Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (916.08 KB, 98 trang )
Chương 2: NGOẠI HÌNH NHÂN VẬT TRUYỆN NGẮN CỦA NAM
CAO.
Ngày nay, giới nghiên cứu thường nhìn cả thế kỷ XX như là thời kỳ
của văn học Việt Nam hiện đại. Văn học hiện đại ở Việt Nam hình thành và
phát triển như là một sản phẩm, kết quả của quá trình tiếp biến, giao lưu văn
hóa và văn học phương Đông –phương Tây.
Nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn đã có một chủ trương theo chúng tôi
là hết sức quan trọng về nội hàm cũng như ý nghĩa của khái niệm “văn học
hiện đại”: “Chúng tôi không đối lập văn học Việt Nam trước và sau năm
1945 (đó là một việc khác ai đó sẽ làm trong một dịp khác), mà tìm cách đối
lập toàn bộ văn học Việt Nam thế kỷ XX với nền văn học từ thế kỷ XIX trở
về trước, đối lập văn học hiện đại với văn học trung đại. Đây cũng là hướng
nghiên cứu cần thiết và có thể nói là có hứa hẹn” [32, tr. 22]. Tất nhiên, khái
niệm “đối lập” của Vương Trí Nhàn cần được hiểu tương đương với biện
pháp khu biệt, so sánh để tìm sự khác biệt, để xác định tính loại hình của hai
nền văn học trung đại và hiện đại. Hướng nghiên cứu so sánh mà luận văn
của chúng tôi theo đuổi chính là tìm cách đặt việc miêu tả ngoại hình nhân
vật của Nam Cao-một tác giả tiêu biểu cho văn học hiện đại trong thế “đối
lập” với việc miêu tả ngoại hình nhân vật của Nguyễn Du –một tác giả tiêu
biểu cho văn học trung đại.
Nam Cao là một trong những tác giả xuất sắc của văn học hiện đại
Việt Nam giai đoạn trước 1945. Sáng tác của Nam Cao đã vượt qua được
những thử thách khắc nghiệt của thời gian. Thời gian càng lùi xa, những tác
phẩm của ông càng bộc lộ ý nghĩa hiện thực sâu sắc, tư tưởng nhân đạo cao
cả và vẻ đẹp nghệ thuật điêu luyện, độc đáo.
Trong số các nhà văn hiện thực, ông là cây bút có ý thức sâu sắc nhất về
quan điểm nghệ thuật của mình. Ông phê phán khá toàn diện và triệt để tính
47
chất thoát ly, tiêu cực của văn chương lãng mạn đương thời, coi đó là
thứ “ánh trăng lừa dối”, đồng thời yêu cầu nghệ thuật chân chính phải trở về
với đời sống, phải nhìn thẳng vào sự thật, nói lên được nỗi thống khổ của
hàng triệu nhân dân lao động lầm than (Giăng sáng).
Xuất hiện trên văn đàn khi trào lưu hiện thực chủ nghĩa đã đạt được
nhiều thành tựu xuất sắc, Nam Cao ý thức sâu sắc rằng: “Văn chương chỉ
dung nạp được những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn
chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa có” (Đời thừa). Và Nam Cao đã
thực sự tìm được cho mình một hướng đi riêng trong việc tiếp cận và phản
ánh hiện thực. Nếu như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố những nhà văn hiện thực xuất sắc thời kỳ Mặt trận dân chủ (1936 - 1939) đều
tập trung phản ánh trực tiếp những mâu thuẫn, xung đột xã hội thì sáng tác
của Nam Cao - đại biểu ưu tú nhất của trào lưu hiện thực chặng đường cuối
cùng (1940 - 1945), trừ truyện ngắn Chí Phèo (mà theo tôi là dư âm còn sót
lại của thời kỳ 1936 - 1939) trực tiếp đề cập tới xung đột giai cấp, còn các tác
phẩm khác đều tập trung thể hiện xung đột trong thế giới nội tâm của nhân
vật. Hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ không tạo điều kiện cho Nam Cao đi
thẳng vào những vấn đề cấp bách nhất của xã hội, không trực tiếp miêu tả
những sự kiện có ý nghĩa xã hội lịch sử rộng lớn. Nhiều tác phẩm của ông
được dệt lên bằng toàn những “cái hàng ngày” chủ yếu liên quan đến cuộc
