1. Trang chủ >
  2. Khoa học xã hội >
  3. Văn học - Ngôn ngữ học >

5 Nhân vật Hồ Tôn Hiến

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (916.08 KB, 98 trang )


nhau” mặt sắt- ngây”. Cách sắp xếp đó đã góp phần không nhỏ trong việc tô

đậm tính cách nhân vật, tạo ra sự khác biệt trong việc thực hiện các bức chân

dung nhân vật.

Chọn vẽ Hồ Tôn Hiến vào thời điểm Từ Hải chết trận, Kiều phải dâng

rượu hầu đàn, Nguyễn Du như muốn khẳng định sự đối nghịch về đạo đức:

đê hèn, xảo quyệt, vụ lợi điểu cáng hoàn toàn tương phản với cái đẹp của sự

hy sinh, lòng trung thực, sự thuỷ chung. Kiều khuyên Từ ra hàng là xuất phát

từ cái đức. Hồ Tôn Hiến lật lộng đánh lén để chiến thắng và bắt vợ của người

chiến bại hầu rượu mua vui là phi đạo đức. Rõ ràng chất người của Kiều

càng cao thì chất người của Hồ Tôn Hiến càng không có. Cũng là bức vẽ về

nhân vật Hồ Tôn Hiến nhưng bức vẽ:

Đẩy xe vâng chỉ đặc sai

Tiện nghi bát tiễu, việc ngoài đổng nhung.

thì “người ta thấy hoạ sĩ vẽ bức tranh này là một nhà hoạt hoạ trào phúng

đến ghê gớm! Tiện nghi, bát liễu, việc ngoài, đổng nhung, thanh la, não bạt

đập gõ loèng xoèng, nhưng mi là một tên gian đối…” [ 45, tr.115].Hình ảnh

tên quan tổng đốc trọng thần gợi ta nhớ đến ông quan phủ xử kiện Thuý

Kiều:

Trông lên mặt sắt đen sì,

Lập nghiêm trước đã, ra uy nặng lời:

Nếu vị quan phủ nghiêm túc thì Hồ Tôn Hiến lại đánh mất hoàn toàn

uy nghiêm của bậc cha mẹ dân. Cái vẻ “ngây” của hắn đủ để diễn tả sự giả

dối, vô đạo của tên mệnh quan triều đình.

Như vậy, ngoại hình của nhóm nhân vật phản diện đều được Nguyễn Du

tả chân, tả thực ở những mức độ khác nhau. Tác giả không sử dụng các công

thức ước lệ tượng trưng cho việc miêu tả ngoại hình nhân vật phản diện. Đối

với loại nhân vật này, Nguyễn Du đã cố gắng làm cho nó gần gũi với đời



43



sống, với hiện thực. Vấn đề cá thể hoá nhân vật bước đầu đã được đặt ra.

Nhà thơ cũng bước đầu nhận thức được một cách hiện thực mối tương quan

giữa hoàn cảnh, môi trường và tính cách của nhân vật. Đặc biệt, bút pháp của

nhà thơ khi xây dựng nhân vật phản diện này thường nổi rõ tính chất hiện

thực chủ nghĩa .

Tóm lại, việc so sánh ngoại hình hai loại nhân vật như trên cho thấy,

nhân vật chính diện được tả bằng các công thức ước lệ, tượng trưng-các ngôn

từ và hình ảnh ước lệ này thường được lấy từ thế giới thiên nhiên, nhân vật

được đặt vào môi trường thiên nhiên. Ngược lại, nhân vật phản diện thường

được tả thực, tả chân với những chi tiết cụ thể, giống thực. Đây là một hiện

tượng phổ biến của thi pháp tả nhân vật chính diện trong các truyện thơ Nôm

bác học. Trong Sơ kính tân trang, một truyện thơ xuất hiện trước Truyện

Kiều, ta cũng gặp sự phân biệt như thế. Trần Nho Thìn đã nhận xét : “thậm

chí xu hướng tả thực, xu hướng đặt nhân vật phản diện vào trạng thái hằng

ngày, cụ thể, giống như thật ở đây còn thể hiện mạnh mẽ, rõ rệt hơn cả ở

Truyện Kiều. Tác giả dừng lại quan sát và miêu tả rất tỷ mỷ nhân vật này, đặt

biệt là trang phục của viên đô đốc :

“Ông đô đốc chốn kinh kỳ,

Nghe đồn Quỳnh Ngọc dung nghi khác vời.

Sắm sanh tử tế lạ đời,

Lọng xanh buông chỉ, võng mai ngáng ngà.

Rỡ ràng bộ đẫy cẩm hoa,

Xênh sang áo thắm, nhởn nhơ quần điều.

