế người tiến hành tố tụng
có nhận thức không thống nhất; BLTTHS năm 2003 có quy định về nội dung này
tại khoản 3 Điều 51 nhưng không quy định rõ đó là quyền hay nghĩa vụ của
người bị hại; các quy định như vậy khiến cho dễ bị nhầm lẫn, người thì cho rằng
đó là quyền nhưng cũng có người lại cho đó là nghĩa vụ dẫn tới việc thực hiện
không thống nhất.
Về nguyên tắc, trách nhiệm chứng minh trong TTHS thuộc về các
CQTHTT, do đó, theo chúng tôi không thể coi việc buộc tội là trách nhiệm của
người bị hại đã yêu cầu khởi tố. Bởi vậy, cần thống nhất nhận thức việc trình bày
75
lời buộc tội của người bị hại có yêu cầu khởi tố quy định tại Điều 105 BLTTHS
là quyền của họ. Từ nghiên cứu về mặt lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật.
Cần bổ sung thêm quy định tại khoản 3 Điều 51 BLTTHS theo hướng quy
định cụ thể việc “trình bày lời buộc tội” là quyền của người bị hại; cụ thể nên
sửa đổi quy định tại đoạn này như sau:
“3. Trong trường hợp khởi tố theo yêu cầu của người bị hại quy định tại
Điều 105 của Bộ luật này thì người bị hại hoặc đại diện của họ có quyền trình
bày lời buộc tội”.
Trên thực tế việc thực hiện quyền này từ trước đến nay chưa đước triệt để
do thiếu sót của nhà làm luật khi xây dựng luật, chỉ có quy định quyền tại phần
chung mà không quy định cụ thể thủ tục trình tự để thực hiện quyền đó trong các
hoạt động tố tụng cụ thể. Do đó, đây cũng là vấn đề cần quan tâm khi sửa đổi, bổ
sung BLTTHS năm 2003 và khi xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành nhằm
cụ thể hoá quyền này trong quá trình điều tra, truy tố xét xử và đặc biệt là trong
hoạt động tranh tụng tại phiên toà.
2. Sửa đổi quy định tại Điều 105 BLTTHS về khởi tố vụ án theo yêu cầu
của người bị hại
Người bị hại có yêu cầu khởi tố là chủ thể tham gia tố tụng có những
quyền theo quy định của pháp luật hình sự mở rộng hơn người bị hại thông
thường ở chỗ họ được quyền tự quyết định việc yêu cầu khởi tố hay không đối
với hành vi xâm hại lợi ích hợp pháp của họ và chỉ khi họ có yêu cầu thì vụ án
hình sự mới được khởi tố và khi họ rút yêu cầu thì vụ án có thể được đình chỉ.
Thực tiễn việc giải quyết các vụ án hình sự cho thấy những vụ án được khởi tố
theo yêu cầu của người bị hại thường là các vụ án thuộc các tội phạm ít nghiêm
76
trọng (được quy định tại khoản 1 các Điều 104, 105, 106, 108, 109, 111, 113,
121, 122, 131, và Điều 171 Bộ luật hình sự). Nguyên nhân của các hành vi phạm
tội này chủ yếu xuất phát từ những va chạm, tranh chấp nhỏ trong nhân dân, vì
vậy, đặt ra quy định tại Điều 105 BLTTHS chỉ khởi tố vụ án khi có yêu cầu của
người bị hại là nhằm bảo vệ, đề cao quyền của người bị hại và việc quy định khi
họ rút yêu cầu một cách tự nguyện thì vụ án được đình chỉ là nhằm tới việc đạt
mục đích đó; các mối quan hệ của người dân phải do họ tự giải quyết không trái
với pháp luật.
Thực tiễn áp dụng chế định này cho thấy có những vụ án cho đến khi xét
xử, qua diễn biến tại phiên toà giữa bị hại và bị cáo mới tìm thấy sự cảm thông
thực sự, muốn dàn xếp theo thoả thuận giữa hai bên, lúc này người bị hại muốn
rút yêu cầu nhưng theo quy định của pháp luật thì không được, vụ án vẫn phải
được xét xử. BLTTHS chỉ cho phép rút yêu cầu trước khi mở phiên toà sơ thẩm.
Chúng tôi cho rằng, quy định như vậy là khá cứng nhắc, nên trong thực tế một số
vụ án vẫn chưa đạt được mục đích là “làm yên dân”, vụ án đã được xét xử xong
rồi nhưng người dân không thoả mãn, hai bên vẫn còn mâu thuẫn. Bởi vậy,
chúng tôi đề nghị nên quy định quyền này của người bị hại một cách xuyên suốt
các hoạt động tố tụng từ giai đoạn sơ thẩm đến phúc thẩm với nguyên tắc chung
là giải quyết vụ án hình sự, dân sự là nhằm tới mục đích bảo đảm các quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân, đảm bảo trật tự an toàn xã hội, tôn trọng các xử
sự thoả thuận giải quyết mâu thuẫn nhỏ trong nhân dân và chính là “làm yên
dân”. Nên chăng cần sửa đổi nội dung này theo hướng quy định mở rộng phạm
vi quyền rút yêu cầu của người bị hại đến trước khi mở phiên toà phúc thẩm.