sống riêng tư của các nhân vật, những sự kiện vặt vãnh, nhỏ nhoi, tủn mủn
mà nhà văn gọi là “những chuyện không muốn viết”. Chưa bao giờ cái vặt
vãnh hàng ngày lại có một sức mạnh ghê gớm như trong sáng tác của Nam
Cao. Chỉ có tiếng con khóc, tiếng vợ gắt gỏng cũng đủ sức lôi tuột văn sĩ
Điền đang nhởn nhơ trên chín tầng mây với ánh trăng giống như “cái vú mịn
tròn đầy” xuống mặt đất với biết bao cực khổ lầm than (Giăng sáng). Từ
những chuyện vụ vặt đời thường, Nam Cao đã thực sự động chạm đến vấn đề
48
có tính chất nhân bản, đã đặt ra những vấn đề sâu sắc về cuộc sống, về thân
phận của con người, về vấn đề cải tạo xã hội, về tương lai của dân tộc và
nhân loại. Bi kịch của đời thường, của những cái vặt vãnh hàng ngày, qua
ngòi bút đầy tài năng của Nam Cao đã trở thành những bi kịch vĩnh cửu.
Ở bất cứ một lĩnh vực, một đề tài nào Nam Cao cũng thành công với
những sáng tác mang ý nghĩa hiện thực sâu sắc và vẻ đẹp nghệ thuật điêu
luyện, độc đáo. Cả hai lĩnh vực viết về người nông dân và trí thức, Nam Cao
đều để lại cho đời những tác phẩm bất hủ đi vào lòng người.
Khi bàn đến đặc điểm phong cách nghệ thuật Nam Cao, nhiều nhà
nghiên cứu, phê bình đều đề cập đến nghệ thuật miêu tả nhân vật, trong đó có
việc miêu tả ngoại hình nhân vật. Như đã trình bày ở phần mở đầu, không
phải bất cứ nhân vật nào cũng được Nam Cao miêu tả ngoại hình. Và như
Nguyễn Đăng Mạnh đã nhận xét, Nam Cao thiên về miêu tả tâm lý nhân vật
nhiều hơn là tả ngoại hình, trừ một số trường hợp. So với nhân vật trí thức thì
nhân vật nông dân thường được ông miêu tả ngoại hình thành công hơn.
“Khi xây dựng nhân vật người trí thức, Nam Cao có thói quen rất ít khi miêu
tả ngoại hình”[41, tr.177]. Trong những tác phẩm viết về đề tài nông dân,
ông đã có cách tả ngoại hình nhân vật khá tỉ mỉ để thể hiện những phẩm chất,
tính cách bên trong của mỗi nhân vật. Vì vậy để tìm hiểu chân dung ngoại
hình nhân vật trong truyện ngắn của Nam Cao, chúng tôi sẽ tìm hiểu cách tả
ngoại hình một số nhân vật thành công trong một số tác phẩm tiêu biểu về đề
tài nông dân như Chí Phèo, Lão Hạc v.v. để làm đối tượng nghiên cứu trong
chương này.
1. Ngoại hình nhân vật chí Phèo
Trong văn học đương thời, hình tượng người nông dân là nguồn cảm
hứng khá phổ biến và niềm quan tâm của nhiều người cầm bút, từ Phạm Duy
Tốn đến Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng .... cùng thể hiện
49
đề tài quen thuộc ấy nhưng với nỗ lực của mỗi nhà văn "đào sâu tìm tòi, khơi
những nguồn chưa ai khơi với sáng tạo nhưng gì chưa có”, Nam Cao không
đi vào những cảnh sưu thuế nặng nề, những cảnh áp bức bóc lột đối với
người nông dân như các nhà văn hiện thực khác, và cũng không miệt thị
người nông dân như nhiều cây bút lãng mạn lúc bấy giờ, mà lặng lẽ đi sâu
thể hiện quá trình tha hóa, quá trình lưa manh hoá của những người dân hiền
lành lương thiện. Điều này chúng ta có thể tìm thấy ở nhân vật Chí Phèo
trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao. Thông qua nhân vật Chí Phèo, nhà
văn muốn phán ánh một vấn đề xã hội, vấn đề có tình quy luật phổ biến của
đời sống nông thôn. Những nhân vật của Nam Cao được thể hiện rất thành
công cả trên cả 2 phương diện ngoại hình và tính cách. Nhưng trong khuôn
khổ của luận văn chúng tôi chỉ quan tâm đến ngoại hình nhân vật Chí Phèo,
đến sự tương ứng giữa ngoại hình và tính cách.