Giáo ngà gươm bạc dập dìu,

Đôi khiên đủng đỉnh, cặp hèo nghênh ngang.

Luân thêu, thắm vấn hoang mang,

Phập phèo thuốc giấy, ngó càng đẹp trai.



44



Ống nhổ bạc, tráp ngà voi,

Lò hương đồng bạch, nón quai đồi mồi.”

Có lẽ các nhà văn hiện thực cũng không thể làm hơn so với Phạm Thái trong

việc tả phục sức của nhân vật. Đáng chú ý hơn nữa, Phạm Thái tái hiện cả

phương ngữ miền Trung của nhân vật phản diện :

“Gửi thôi ông dạy làm vầy :

“Ta nghe chúng nói ông rầy có con.

Vậy nên tính chuyện cầu hôn,

Mần răng tính đó cho tròn mới xong”

... Ông nghe thấy nói trái tai:

Đù oả sấu đá Đồng Nai ngầy ngà.

Đây không đáng rể ông già,

Gớm gan đô đốc có là chi mô.”

Tính chất cụ thể, giống thực của việc miêu tả nhân vật phản diện trong các

tác phẩm trên chứng tỏ so với nhà văn hiện thực, các tác giả thời trung đại

hoàn toàn không thiếu năng lực quan sát và thể hiện cuộc sống dưới hình

thức của bản thân đời sống. Nếu như họ không áp dụng phương thức thể hiện

này cho nhân vật chính diện thì rõ ràng có những lý do riêng”[48, tr.113]. Lý

do riêng ấy là gì ? Cũng theo sự giải thích của Trần Nho Thìn, sự khác biệt

này giữa ngoại hình hai nhân vật bắt nguồn từ quan niệm văn hóa phương

Đông thời trung đại về nhân cách. Đó là quan niệm lý tưởng hóa thiên nhiên,

coi thiên nhiên là trong sạch, là cao quí, còn xã hội bị xem là bụi trần, bụi

hồng. Ông viết: “Bản thân sự phân biệt đối xử trong phương thức thể hiện

dành cho hai loại nhân vật chính diện và phản diện đã nói lên một quan niệm

thẩm mỹ hết sức độc đáo của các nhà nho xưa. Đến lượt mình, quan niệm

thẩm mỹ này lại bắt nguồn từ quan niệm có tính chất triết học – tôn giáo về

nhân cách của nhà nho. Vì là nguồn gốc đẻ ra nhân cách cao quý nên theo



45



quan niệm nho gia, thiên nhiên là mẫu mực, là lý tưởng, là cái đẹp, cái hoàn

mỹ. Mặt khác, chỉ có những con người cao quý mới xứng đáng sánh cùng

thiên nhiên, đối diện với thiên nhiên. Những kẻ độc ác, xấu xa vĩnh viễn bị

cầm tù, lưu đầy trong phạm vi cuộc sống xã hội, trong cái hằng ngày, trần tục

bụi bặm, đáng khinh đáng ghét” [48, tr.114].



Tiểu kết

Ngoại hình nhân vật trong văn học trung đại được miêu tả theo một hệ

thống thi pháp riêng. Đặc điểm của việc miêu tả ngoại hình nhân vật trong

Truyện Kiều cần được phân tích và lý giải trong ngữ cảnh văn hóa, văn học

thời trung đại. Kinh nghiệm tiếp cận nghệ thuật miêu tả ngoại hình nhân vật

Truyện Kiều cho thấy, không thể áp dụng cách phân tích văn học hiện đại

như một số nhà nghiên cứu đã làm cho tác phẩm trung đại này. Hai kiểu loại

nhân vật được miêu tả bằng hai bút pháp khác nhau biểu hiện một quan niệm

đặc điểm thẩm mỹ thống nhất chứ không nên xem một loại nhân vật (nhân

vật phản diện) là biểu hiện của chủ nghĩa hiện thực còn loại nhân vật kia

(nhân vật chính diện) là biểu hiện của những ràng buộc của mỹ học phong

kiến.



46



Chương 2: NGOẠI HÌNH NHÂN VẬT TRUYỆN NGẮN CỦA NAM

CAO.

Ngày nay, giới nghiên cứu thường nhìn cả thế kỷ XX như là thời kỳ

của văn học Việt Nam hiện đại. Văn học hiện đại ở Việt Nam hình thành và

phát triển như là một sản phẩm, kết quả của quá trình tiếp biến, giao lưu văn

hóa và văn học phương Đông –phương Tây.

Nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn đã có một chủ trương theo chúng tôi

là hết sức quan trọng về nội hàm cũng như ý nghĩa của khái niệm “văn học

hiện đại”: “Chúng tôi không đối lập văn học Việt Nam trước và sau năm

1945 (đó là một việc khác ai đó sẽ làm trong một dịp khác), mà tìm cách đối

lập toàn bộ văn học Việt Nam thế kỷ XX với nền văn học từ thế kỷ XIX trở

về trước, đối lập văn học hiện đại với văn học trung đại. Đây cũng là hướng

nghiên cứu cần thiết và có thể nói là có hứa hẹn” [32, tr. 22]. Tất nhiên, khái

niệm “đối lập” của Vương Trí Nhàn cần được hiểu tương đương với biện

pháp khu biệt, so sánh để tìm sự khác biệt, để xác định tính loại hình của hai

nền văn học trung đại và hiện đại. Hướng nghiên cứu so sánh mà luận văn

của chúng tôi theo đuổi chính là tìm cách đặt việc miêu tả ngoại hình nhân

vật của Nam Cao-một tác giả tiêu biểu cho văn học hiện đại trong thế “đối

lập” với việc miêu tả ngoại hình nhân vật của Nguyễn Du –một tác giả tiêu

biểu cho văn học trung đại.

Nam Cao là một trong những tác giả xuất sắc của văn học hiện đại

Việt Nam giai đoạn trước 1945. Sáng tác của Nam Cao đã vượt qua được

những thử thách khắc nghiệt của thời gian. Thời gian càng lùi xa, những tác

phẩm của ông càng bộc lộ ý nghĩa hiện thực sâu sắc, tư tưởng nhân đạo cao

cả và vẻ đẹp nghệ thuật điêu luyện, độc đáo.

Trong số các nhà văn hiện thực, ông là cây bút có ý thức sâu sắc nhất về

quan điểm nghệ thuật của mình. Ông phê phán khá toàn diện và triệt để tính



47



chất thoát ly, tiêu cực của văn chương lãng mạn đương thời, coi đó là

thứ “ánh trăng lừa dối”, đồng thời yêu cầu nghệ thuật chân chính phải trở về

với đời sống, phải nhìn thẳng vào sự thật, nói lên được nỗi thống khổ của

hàng triệu nhân dân lao động lầm than (Giăng sáng).

Xuất hiện trên văn đàn khi trào lưu hiện thực chủ nghĩa đã đạt được

nhiều thành tựu xuất sắc, Nam Cao ý thức sâu sắc rằng: “Văn chương chỉ

dung nạp được những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn

chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa có” (Đời thừa). Và Nam Cao đã

thực sự tìm được cho mình một hướng đi riêng trong việc tiếp cận và phản

ánh hiện thực. Nếu như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố những nhà văn hiện thực xuất sắc thời kỳ Mặt trận dân chủ (1936 - 1939) đều

tập trung phản ánh trực tiếp những mâu thuẫn, xung đột xã hội thì sáng tác

của Nam Cao - đại biểu ưu tú nhất của trào lưu hiện thực chặng đường cuối

cùng (1940 - 1945), trừ truyện ngắn Chí Phèo (mà theo tôi là dư âm còn sót

lại của thời kỳ 1936 - 1939) trực tiếp đề cập tới xung đột giai cấp, còn các tác

phẩm khác đều tập trung thể hiện xung đột trong thế giới nội tâm của nhân

vật. Hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ không tạo điều kiện cho Nam Cao đi

thẳng vào những vấn đề cấp bách nhất của xã hội, không trực tiếp miêu tả

những sự kiện có ý nghĩa xã hội lịch sử rộng lớn. Nhiều tác phẩm của ông

được dệt lên bằng toàn những “cái hàng ngày” chủ yếu liên quan đến cuộc

sống riêng tư của các nhân vật, những sự kiện vặt vãnh, nhỏ nhoi, tủn mủn

mà nhà văn gọi là “những chuyện không muốn viết”. Chưa bao giờ cái vặt

vãnh hàng ngày lại có một sức mạnh ghê gớm như trong sáng tác của Nam

Cao. Chỉ có tiếng con khóc, tiếng vợ gắt gỏng cũng đủ sức lôi tuột văn sĩ

Điền đang nhởn nhơ trên chín tầng mây với ánh trăng giống như “cái vú mịn

tròn đầy” xuống mặt đất với biết bao cực khổ lầm than (Giăng sáng). Từ

những chuyện vụ vặt đời thường, Nam Cao đã thực sự động chạm đến vấn đề



48



có tính chất nhân bản, đã đặt ra những vấn đề sâu sắc về cuộc sống, về thân

phận của con người, về vấn đề cải tạo xã hội, về tương lai của dân tộc và

nhân loại. Bi kịch của đời thường, của những cái vặt vãnh hàng ngày, qua

ngòi bút đầy tài năng của Nam Cao đã trở thành những bi kịch vĩnh cửu.