3. Sửa đổi quy định tại Điều 217 BLTTHS năm 2003 về trình tự phát biểu
khi tranh luận.
77
Thực tiễn áp dụng chế định này còn có rất nhiều vấn đề đặt ra, hầu hết các
vụ án khởi tố theo yêu cầu người bị hại tại các phiên toà xét xử sơ thẩm, phúc
thẩm, người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ không trình bày lời buộc
tội có chăng chỉ là trả lời các câu hỏi do người tiến hành tố tụng đặt ra có tính
chất buộc tội đối với bị cáo. Qua nghiên cứu việc áp dụng thấy, sở dĩ có hiện
tượng trên là nhiều lý do:
Thứ nhất, họ chưa được báo trước là có quyền và có trách nhiệm trình bày
lời buộc tội tại phiên toà.
Thứ hai, về trình tự thủ tục chưa có quy định cụ thể người bị hại hoặc
người đại diện hợp pháp của họ được trình bày lời buộc tội vào lúc nào tại phần
nào trong quá trình xét xử sơ thẩm, phúc thẩm. Như vậy, cả hai BLTTHS năm
1988 và năm 2003 đều chỉ mới quy định ở phần chung là người bị hại có quyền
buộc tội nhưng không quy định cụ thể thủ tục để thực hiện quyền này. Các văn
bản hướng dẫn cũng chưa đề cập đến nội dung này nên quá trình thực hiện còn
gặp nhiều lúng túng, ở một số vụ án có luật sư tham gia cứ nhất thiết đòi phải
thực hiện quyền buộc tội của người bị hại thì Chủ toạ phiên toà không biết xử lý
như thế nào cho đúng.
Theo quy định tại Điều 217 BLTTHS thì trình tự khi thực hiện phần tranh
luật tại phiên toà là:
1. Sau khi kết thúc việc xét hỏi tại phiên toà, kiểm sát viên trình bày lời
luận tội, đề nghị kết tội bị cáo theo toàn bộ hay một phần nội dung cáo trạng.
2. Bị cáo trình bày lời bào chữa, nếu bị cáo có người boà chữa thì người
này bào chữa cho bị cáo và bị cáo có quyền bổ sung ý kiến bào chữa.
78
3. Người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan hoặc người đại diện của họ trình bày ý kiến để bảo vệ quyền
và lợi ích của mình và nếu có người bào chữa thì người này trình bày hoặc bổ
sung ý kiến.
Từ quy định trên đây cho thấy, người bị hại khi tham gia tranh luận chỉ
được trình bày ý kiến để bảo vệ quyền và lợi ích của mình sau kiểm sát viên và
bị cáo. Trong thực tế thường thì Thẩm phán Chủ toạ phiên toà hay có sự đồng
nhất bị hại có yêu cầu khởi tố cũng như các bị hại bình thường khác trong vụ án,
khi tham gia phiên toà và người bị hại chỉ được phép tham gia tố tụng theo thủ
thục bình thường; có nghĩa là ở phần tranh luận họ chỉ được “trình bày ý kiến”
và được hỏi có thống nhất với lời luận tội của Kiểm sát viên không và đặt ra yêu
cầu bồi thường bao nhiêu? Có nên hiểu việc trình bày này lời buộc tội không?
Trong trường hợp họ không thống nhất với lời luận tội của Kiểm sát viên không
bày đặt ra yêu cầu bồi thường bao nhiêu? có nên hiểu việc “trình bày” này là lời
buộc tội không? Trong trường hợp họ thống nhất hoàn toàn với lời luận tội của
Kiểm sát viên thì họ không cần nêu các lý lẽ có tình chất buộc tội đối với bị cáo.