1.1 Ngoại hình của Chí Phèo khi bắt đầu tha hoá:
Tuy Chí Phèo là nhân vật chính của tác phẩm song ta thấy Nam Cao
không lý tưởng hóa nhân vật mà cố gắng miêu tả một cách khách quan. Đây
là một hiện tượng mới, khác về bản chất so với văn học trung đại.
Viết Chí Phèo, Nam Cao đã ném ra cuộc đời một thằng cùng hơn cả
dân cùng: không cha - không mẹ - không họ hàng thân thích- không tấc đất
cắm dùi - không không tên – không tuổi. Chí hoặc là một món hàng sống
hoặc là một kiếp làm thuê bị bóc lột về sức và xúc phạm về nhân phẩm. Dù
vậy lai lịch của đứa con hoang bị bỏ rơi và kiếp sống làm thuê không làm
cho Chí Phèo bị lưu manh hoá. Chí vẫn lớn lên bằng bản chất hiền lành
lương thiện của người dân lao động cho đến năm 20 - 21 tuổi.
Chí Phèo chỉ thực sự thay đổi từ sau khi ở tù về. Nhà tù thực dân đã khởi
đầu cho quá trình lưu manh hoá người nông dân biến người nông dân –
người lương thiện thành kẻ côn đồ. Nguyên nhân đẩy Chí đi ở tù có thể do sự
50
ghen tuông vì Chí được bà vợ ba của Bá Kiến yêu quí:" Cụ chỉ muốn cho tất
cả những thằng trai trẻ đi ở tù". Bá Kiến đã khôn ngoan dùng nhà tù để thanh
toán đối thủ tình ái tiềm tàng.
Nam Cao không thường xuyên tả khuôn mặt nhân vật nhưng khi đã miêu tả
thì ông tỏ ta hết sức sắc sảo, tài hoa. Chỉ bằng một số nét đặc tả ngoại hình
của Chí Phèo, nhà văn đã vẽ lên cả một bức tranh chân thực sinh động về quá
trình lưu manh hoá nhân hình của Chí. Chân dung Chí Phèo khi mới ở tù về
được khác hoạ với nhiều thay đổi rõ nét: "Hắn về lớp này trông khác hẳn mới
đầu chẳng ai biết hắn là ai. Trông đặc như thằng sắng cá! Cái đầu thì trọc lốc,
cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm
gườm trông gớm chết! Hắn mặc quần nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực
phanh đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chùy, cả
hai cánh tay cũng thế. Trông gớm chết”. Có thể thấy ngay là hiện lên trước
mắt độc giả một bức chân dung phong phú chi tiết hơn hẳn nhân vật phản
diện của văn học trung đại và các chi tiết đều có mục đích tả chân, thoát khỏi
các công thức ước lệ, tượng trưng. Nam Cao đã cho người đọc thấy sự xuất
hiện của một Chí Phèo khác hẳn với quá khứ, nhằm ngụ ý một sự đổi thay
mạnh mẽ ở con người hắn. Ngoại hình nhân vật Chí Phèo khiến người đọc có
cảm tưởng như đang được quan sát một Chí Phèo bằng xương, bằng thịt
ngoài đời vậy. Tục ngữ Việt Nam có câu: Cái răng cái tóc là góc con người.
Chí Phèo đã không còn là một con người bình thường nữa vì cái răng cái tóc
của hắn đã rất khác lạ. Nếu người Việt Nam trước đây có tục nhuộm răng
đen thì việc Chí có hàm răng bị/được cạo trắng hớn gây ấn tượng đáng sợ,
đáng ghét như thế nào. Hắn không còn thuộc cộng đồng văn hóa Việt nữa
rồi. Đầu cạo trọc lốc cũng không phải là một ngoại hình bình thường từ góc
nhìn của văn hóa Việt. Gây ấn tượng mạnh mẽ đáng sợ và đáng ghét hơn nữa
là cái thần thái cơng cơng của khuôn mặt và gườm gườm không chút thiện
51
cảm của đôi mắt. Chúng ăn nhịp với cái đầu cạo trọc, hàm răng trắng hớn.