Ở bất cứ một lĩnh vực, một đề tài nào Nam Cao cũng thành công với

những sáng tác mang ý nghĩa hiện thực sâu sắc và vẻ đẹp nghệ thuật điêu

luyện, độc đáo. Cả hai lĩnh vực viết về người nông dân và trí thức, Nam Cao

đều để lại cho đời những tác phẩm bất hủ đi vào lòng người.

Khi bàn đến đặc điểm phong cách nghệ thuật Nam Cao, nhiều nhà

nghiên cứu, phê bình đều đề cập đến nghệ thuật miêu tả nhân vật, trong đó có

việc miêu tả ngoại hình nhân vật. Như đã trình bày ở phần mở đầu, không

phải bất cứ nhân vật nào cũng được Nam Cao miêu tả ngoại hình. Và như

Nguyễn Đăng Mạnh đã nhận xét, Nam Cao thiên về miêu tả tâm lý nhân vật

nhiều hơn là tả ngoại hình, trừ một số trường hợp. So với nhân vật trí thức thì

nhân vật nông dân thường được ông miêu tả ngoại hình thành công hơn.

“Khi xây dựng nhân vật người trí thức, Nam Cao có thói quen rất ít khi miêu

tả ngoại hình”[41, tr.177]. Trong những tác phẩm viết về đề tài nông dân,

ông đã có cách tả ngoại hình nhân vật khá tỉ mỉ để thể hiện những phẩm chất,

tính cách bên trong của mỗi nhân vật. Vì vậy để tìm hiểu chân dung ngoại

hình nhân vật trong truyện ngắn của Nam Cao, chúng tôi sẽ tìm hiểu cách tả

ngoại hình một số nhân vật thành công trong một số tác phẩm tiêu biểu về đề

tài nông dân như Chí Phèo, Lão Hạc v.v. để làm đối tượng nghiên cứu trong

chương này.

1. Ngoại hình nhân vật chí Phèo

Trong văn học đương thời, hình tượng người nông dân là nguồn cảm

hứng khá phổ biến và niềm quan tâm của nhiều người cầm bút, từ Phạm Duy

Tốn đến Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng .... cùng thể hiện



49



đề tài quen thuộc ấy nhưng với nỗ lực của mỗi nhà văn "đào sâu tìm tòi, khơi

những nguồn chưa ai khơi với sáng tạo nhưng gì chưa có”, Nam Cao không

đi vào những cảnh sưu thuế nặng nề, những cảnh áp bức bóc lột đối với

người nông dân như các nhà văn hiện thực khác, và cũng không miệt thị

người nông dân như nhiều cây bút lãng mạn lúc bấy giờ, mà lặng lẽ đi sâu

thể hiện quá trình tha hóa, quá trình lưa manh hoá của những người dân hiền

lành lương thiện. Điều này chúng ta có thể tìm thấy ở nhân vật Chí Phèo

trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao. Thông qua nhân vật Chí Phèo, nhà

văn muốn phán ánh một vấn đề xã hội, vấn đề có tình quy luật phổ biến của

đời sống nông thôn. Những nhân vật của Nam Cao được thể hiện rất thành

công cả trên cả 2 phương diện ngoại hình và tính cách. Nhưng trong khuôn

khổ của luận văn chúng tôi chỉ quan tâm đến ngoại hình nhân vật Chí Phèo,

đến sự tương ứng giữa ngoại hình và tính cách.

1.1 Ngoại hình của Chí Phèo khi bắt đầu tha hoá:

Tuy Chí Phèo là nhân vật chính của tác phẩm song ta thấy Nam Cao

không lý tưởng hóa nhân vật mà cố gắng miêu tả một cách khách quan. Đây

là một hiện tượng mới, khác về bản chất so với văn học trung đại.

Viết Chí Phèo, Nam Cao đã ném ra cuộc đời một thằng cùng hơn cả

dân cùng: không cha - không mẹ - không họ hàng thân thích- không tấc đất

cắm dùi - không không tên – không tuổi. Chí hoặc là một món hàng sống

hoặc là một kiếp làm thuê bị bóc lột về sức và xúc phạm về nhân phẩm. Dù

vậy lai lịch của đứa con hoang bị bỏ rơi và kiếp sống làm thuê không làm

cho Chí Phèo bị lưu manh hoá. Chí vẫn lớn lên bằng bản chất hiền lành

lương thiện của người dân lao động cho đến năm 20 - 21 tuổi.

Chí Phèo chỉ thực sự thay đổi từ sau khi ở tù về. Nhà tù thực dân đã khởi

đầu cho quá trình lưu manh hoá người nông dân biến người nông dân –

người lương thiện thành kẻ côn đồ. Nguyên nhân đẩy Chí đi ở tù có thể do sự



50



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

×