Trong trường hợp họ có ý kiến khác với Kiểm sát viên thì cũng là chỉ tranh luận
lại với Kiểm sát viên mà thôi. Chỉ trong trường hợp Kiểm sát viên luận tội kết
luận hành vi của bị cáo không phạm tội và rút toàn bộ quyết định truy tố thì
người bị hại mới có ý kiến có tính chất buộc tội nhưng nếu xảy ra trường hợp
này thì vụ án cũng buộc phải đình chỉ xét xử về Viện kiểm sát đã rút toàn bộ
quyết định truy tố (Điều 221 BLTTHS). Như vậy, nếu cứ theo trình tự thủ tục
quy định tại Điều 217 nêu trên thì trong tất cả các phiên toà người bị hại đã yêu
cầu khởi tố không có điều kiện trình bày lời buộc tội. Bởi không có hướng dẫn
nên trong trường hợp bị hại hoặc Luật sư có yêu cầu phải được trình bày lời luận
79
tội thì Hội đồng xét xử gặp lúng túng. Vấn đề đặt ra là bị hại hoặc người đại
diện hợp pháp của họ trình bày lời buộc tội vào lúc nào? về nội dung này có
nhiều ý kiến khác nhau:
Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, trong những vụ án do người bị hại yêu cầu
khởi tố thì quyền buộc tội thuộc về họ được thực hiện tại phần tranh luận, người
bị hại hoặc người đại diện của họ trình bày lời buộc tội trước, sau đó kiểm sát
viên mới có ý kiến bổ sung.
Loại ý kiến thứ hai lại cho rằng, trong các vụ án do người bị hại yêu cầu
khởi tố thì tại phần tranh luận cần thực hiện theo trình tự: Kiểm sát viên trình
bày lời buộc tội, bị cáo bào chữa, bị hại hoặc người bào chữa cho họ cũng trình
bày lời buộc tội dù là trùng quan điểm với Kiểm sát viên.
Một số ý kiến khác có quan điểm dung hoà giữa hai quan điểm trên đây.
Theo chúng tôi, loại ý kiến thứ nhất có thể sát với thức tế tiến hành tố tụng
nhưng không phù hợp với các quy định hiện hành. Chúng tôi nhất trí với ý kiến
thứ hai vì ý kiến này cơ bản là phù hợp với trình tự thủ tục quy định tại Điều 217
và đảm bảo được quyền của người bị hại quy định tại khoản 3 Điều 51 BLTTHS
nêu trên. Tuy nhiên, đây cũng chỉ là cách vận dụng có tính chất linh hoạt vì nếu
để cho người bị hại hoặc đại diện hợp pháp của họ “trình bày lời buộc tội” là
chưa đúng hoàn toàn với quy định tại Điều 217 nêu trên vì điều luật chỉ cho phép
bị hại “trình bày ý kiến” chứ không phải là “trình bày lời buộc tội”
Chúng tôi cho rằng quyền “trình bày lời buộc tội” của người bị hại trong
những vụ án khởi tố theo yêu cầu của người bị hại là quy định có tính nguyên tắc
nhằm xác định quyền nhưng cũng là trách nhiệm của người bị hại khi tham gia tố
tụng. Do BLTTHS chưa có quy định cụ thể về thủ tục nên khi thực hiện quyền
80
này còn có nhiều vướng mắc; do đó, đây là vấn đề cần được quan tâm nghiên
cứu trong dịp sửa đổi, bổ sung BLTTHS lần tới
Tuy nhiên so với yêu cầu đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người bị
hại, chế định này cũng đã bộc lộ một số bất cập. Chẳng hạn: Theo quy định tại
khoản 3 Điều 51 BLTTHS, trong trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu
của người bị hại quy định tại Điều 105 Bộ luật này thì người bị hại hoặc người
đại diện hợp pháp của họ trình bày lời buộc tội tại phiên toà. Đây là một nội
dung đã được quy định từ những năm 1988, qua các lần sửa đổi, bổ sung,
BLTTHS vẫn giữ nguyên quy định này. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có hướng
dẫn của cơ quan có thẩm quyền về việc người bị hại trình bày lời buộc tội bị cáo
tại phiên toà như thế nào. Trường hợp nếu người bị hại trình bày lời buộc tội thì
kiểm sát viên tham gia phiên toà có trình bày lời buộc tội nữa không? Lời buộc
tội của người bị hại có giá trị như thế nào? Sự có mặt của người bị hại trong
trường hợp này có bắt buộc như đối với kiểm sát viên không? Thực tiễn xét xử
cho thấy mọi việc đều do kiểm sát viên thực hiện, còn người bị hại trong trường
hợp này cũng không có gì đặc biệt so với người bị hại trong các vụ án khác. Hơn
nữa, bản thân quy định này cũng chưa thật đầy đủ và phù hợp, chẳng hạn trong
giai đoạn trước khi mở phiên toà thì người bị hại có các quyền hạn cụ thể nào,
cách thức thực hiện các quyền đó ra sao cũng chưa được quy định rõ. Chúng tôi
cho rằng đối với vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại phải khác so
với vụ án thông thường, quyền của người bị hại được thể hiện trong suốt quá
trình tố tụng chứ không chỉ đơn thuần là trình bày lời buộc tội tại phiên toà như
quy định hiện nay. Từ thực trạng nêu trên chúng tôi đề nghị:
Thứ nhất, nghiên cứu để mở rộng hơn nữa phạm vi các tội mà cơ quan có
thẩm quyền chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại. Theo chúng tôi nên
81