Nam Cao chú ý cẩn thận đến cách phục sức của Chí Phèo: quần nái đen và áo
tây vàng. Người đàn ông-nông dân Bắc Bộ xưa quanh năm vận áo quần màu
nâu sồng. Kiểu cách của quần áo (áo kiểu tây), nhất là màu sắc của chúng tố
cáo sự thay đổi tính cách của Chí Phèo. Những hình chạm trổ trên thân thểnay gọi là “xăm mình”- trong cách tiếp nhận của người Việt cho đến nay vẫn
thường được hình dung, liên tưởng đến thế giới bụi đời, xã hội đen, giới tội
phạm. Từ cái răng, cái đầu, cái mặt đến cách ăn mặc và hình chạm trổ trên cơ
thể của Chí đều thống nhất gợi lên ấn tượng về một kẻ lưu manh côn đồ, một
thằng "sắng cá" không mấy lương thiện, nó khác hẳn với chân dung của Chí
Phèo "trần truồng và xám ngắt" khi bị bỏ rơi trong cái lò gạch cũ hoặc chân
dung hiền lành lương thiện của Chí khi còn là anh canh điền khoẻ mạnh làm
thuê trong nhà Bá Kiến. Chí Phèo vốn là một cố nông, là một anh canh điền
làm thuê sống một cuộc sống lương thiện, sống bằng bàn tay lao động chân
chính của mình. Vậy mà Bá Kiến đã nham hiểm đẩy Chí vào nhà tù làm thay
đổi cả hình thức bên ngoài và tính cách của Chí Phèo. Sau bảy, tám năm đi
biệt tăm, biệt tích hắn đã trở thành một kẻ khác hẳn với bản chất vốn có của
mình, không còn là người nông dân nữa. Nam Cao đã nhân việc miêu tả
khuôn mặt của Chí Phèo để thÓ hiÖn quá trình lưu manh hoá của Chí từ khi
đi tù. Các nhà nghiên cứu đã nói rất hay về sự tha hóa cả về nhân hình lẫn
nhân tính của Chí Phèo. Hoàn cảnh tác động thay đổi cả ngoại hình bên
ngoài và thay đổi tính cách bên trong của Chí Phèo. Nam Cao đã miêu tả cụ
thể, sinh động, chân thực về sự thay đổi ngoại hình của Chí Phèo-kẻ đi tù-để
ngầm diễn đạt một sự biến đổi tha hóa bên trong của Chí Phèo. Chúng ta
thấy “khi viết về người nông dân, Nam Cao đã không lí tưởng hóa nhân vật
của mình. Ông nhìn rõ và thấu hiểu những cái xấu những cái hạn chế của
họ”.[ 41, tr.136]
52
1.2 Ngoại hình Chí Phèo khi y chìm sâu trong sự tha hoá trở thành con quỷ
dữ của làng Vũ Đại
Chí Phèo vốn là người nông dân hiền lành như đất, sống bằng nghề cầy
thuê, cuốc mướn, sống lương thiện, biết tự trọng, biết khinh cái đáng khinh
và cũng bao nhiêu người nông dân khác, cũng khát khao hạnh phúc đời
thường với những ước mơ bình dị. Nhưng nhà tù đã không cải tạo được Chí
Phèo. Đi tù về Chí Phèo đã cho thấy, môi trường nhà thù đã biến Chí thành
một gã lưu manh. Môi trường sống của làng Vũ Đại lại tiếp tục dồn cuộc đời
Chí Phèo đi đến tận cùng của sự lưu manh hóa. Chí vốn là một người lương
thiện phải sống như một kẻ bất lương, mất hết tính người. Chí vốn là một
người lao động chân chính mà lại phải sống bằng nghề đi ăn cướp, ăn vạ.
Muốn sống thân thiện và gần gũi những người xung quanh thì lại đi phá hoại
hạnh phúc của bao nhiêu người dân lành xung quanh Chí.
Cùng với thời gian và cuộc sống tội lỗi ở làng Vũ Đại, nhân hình của
Chí còn biến đổi ghê gớm hơn mạnh mẽ hơn. Ở tù về Chí giống thằng "sắng
cá" nhưng dẫu như vậy Chí vẫn còn lại chân dung của kẻ làm người. Càng về
sau, Chí không còn có được chân dung của một con người: "Cái mặt hắn
không trẻ cũng không già; nó là mặt của con vật lạ, nhìn mặt những con vật
có bao giờ biết tuổi? Cái mặt hắn vàng vàng mà lại muốn sạm màu gio; nó
vằn dọc vằn ngang, không thứ tự biết bao nhiêu là sẹo”. Những chi tiết này
còn được Nam Cao nhấn mạnh nhiều lần trong tác phẩm khi ông viết "cái
mặt hắn vằn dọc vằn ngang như mặt thớt". Một hình dáng xấu xí bởi một
khuôn mặt đầy vết sẹo gây ra, dáng đi khó nhìn cũng như bản tính xấu xa.
Chí đã không còn như trước nữa.
Ngoại hình của nhân vật Chí Phèo đã thay đổi căn bản khi hắn sống ở
làng Vũ Đại. Đặc biệt Chí Phèo không biết làm gì sau khi đi tù về. Ngoại
hình của Chí sẽ biến dạng nhiều hơn khi mỗi lần Chí Phèo đến tìm Bá Kiến.
53
Nếu lần thứ nhất Chí Phèo đến nhà Bá Kiến để ăn vạ, để vòi tiền uống rượi
thì làn thứ hai đến nhà đến nhà Bá Kiến hắn lại đến để xin đi ở tù bởi vì "ở tù
còn có cơm để mà ăn, bây giờ về làng về nước, một thước đất cắm rùi không
có, chả làm gì nên ăn". Hiện thực làng Vũ Đại còn khắc nghiệt tàn bạo hơn
cả cái nhà tù có thật. Bá Kiến khéo léo mượn tay Chí Phèo để đòi tiền đội
Tảo theo sách lược "dùng thẳng đầu bò để trị thằng đầu bò". Đòi được tiền,
Chí Phèo vừa tự đắc "anh hùng làng này cóc thằng nào bằng ta", vừa thực
hiện ước mơ có nhà có vườn, nhưng thực chất là dấn sâu hơn vào con đường
tội lỗi. Chí đã trở thành công cụ gây tội ác trong tay giai cấp thống trị, thành
"anh đầy tớ chân tay mới" của cụ Bá. Cũng từ đấy Chí đã gây không biết bao
nhiêu tội ác "phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yêu vui, đạp
đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người
lương thiện". Chí Phèo thực sự trở thành một tội nhân của làng Vũ Đại. Từ
đó ta thấy Chí Phèo vừa là nạn nhân khốn khổ của bọn cường hào địa chủ,
vừa là con quỷ dữ đối với nhân dân làng Vũ Đại. Và cũng vì thế mà Chí
Phèo bị mọi người ghê tởm, xa lánh. “Để tồn tại, Chí Phèo buộc phải làm
nghề rạch mặt ăn vạ, cướp giật, la làng; phải bán cả diện mạo và linh hồn của
mình. Không phải bán buôn, bán sỉ, mua đứt bán đoạn mà là bán dần, mỗi
lần lấy dăm ba hào chỉ hết sức rẻ mạt”.[42, tr.451].
Trong tác phẩm “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố chị Dậu được miêu tả có
khuôn mặt trái xoan với cái nhanh nhẩu của đôi mắt sắc ngọt, cái xinh xắn
của cặp môi đỏ tươi, cái mịn màng của nước da nâu giòn. Khuôn mặt ấy
khiến người đọc hình dung về chị Dậu đó là một người khoẻ khoắn, đảm
đang. Trong truyện ngắn “Chí Phèo” những vết sẹo ngang dọc trên khuôn
mặt của Chí cùng với những nét chạm trỗ ở ngực tự có đã nói lên rất nhiều.
Phải chăng cái ngoại hình biến dạng, kỳ dị ghớm ghiếc kia như đã muốn
trưng ra quá khứ dữ dằn, và nội tâm tha hoá biến chất của Chí Phèo. Chí đã
54
thực sự là một kẻ lưu manh, côn đồ, sẵn sàng nhúng tay vào tội ác. Những sự
thay đổi quá lớn trong con người của Chí. “Miêu tả loại nhân vật này, Nam
Cao muốn thật khách quan để lột tả cho hết, cho chân xác những mẫu người
đang tha hóa, đang dần dà biến chất”. [11, tr.256]
Nhân vật Tám Bính của Nguyên Hồng và nhân vật Chí Phèo của Nam
Cao tiêu biểu cho kiểu loại nhân vật này. Trong tác phẩm của Nam Cao, kiểu
con người tha hóa được khai thác một cách toàn diện và triệt để. Tha hóa và
chống lại tha hóa, các nhân vật đã phải trả một cái giá rất đắt cho chính mình.
Nguyên Hồng và Nam Cao đã cố gắng đi tìm những nét đẹp còn ẩn sâu trong
tâm hồn của những con người bị tha hóa- một quan niệm rất tiến bộ của các
nhà văn hiện thực phê phán Việt Nam.
1.3 Ngoại hình của Chí Phèo khi bị cự tuyệt:
Chí Phèo vốn là một con người hiền lành nhút nhát và có lòng tự trọng, vậy
mà Chí Phèo đã trở thành một kẻ đâm thuê, chém mướn, một con vật lạ, con
quỷ dữ của làng Vũ Đại. Mỗi khi Chí Phèo cất tiếng chửi thì mọi người trong
làng đều xa lánh, không ai đếm xỉa đến sự xuất hiện của hắn. Tiếng chửi của
Chí Phèo đâu phải đơn thuần là tiếng chửi của một gã say, một gã điên
khùng, một kẻ lưu manh mà còn là tiếng chửi của ranh giới giữa say và tỉnh,
giữa con người và con vật. Vậy là trong tiềm thức sâu xa Chí Phèo vẫn khát
khao mong giao tiếp với mọi người dẫu trong cuộc giao tiếp tồi tệ nhất đó là
mong có người chửi lại mình. Bởi khi có người chửi lại Chí Phèo có nghĩa
còn coi hắn là một con người nhưng đằng này đáp lại tiếng hắn chửi chỉ là
những tiếng chó sủa mà thôi.
Cuộc gặp gỡ của hắn với Thị Nở như một chiếc phao để hắn bấu víu vào
đó. Chúng ta không nghĩ Chí Phèo là một kẻ côn đồ, Thị Nở là một người dở
hơi, xấu xí mà lại nảy sinh một tình yêu và khát khao có một tình yêu. Chính
trong phút giây đó Chí Phèo đã thấy được ý nghĩa của cuộc sống đời thường
55
mà mình vẫn ước ao bấy lâu nay lại được trỗi dậy. Hắn chứng kiến âm thanh
của sự sống và đặc biệt hắn xúc động hơn lần đầu tiên trong đời hắn ốm có
người chăm sóc và đặc biệt là bàn tay của một người phụ nữ. Hương vị của
bát cháo hành là hương vị của hạnh phúc mà Chí Phèo luôn ước mơ, như mơ
ước có một gia đình bình dị như bao nhiêu người lương thiện khác.
Sau lần "ăn nằm" với Chí, tức là sau cái hành động tạo hóa đầy màu
nhiệm này, cả Thị Nở lẫn Chí đều được thay đổi. Thị Nở đã hoàn toàn chìm
đắm trong cơn đam mê tột cùng của bản năng thiên tạo. Thị đã quên hết thảy
mọi ràng buộc của đời sống thường nhật, quên bà cô, quên bặt cả những định
kiến tầng tầng lớp lớp của cái xã hội làng Vũ Đại. Khi mà cả làng Vũ Đại
quay lưng với Chí, thì chỉ duy nhất mình thị đến với Chí một cách hồn nhiên
hết mực. Thế là cái thiên chức (sự chăm lo), thiên lương (tình thương, lòng
tốt), những gì gọi là năng lực đàn bà trong thị bỗng động đậy, đòi được thể
hiện. Nhưng khác với thị, trong khi hưởng thụ Chí lại là người không hẳn vô
tư. Trong con người anh ta cũng bắt đầu xuất hiện ý thức sở hữu duy nhất,
triệt để đối với thị, một ý thức về tình yêu của giống người: vừa dâng hiến
vừa đòi hỏi. Chính vì thế mà Chí đã nghĩ xa xôi đến một tổ ấm, thứ hạnh
phúc bình dị theo kiểu con người. Chí đã khóc khi ăn bát cháo hành, tức là đã
khóc vì cái hạnh phúc lần đầu tiên được hưởng thụ theo cung cách của một tổ
ấm. Vì không thể vô tư được nên khi phải chờ đợi Thị Nở, Chí Phèo đã sốt
ruột, tức tối.
Nhưng rồi Thị Nở nhớ ra có một bà cô trên đời và sau khi hỏi ý kiến
của bà cô, thị đã đến trút giận vào Chí Phèo. Chính hành động cự tuyệt của
Thị Nở làm cho chân dung của Chí Phèo đã thay đổi: “Hắn ngồi ngẩn mặt,
không nói gì”. Chưa bao giờ ta thấy bộ mặt của Chí Phèo lại như vậy, hắn
như đang nối tiếc hay vẻ mặt của hắn như mất mát một điều gì đó rất lớn lao.
Hắn có vẻ mặt ấy có lẽ rất logic bởi hắn đã tìm lại được chính ước mơ và con
56
người của mình mà bây giờ vừa trỗi dậy lại bị vùi tắt. Vậy thử hỏi làm sao
mà Chí Phèo lại không ngổi ngẩn mặt ra. Chính sự cự tuyệt của Thị Nở làm
Chí Phèo đã tìm cách giải quyết của cuộc đời mình nhanh hơn.
Tác giả viết lên nhân vật Chí Phèo không ngoài tư tưởng phản kháng,
chống lại mọi hình thức cai trị của thực dân phong kiến, mọi quyền hành của
bọn cường hào ác bá, chống lại áp bức, hủ hóa, tệ nạn đè nén những con dân
hiền lành, ít học ở nông thôn…Nam Cao đã thể hiện mọi nhân tính trong
truyện, chửi thẳng vào mặt những kẻ cầm quyền qua những vai trò hạ cấp
trong xã hội. Những tiếng nói đó đã đánh động lương tâm con người, kể cả
cái chết tức tưởi của Chí Phèo. Những nhân vật bị đời nguyền rủa được Nam
Cao vẽ lên bằng một bút pháp tài tình, pha màu chế biến thành những khuôn
mặt dị dạng, xấu xí từ bản tính cho tới ngoại hình, điển hình nhất là Chí
Phèo dáng dấp không được bình thường, lúc say, lúc tỉnh, lúc bình sinh, lúc
hung tàn tạo nên một chân dung tuyệt vời, người đọc thấy được chân tướng
của Chí Phèo, có khác gì một Quasimodo của Victor Hugo cũng chẳng khác
gì một AQ của Lỗ Tấn. Nhưng mỗi nhân vật tuy khác nhau về hoàn cảnh
cũng như tình cảm nhưng họ đều mang chung một nỗi thống khổ: đó là thân
phận làm người của những kẻ bất hạnh.
Tuy nhiên tác phẩm của Nam Cao hướng về chủ nghĩa nhân bản rõ nét
hơn. Trường hợp nhân vật Chí Phèo không phải y sinh ra đã độc ác “nhân
chi sơ tính bản thiện”, cho dù định mệnh đã báo trước sự hẩm hiu bên “lò
gạch”. Nhưng rồi phải đi ở hết nhà này qua nhà khác, lớn lên bị gạt ra khỏi
dòng đời, Chí Phèo bước vào con đường lầm than, lao lý do tác động xã hội.
Chí Phèo trở thành một kẻ ngang tàng nhưng bên trong Chí Phèo vẫn còn
lương tính, từ sâu thẳm tâm hồn hắn vẫn ẩn giấu một tình yêu cuộc sống, một
khát vọng làm người: “…Hắn tự nghĩ nếu Thị Nở có thể sống yên ổn với hắn
thì sao người khác không thể được. Họ có thể thấy rằng hắn cũng có thể
57